23 Tháng Mười Hai
Từ phố Charing Cross rẽ xuống, tôi bước vào hiệu tem Bernard Kriebel ở Cecil Court. Chuông gió rung lên, không khí sặc mùi thuốc tẩu bao quanh tôi. Cửa hiệu dài, hẹp, có tủ chính giữa trưng bày các loại tem hạng trung, như kệ đựng đĩa LP. Các món đắt đỏ hơn ngụ trong tủ khóa kín áp dọc tường. Tôi cởi khăn quàng, cặp da cũ vẫn đeo choàng qua cổ. Đài radio đang ngân nga vở Don Giovanni, Màn 2. Bernard Kriebel đóng bộ vải tweed màu xanh lá cây, cà vạt màu xanh tím than, liếc quanh gã khách hàng đang đứng ở bàn, nhìn về phía tôi để chắc rằng tôi không phải kẻ gian tham: tôi khẽ gật đầu, ra ý ông-cứ-thong-thả rồi đứng cách một khoảng tế nhị, ngắm bộ tem sống Penny Black đặt trong tủ có điều chỉnh độ ẩm. Không lâu sau đó gã đứng trước tôi đã ra vẻ bực mình thấy rõ: “Ông nói giả là giả thế nào?”
“Món này chừng một trăm ngày tuổi,” ông chủ hiệu gỡ mắt kính thanh mảnh, dụi con mắt lèm nhèm, “hơn là một trăm năm tuổi.”
Gã khách hàng đưa tay ngắt nhéo không khí, như một gã người Ý trong hài kịch: “Còn màu thuốc nhuộm đã phai thì sao? Giấy ố nâu? Giấy đó đâu phải loại mới!”
“Giấy cũ đâu có khó tìm – mặc dù sợi giấy đan chéo thì có vẻ thời những năm 1920 hơn là 1890.” Thứ tiếng Anh thong thả của Bernard Kriebel có chút thô tháp kiểu dân Đông Âu: Kriebel vốn là dân Nam Tư, như tôi tình cờ biết được. “Chiêu nhúng giấy vào trà loãng xưa rồi. Chỗ loang lổ hẳn phải mất công nhúng nhiều đêm mới ra, tôi phải thừa nhận – nhưng với giá thị trường hai lăm nghìn bản thì bỏ công thế cũng đáng. Mực in rõ là hàng hiện đại – Màu hung đỏ Winsor & Newton Burnt Sienna? - pha loãng, hơi loãng thôi. Cũng khá chắc tay đấy.”
Một giọng dỗi the thé, ra vẻ kinh ngạc: “Ông nói tôi làm đồ giả sao?”
“Tôi nói có người làm, không phải anh. Thú vị thế đấy.”
“Ông đang cố hạ giá xuống. Nói thế cho xong.”
Kriebel nhăn nhó, bực ra mặt. “Một tay nghiệp dư ở chợ Portobello có thể bị cắn câu, hoặc dân hội chợ tem xu di động chẳng hạn. Bây giờ, vô phép anh, anh Budd à, có khách hàng thực sự đang đợi.”
Gã Budd rên một tiếng gaagh rồi đùng đùng bỏ ra. Gã cố đóng cửa đánh sầm, nhưng cửa ở đây không đóng kiểu đấy được – rồi biến luôn. Kriebel lắc đầu, ngán ngẩm sự đời.
Tôi hỏi, “Bọn làm đồ giả có hay mang hàng đến đây mồi ông không?”
Kriebel chu miệng hóp má, ra vẻ ông ta không muốn trả lời câu hỏi. “Tôi biết mặt cậu…” ông ta lục cuộn danh thiếp Rolodex tưởng tượng trong trí nhớ “…Cậu Anyder. Cậu có bán cho tôi một bộ tám con Đảo Pitcairn hồi tháng Tám. Bộ đẹp, sạch.”
“Hi vọng ông vẫn khỏe, ông Kriebel.”
“Cũng tàm tạm. Học hành sao rồi? Luật khoa ở trường UCL, đúng không?”
Tôi nghĩ ông ta đang cố bẫy tôi. “Vật lý thiên văn ở trường Imperial.”
“À ra vậy. Thế cậu đã tìm ra sự sống hữu tri nào trên đấy chưa?”
“Cũng chả khá hơn dưới này bao nhiêu, ông Kriebel à.”
Ông ta mỉm cười trước câu đùa sáo và nhìn túi xách của tôi. “Chiều nay cậu mua hay bán thế?”
Tôi lấy kẹp hồ sơ màu đen ra, gỡ một dải bốn con tem.
Bút bi trong tay Kriebel gõ tách-tách-tách trên mặt tủ.
Cao thủ chơi tem và chiếc đèn bàn cổ gấp cùng ghé sát lại.
Bút bi ngừng bặt. Cặp mắt già nua của Bernard Kriebel nhìn về phía tôi, vẻ dò xét, vậy là tôi vanh vách: “Bốn con nửa đồng Anna Ấn độ màu xanh đậm; 1854 hoặc 1855; từ lề phải tờ tem; có ít dấu ở mép; còn mới tinh; chưa sử dụng. Tôi làm ăn không tệ chứ?”
“Cũng được đấy.” Ông ta tiếp tục kiểm tra bằng một chiếc kính lúp đúng mốt Sherlock Holmes. “Tôi cũng sẽ chẳng vờ rằng ngày nào cũng có món này. Vậy cậu… tính giá cả sao?”
“Tháng Sáu rồi nhà đấu giá Sotheby’s bán một con đã đóng dấu với giá hai nghìn một trăm bảng. Nhân bốn, được tám nghìn bốn trăm. Cộng năm mươi phần trăm do bộ còn mới nguyên, thì ta được khoảng mười ba nghìn. Tuy nhiên. Ông đây còn phải lo điện nước London đắt đỏ, mà lại luôn trả tiền tươi, mà tôi thì hi vọng sẽ còn trở lại đây nữa, ông Kriebel à.”
“Ồ, tôi nghĩ từ giờ trở đi cậu cứ gọi tôi là Bernard thôi.”
“Vậy thì gọi tôi là Marcus, tôi tính mười nghìn.”
Kriebel đã quyết định sẽ chấp nhận, nhưng vẫn giả vờ dền dứ, cho phải phép: “Tem Khối thịnh vượng chung dạo này hơi chựng lại.” Ông chủ hiệu châm tẩu, khúc aria chấm dứt. “Tôi cố lắm cũng chỉ được tám nghìn rưỡi thôi.”
“Lạnh thế này mà chạy đuổi theo tôi ở Quảng trường Trafalgar thì chẳng hay ho gì, Bernard ạ.”
Ông chủ thở dài qua lỗ mũi lông lá. “Bà vợ tôi sẽ xé xác tôi mất, cái tội dễ mềm lòng, nhưng ta cần khích lệ người chơi tem trẻ tuổi. Vậy thì ráng thêm chút nữa nhé: chín nghìn hai trăm năm chục?”
“Mười là con số tròn trịa, đơn giản hơn nhiều.” Tôi quàng khăn lên cổ.
Một cái thở dài cuối cùng. “Thôi thì mười vậy.” Cả hai bắt tay. “Anh nhận séc chứ?”
“Vâng, nhưng Bernard này…” ông ta quay lưng chỗ cửa về hướng các ngăn kéo “…nếu là ông, chẳng lẽ ông lại giao mấy con nửa đồng Anna báu bở trước khi nhận tiền sao?”
Bernard Kriebel nghiêng đầu ghi nhận tính chuyên nghiệp của tôi. Ông ta đưa lại mấy con tem rồi mới đi viết séc. Một chiếc xe buýt rên rỉ, ì ạch lê lết trên phố Charing Cross như kẻ có bệnh sắp chết. Quỷ dữ kéo Don Giovanni xuống địa ngục: số phận chung của bọn dân chơi nửa mùa, không liệu việc đến nơi đến chốn.
Tôi lượn qua Soho tràn ngập không khí Giáng Sinh, om sòm, bốc khói và tuyết tan lốp xốp dễ trượt chân, rồi băng qua đám xe cộ lạnh lùng bát nháo trên phố Regent, đến văn phòng kín đáo của ngân hàng Suisse Integrité Banc, nằm gọn sau quảng trường Berkeley. Tên khỉ đột làm bảo vệ giữ tấm cửa chống đạn cho tôi bước vào, gật đầu tỏ ý đã nhận ra: Tôi có hẹn trước. Khi đã vào trong tòa nhà rộng rãi sơn màu kem đầy nội thất gỗ gụ, tôi gởi tấm séc cho cô nhân viên be bé xinh xinh ở bên kia quầy gỗ bóng, cô này không hỏi gì ngoài câu “Chào ông Anyder, ông khỏe chứ?” Cạnh máy tính của cô là một lá cờ Thụy Sĩ nho nhỏ, khi cô điền tờ khai tiền gởi, tôi tự hỏi liệu Madam Constantin, một người Thụy Sĩ kín kẽ có từng ngồi trên chiếc ghế êm ái này chăng. Tôi cứ nghĩ mãi đến buổi tao ngộ lạ lùng ở nhà thờ trường King’s hôm ấy, mặc dù từ đó đến giờ tôi không hề bị choáng thêm lần nào. “Gặp ông lần sau nhé, ông Anyder,” cô nhân viên nói, và tôi đồng ý, sẽ còn gặp lần sau. Tiền nong là chuyện nhỏ, nhưng khi ra về tôi vẫn thấy khá ấm cật: khi séc của Kriebel đã được thanh toán, tài khoản của tôi sẽ vượt quá ngưỡng năm mươi nghìn. Đương nhiên, chỗ này chỉ là cái móng chân trong kho bạc của Integrité, nhưng cũng là một món kha khá đối với cậu sinh viên chưa ra trường đã tự thân vận động. Rồi món đấy sẽ còn sinh sôi nảy nở tiếp. Phân nửa đám đồng môn Humber của tôi – trừ khi có bố mẹ vừa giàu vừa rộng rãi, đang ngập ngụa trong nợ nần mà không chịu mở mắt ra. Năm năm đầu tiên sau khi ra trường chúng sẽ phải há mõm mà đớp bất cứ thứ gì đời ném vào, vừa đớp vừa tưởng tượng đấy là trứng cá hảo hạng.
Tôi thì không. Tôi ném trở lại. Mạnh tay hơn.
Trong lối đi có mái che gần vòng xoay Piccadilly Circus, hai người đàn ông mặc complet và áo mưa đang đứng chặn cửa, ra rả mắng một người ngồi trong góc khuất. Những ô cửa sổ rực sáng của hiệu Tower Records phản chiếu xuống lớp mưa tuyết mỏng, dân đi tàu buổi sớm đổ vào ga Piccadilly Circus, nhưng tôi chợt nổi cơn tò mò. Giữa hai tấm lưng ấy tôi thoáng thấy một tên xù xì như dã nhân Yeti ngồi co ro ở lối vào. “Chiến lược kinh doanh hay đấy chứ,” một gã vận complet lên tiếng. “Mày thấy người ta mua hoa ở đằng kia rồi thộp cổ họ ở đây để xin tiền, khiến họ không thể bỏ đi mà không áy náy.” Kẻ quấy rối nghe như đang say xỉn. “Tụi tao cũng làm marketing đó, hiểu không. Vậy tỉ lệ cắn câu của mày là bao nhiêu?”
“Tôi…” tên người tuyết chớp mắt, sợ sệt “…tôi không câu ai cả.” Hai kẻ hành hạ nhìn nhau cười hô hố: nghe chẳng tử tế gì.
“Tôi… tôi chỉ… xin tiền lẻ thôi. Một đêm ở nhà trọ tốn mười ba bảng.”
“Vậy thì cạo râu sạch sẽ, rồi đi làm cửu vạn!”
“Không ai thuê tôi nếu tôi không có địa chỉ ổn định.”
“Vậy thì kiếm một cái địa-chỉ-ổn-định đi. Giời ạ”
“Không có việc thì người ta không cho thuê phòng ở.”
“Thằng này gì cũng lý do lý trấu được, Gaz nhỉ?”
“Ê. Ê. Muốn có việc không? Tao thuê mày đó. Muốn không?”
Tên bặm trợn hơn cúi xuống: “Đồng nghiệp của tao vừa hỏi mày, hỏi đàng hoàng tử tế, rằng mày muốn làm việc không đấy.”
Dã nhân nuốt khan, gật đầu. “Là việc gì vậy?”
“Nghe chưa, Gaz? Ăn mày cũng đòi xôi gấc đó chứ.”
“Thu tiền,” Gaz đáp. “Mười bảng một phút, đảm bảo.”
Dã nhân khẽ giật cơ mặt. “Vậy tôi phải làm gì?”
“Đã nói rồi đấy.” Hai tên bắt nạt quay lưng, rồi tung một mớ đồng xu xuống giữa đường xe cộ đang gầm gú về phía Piccadilly Circus. “Thu nhặt chỗ tiền chết dịch đó đi, Einstein!” Mấy đồng xu lăn giữa bánh xe, chui dưới gầm xe, vương vãi trên những rãnh băng tuyết bẩn thỉu. “Nhìn kìa, chẳng phải đường sá ở London được lót vàng đó sao.” Hai kẻ tra tấn lỉnh đi, đắc chí khoái trá, để lại gã dã nhân teo tóp, còn mải tính xem khả năng lượm được xu mà không bị xe buýt cán là bao nhiêu. “Đừng,” tôi nói với dã nhân.
Gã lườm tôi. “Anh đi mà ngủ bờ bụi rồi biết.” Tôi rút ví ra, đưa cho gã hai tờ hai mươi bảng.
Gã nhìn chỗ tiền, rồi nhìn tôi.
Tôi nói, “Ba đêm ở nhà trọ, đúng không?”
Gã cầm tiền, đút vào bên trong áo khoác bẩn thỉu. “Đa tạ.”
Bố thí cúng dường xong, tôi để ga Piccadilly Circus hút mình vào, trong một cơn lốc xoáy đầy mùi cơ thể người và hơi thở.
Câu cú cũng dễ hiểu: “Người ta từng tưởng tượng ra những nền cộng hòa, những lãnh địa chưa bao giờ có trên đời. Thế nhưng cách người ta thực sống ở đời lại quá khác xa so với cách người ta nên sống, đến nỗi những ai bỏ qua thực tế để chạy theo nguyên tắc đạo đức thì sẽ phải chịu lụi tàn, đừng mong giữ được số mạng; một người làm gì cũng cố giữ đạo đức thì coi như đã cầm sẵn án tử, bởi ở đời có lắm những kẻ bất nghĩa.”[17] Chính bởi thứ chủ nghĩa thực dụng trần trụi ấy, Niccolò Machiavelli từng bị Đức Hồng y giáo chủ Pius X lên án là tông đồ của quỷ sứ. Sau ga Earl’s Court, toa tàu tròng trành trồi lên khỏi mặt đất trong thứ ánh sáng hấp hối cuối ngày. Nhà máy khí đốt và những nóc nhà kiểu thời Edward, ống khói và ăng ten, một bãi đỗ xe siêu thị, biển Cho Thuê Mặt Bằng. Khách đi tàu nghiêng ngả như những súc thịt bò, rũ rượi như xác chết: bọn cu li bàn giấy mắt đỏ ngầu, tai cắm máy nghe đĩa Discman; lớp béo hơn, khoảng tứ tuần thì chúi mũi vào tờ Evening Standard; còn những phiên bản sắp nghỉ hưu thì đưa mắt nhìn về phía tây London, tự hỏi đời mình trôi qua từ lúc nào. Ta là cái Hệ Thống mà các người phải đánh bại, toa tàu rầm rập lải nhải. Ta là cái Hệ Thống mà các người phải đánh bại. Nhưng “đánh bại cái hệ thống” ấy nghĩa là gì?
Trở nên đủ giàu có để mua lấy tự do của chính mình, thoát cảnh cày bừa nhục nhã mỗi ngày? Một chiếc tàu trên đường ray song song chạy vượt qua, đủ chậm để tôi nhận ra tên cu li trẻ tuổi, dân tài chính ngồi trong đó. Rồi sang năm tôi cũng trở thành hắn, hắn ta ngồi áp sát vào cửa sổ, cách tôi chỉ có một mét. Da mịn, áo quần bảnh bao, cặp mắt mệt mỏi. Dòng chữ Làm giàu nghiêm túc trước khi ba mươi tuổi in trên bìa tạp chí trên tay. Hắn ta nhìn lên, trông thấy tôi. Hắn ta nheo mắt nhìn cuốn sách Penguin tôi cầm, cố đọc cho ra tựa sách, nhưng tàu hắn đã trườn qua một đường ray khác.
Nếu tôi còn ngờ rằng ta không thể đánh bại cái hệ thống ấy bằng cách cố trèo lên cao, thì tôi lại biết chắc rằng chẳng thể nào đánh bại nó nếu bỏ cuộc. Còn nhớ vụ Rivendell không? Mùa hè trước khi tôi nhập học ở Cambridge, bọn bạn rủ đi xả láng ở hộp đêm Thế Gian Bềnh Bồng dưới Camden. Tôi chơi thuốc lắc và cặp với một ả trông như dân bụi đời, tô son đỏ màu máu khô, áo quần kết bằng mạng nhện đen. Gái nhện và tôi bắt taxi về chỗ của ả: một thứ công xã đặt tên Rivendell, thực ra là cái nhà hoang xuống cấp ở cuối dãy nhà liên kế, cạnh một nhà máy tái chế giấy. Gái nhện và tôi vui vẻ trong tiếng nhạc từ đĩa LP thời đầu của Joni Mitchell hát hò về những con mòng biển, rồi gật gà ngủ ngáy đến trưa. Sau đó tôi được dẫn xuống nhà dưới, đến Phòng Lãnh chúa Elrond, ăn cà ri đậu lăng và nghe“lớp tiên phong” của khu nhà hoang giảng rằng cái công xã này là một tiền đồn của tương lai hậu tư bản chủ nghĩa, khi dầu mỏ và tiền bạc đã cạn kiệt. Với bọn này mọi thứ “trong hệ thống” đồng nghĩa với xấu – và “ngoài hệ thống” nghiễm nhiên là tốt. Khi có một đứa hỏi, rằng tôi muốn làm gì trong cuộc ngao du cõi tạm, tôi vu vơ về truyền thông nọ kia và ngay lập tức bị dội nguyên một đợt tổng sỉ vả, rằng truyền thông chính thống chia rẽ con người, chứ không nối kết họ. Gái nhện kể với tôi “Ở Rivendell này, tụi tôi thực sự trò chuyện với nhau, cùng chia sẻ những câu chuyện từ các nền văn hóa thông thái hơn, như người Inuit vậy. Tri thức là thứ tiền tệ tối thượng.” Khi tôi ra về, ả hỏi “vay” hai mươi bảng để đi siêu thị Sainsbury’s mua vài món. Tôi khuyên ả khi đến quầy tính tiền thì cứ kể lại một chuyện cổ tích Inuit nào đó, bởi tri thức là thứ tiền tệ tối thượng kia mà. Ả đáp trả, có chỗ đậm màu nữ quyền cấp tiến, nhưng hầu hết là chửi thề văng mạng kiểu Anglo-Saxon. Ngoài món rận mu và chứng dị ứng nhạc Joni Mitchell cho đến ngày nay, Rivendell còn tặng tôi bài học rằng “đứng ngoài hệ thống” cũng đồng nghĩa với nghèo rớt.
Thì cứ hỏi tên dã nhân ăn mày kia, rằng gã thấy tự do ra làm sao.
Khi gỡ mũ và cởi giày ở bậc cửa, tôi nghe tiếng mẹ ở phòng trước: “Gượm đã. Có khi anh ấy vừa về đấy.” Mẹ xuất hiện, cầm theo điện thoại kéo căng dây. “Ồ, đúng thế! Vừa về đây. Để tôi chuyển máy. Nghe kể mãi mà hôm nay mới nói chuyện lần đầu, Jonny à. Thế chúc cậu Giáng sinh vui vẻ nhé.”
Tôi bước vào nhà, mấp máy miệng “Jonny Penhaligon?”, mẹ gật đầu rồi đi ra, đóng cửa lại sau lưng. Căn phòng trước nhà vốn tối, nay được thắp sáng bởi dây đèn chớp trên cây thông Giáng Sinh, nhấp nha nhấp nhánh. Ống nghe điện thoại đặt trên ghế mây: Tôi áp nó vào tai, nghe tiếng thở hồi hộp của Penhaligon, tiếng nhạc phim Twin Peaks mơ màng vọng qua từ một căn phòng khác ở dinh thự Tredavoe. Tôi đếm ngược từ mười về zéro, chậm rãi… “Jonny! Ngạc nhiên quá! Xin lỗi làm cậu phải đợi.”
“Hugo à, Jonny đây. Chào cậu. Sao rồi?”
“Tuyệt cả. Đã sẵn sàng đón Giáng Sinh. Còn cậu?”
“Không tuyệt lắm, nói thật đấy, Hugo à.”
“Tớ rất tiếc. Tớ giúp gì được không?”
“Ừm… Tớ không biết. Hơi… khó nói.”
“Ô- kê. Nói đi nào.”
“Cậu nhớ hôm rồi, ở chỗ thằng Cóc không? Cậu nhớ khi cậu về thì tớ đã ăn bốn nghìn?”
“Làm gì không nhớ? Sau một tiếng đồng hồ thì tớ thua sạch. Có đâu như Cướp biển xứ Penzance, hả?”
“Ờ, thì… gặp may dật dờ ấy mà.”
“Gặp may dật dờ? Bốn nghìn bảng, nhiều hơn học bổng thông thường đấy.”
“Ờ thì đúng thế. Nên tớ hơi bị hăng tiết, rồi cả món rượu vang nóng nữa, rồi tớ nghĩ sẽ tuyệt làm sao nếu không còn phải đi lạy lục u già mỗi khi tiền trong tài khoản teo tóp… Vậy là, ờ thì, sau khi cậu đi về, Eusebio chia bài, tớ được thùng, toàn con pích, J cao nhất. Tớ cứ chơi trơn tuột – như đang có bài xấu mà cứ giả vờ – cho tới khi trên bàn có hơn hai nghìn bảng.”
“Mẹ kiếp, Jonny. Hơi bị nhiều đấy.”
“Tớ biết. Cả bọn đồng ý vượt giới hạn tiền gà, có ba đứa cứ cược thêm, chẳng ai lùi cả. Rinty chỉ có thú, rồi Bryce Clegg nhìn bộ thùng của tớ, nói, ‘Lại sắp bị cướp biển trấn sạch nữa rồi,’ nhưng khi tớ vừa đưa tay nhặt tiền gà thì hắn thêm vào, ‘Trừ khi tớ có – ôi, gì thế này? Cù lũ.’ Và đúng thế thật. Ba con đầm, hai con át. Đáng ra đến lúc đấy tớ nên ra về, lạy Chúa, ước gì lúc đấy tớ phắng cho rồi. Tớ vẫn còn đang ăn hai nghìn. Nhưng tớ đã thua hai nghìn, vậy là tớ nghĩ chỉ xui tẹo thôi, nếu bình tĩnh tớ sẽ ăn lại tất. Có gan thì chiến, sợ gì. Một ván nữa, tình thế sẽ xoay chuyển… Cóc cứ hỏi tớ có muốn thôi không, nhưng… đến lúc đấy tớ… tớ…” Giọng Penhaligon run rẩy… “đã thua mười nghìn rồi.”
“Trời đất, Jonny. Chơi như người lớn nhỉ.”
“Vậy là cả bọn tiếp tục, tớ cứ thua mãi, rồi tớ không hiểu sao chuông trường King’s lại đổ giữa đêm nhưng thằng Cóc kéo rèm, hóa ra đã sáng trắng. Cóc bảo sòng của nó đến đây đóng cửa nghỉ Giáng Sinh. Nó mời cả bọn ở lại ăn trứng bác, nhưng tớ chẳng thấy đói gì cả…”
“Thắng thua là chuyện thường tình mà. Bài bạc vốn thế.” Tôi ăn ủi hắn.
“Không phải Hugo, cậu không hiểu rồi. Eusebio thua khá đau, nhưng tớ thua… đến dập mặt, rồi khi thằng Cóc viết ra số tiền tớ nợ, tổng cộng là…” tiếng thì thào như bị bóp cổ “…mười lăm nghìn, hai trăm. Thằng Cóc bảo sẽ tính tròn thành mười lăm nghìn cho đẹp số, nhưng…”
“Cậu quân tử thế nên thằng Cóc phải chơi đẹp,” tôi dỗ hắn, nhìn qua tấm màn nhung xanh. Đêm ngoài kia lạnh lẽo một màu chàm với đèn đường hổ phách. “Nó hẳn biết cậu chẳng như bọn hạ lưu ăn vạ, cái thể loại không-trả-đấy-thì-sao.”
Penhaligon thở dài. “Khó là chỗ đấy, cậu hiểu không.”
Tôi vờ ngớ ngẩn. “Nói thật, tớ không hiểu.”
“Mười lăm nghìn bảng thực… nhiều lắm ấy. Nhiều cực.”
“Với hạng tép riu như tớ thì đúng thế, nhưng còn với quý tộc Cornwall lâu đời thì khác chứ, nhỉ?”
“Tớ chẳng có chừng đấy trong… tài khoản chính.”
“Ồ. Ra thế. Nghe này, tớ quen thằng Cóc từ lúc mới đến Cambridge, tớ thề với cậu, chẳng có gì đáng lo đâu.”
Penhaligon lạo khạo lí nhí, khấp khởi hi vọng “Thật sao?”
“Cóc chơi được lắm. Nói với nó, ngân hàng đóng cửa nghỉ Giáng Sinh, cậu không thể chuyển tiền trước năm mới. Nó biết người nhà Penhaligon đã nói là làm.”
Lại nữa. “Nhưng tớ không có mười lăm nghìn bảng.”
Dừng bặt kịch tính, nêm thêm một thìa bối rối và một nhúm kinh ngạc. “Ý cậu là… cậu không có tiền… ở đâu cả?”
“Ừ… không có. Hiện nay thì không. Nếu có, tớ đã trả, nhưng…”
“Jonny. Thôi ngay. Jonny, món này là nợ của cậu. Tớ đã đứng ra đảm bảo cho cậu. Với thằng Cóc. Tớ chỉ nói, ‘Cậu ta là người nhà Penhaligon,’ thế thôi. Thế đã đủ.”
“Chuyện tổ tiên tớ là đô đốc hải quân, tớ sống trong nhà cổ đâu có nghĩa tớ là tỉ phú! Ngân hàng Courtard sở hữu dinh thự Trevadoe, có phải nhà tớ đâu!”
“Được rồi, được rồi. Vậy nhờ u già viết cho tờ séc.”
“Để trả nợ chơi bài? Cậu điên à? Mẹ tớ sẽ từ chối thẳng tay. Này, thằng Cóc thực ra sẽ làm gì nếu… nếu mười lăm nghìn đó…”
“Không không không không không. Cóc vui vẻ đấy nhưng nó là dân làm ăn, tiền tươi thóc thật rồi vui gì thì vui. Thật. Trả đi.”
“Nhưng chỉ là chơi đánh bài thôi mà. Có phải… hợp đồng pháp lý gì đâu.”
“Nợ là nợ, Jonny à. Thằng Cóc tin là cậu nợ nó món này, mà tớ e là tớ cũng nghĩ thế, và nếu cậu không sòng phẳng, thì sẽ biết tay nó. Nó sẽ không chơi trò chặt đầu ngựa bỏ lên giường cậu, nhưng nó sẽ kéo gia đình cậu, kéo cả trường Humber vào, mà bên trường thì rất ghét chuyện bị lôi lên báo lá cải.”
Penhaligon nghe tiếng tương lai vọng về, inh tai khủng khiếp như tiếng hàng tá chai lọ bị kéo lê trên mái của một bãi đỗ xe cao tầng. “Ôi mẹ kiếp. Mẹ kiếp. Khốn thật.”
“Tớ vừa nghĩ đến một khả năng – nhưng thôi, quên đi.”
“Đến nước này thì món gì tớ cũng nghe. Gì cũng nghe.”
“Thôi, quên đi. Tớ biết trước câu trả lời rồi.”
“Nói phứt đi, Hugo.”
Thuyết phục đâu phải là chuyện gây áp lực: mà là cho người ta thấy một cánh cửa, rồi làm sao để hắn ta hay cô ả không kìm lòng được, đành mở ra. “Cái xe thể thao cổ của cậu ấy, Jonny. Alfa Romeo phải không?”
“Aston Martin Coda 1969, đồ cổ, nhưng… bán nó sao?”
“Chuyện không tưởng, tớ biết mà. Tốt hơn cứ đi lạy lục u già.”
“Nhưng… xe đấy của ông cụ nhà tớ. Để lại cho tớ. Tớ quý lắm. Làm sao tớ có thể giải thích chuyện con Aston Martin biến mất?”
“Cậu vốn nhanh trí, Jonny à. Nói với ở nhà rằng cậu muốn thanh lý tài sản, mua trái phiếu nước ngoài ổn định, còn hơn là cứ cưỡi con xe xịn lượn khắp Devon và Cornwall, ngay cả khi đấy là xe của ông cụ. Nghe này – tớ chợt nhớ ra – có một tay chuyên ngạch xe cổ ngay đây, ở Richmond. Rất là kín đáo. Tớ có thể ghé qua trước khi hắn đóng cửa nghỉ Giáng Sinh, rồi hỏi giá cả ra sao.”
Một tiếng thở dài, rùng mình truyền về từ nơi lạnh lẽo ấy, cái xứ sở như ngón chân bị cước của Anh Quốc.
“Tớ đoán cậu không đồng ý,” Tôi nói. “Xin lỗi Jonny, ước gì tớ có thể…”
“Không, không sao. Gặp tay đó đi. Giúp tớ.”
“Vậy cậu có muốn nói chuyện với thằng Cóc hay…”
“Cậu gọi cho nó được không? Tớ… tớ không nghĩ tớ… tớ không…”
“Cứ để đấy cho tớ. Bạn bè lúc hoạn nạn kia mà.”
Tôi quay số thằng Cóc đã thuộc nằm lòng. Vào thẳng hộp thư thoại chỉ sau một hồi chuông. “Cướp biển sẽ bán đấy. Tớ đi Alps sau ngày lễ Boxing, nhưng hẹn gặp cậu tháng Giêng ở Cambridge. Giáng Sinh vui vẻ.” Tôi dập máy, đưa mắt nhìn kệ sách đặt đóng riêng, TV, tủ rượu của bố, bộ bóng đèn bằng thủy tinh thổi của mẹ, tấm bản đồ Richmondupon-Thames cổ, ảnh chụp Brian, Alice, Alex, Hugo và Nigel Lamb ở nhiều độ tuổi và giai đoạn. Tiếng cười nói của bọn họ vọng đến tai tôi, như tiếng nói qua ống truyền từ một thế giới khác.
“Ổn cả chứ Hugo?” Bố xuất hiện ở bậc cửa. “Cậu thứ mới về sao.”
“Chào bố. Là Jonny, bạn học ở Humber ấy mà. Muốn hỏi sách học kinh tế học kỳ tới.”
“Tự giác đáng khen. À, bố để quên chai cognac ở ngoài cốp xe, phải chạy ra…”
“Đừng, bố – ngoài đấy lạnh tê xương mà bố thì vẫn còn bị cảm. Áo con treo ngay móc, để đấy cho con.”
“Ta lại ở đây,” một người đàn ông lên tiếng, ngay khi tôi vừa đóng cánh cửa sau con BMW của bố, “ngay giữa trời đông ảo não.” Suýt chút nữa tôi đánh rơi chai cognac. Gã này mặc áo khoác có mũ trùm, ánh đèn đường hắt qua mũ áo, mặt gã bị khuất. Gã đứng cách lề đường chỉ vài bước, nhưng rõ là đứng ngay trên lối vào nhà tôi.
“Tôi giúp gì được?” Tôi cố cứng giọng.
“Ta tự hỏi.” Gã kéo mũ xuống. Tôi nhận ra dã nhân ăn mày ở vòng xoay Piccadilly Circus, chai cognac trượt khỏi tay tôi, rơi bịch xuống ngón chân.
Tôi chỉ nói được, “Là anh? Tôi…” Hơi thở tôi như đọng lại, trắng nhờ.
Gã chỉ nói, “Đúng thế.”
Giọng tôi trở thành tiếng ếch ộp. “Tại… tại sao anh đi theo tôi?”
Gã nhìn nhà bố mẹ tôi, cứ như định mua. Tay gã đút vào túi. Còn đủ chỗ cho một con dao.
“Tôi không có tiền nong gì cho anh cả, nếu…”
“Ta không lặn lội tới tận đây chỉ vì mấy tờ bạc giấy, Hugo à.”
Tôi nghĩ lại: tôi chắc chắn mình đâu có nói tên với gã. Cớ gì mà nói chứ? “Tại sao anh biết tên tôi?”
“Bọn ta biết tên ngươi cũng đã vài năm rồi.” Thứ giọng hạ lưu của gã biến đâu mất, tôi để ý, cách phát âm giờ trở nên sắc rõ.
Tôi liếc mặt gã. Một đứa bạn cũ chăng? “Anh là ai?”
Dã nhân đưa tay gãi quả đầu nhớp nháp: gã mang găng tay đã cắt bỏ phần đầu ngón. “Nếu ý ngươi muốn hỏi ai là chủ nhân của thân xác này?” thì, nói thật, biết làm quái gì? Hắn ta lớn lên ở Gloucester, đầu có chấy, nghiện heroin và mắc một thứ virus tự miễn cục bộ. Nếu ý ngươi là, ‘Tôi đang nói chuyện với ai’, thì câu trả lời là Immaculée Constantin, người đã từng đàm đạo với ngươi về bản chất của quyền lực cách đây không lâu. Ta biết ngươi vẫn còn nhớ ta.”
Tôi lùi lại một bước: ống xả xe BMW của bố chọc vào bắp chân tôi. Dã nhân ăn mày ở Piccadilly không thể nào phát âm được hai từ “Immaculée Constantin.”
“Một trò bịp. Cô ta mớm trước anh, dạy anh nói gì, nhưng làm thế nào…”
“Làm thế nào cô ta biết trước hôm nay tên ăn mày nào sẽ được ngươi chọn để bố thí? Vô lý. Rồi làm thế nào cô ta lại biết về Marcus Anyder? Thử nghĩ rộng ra. Vẽ lại ranh giới của những điều khả dĩ.”
Ở con phố bên cạnh, máy báo động gắn trên xe hơi phát ra tiếng kêu. “Cục tình báo. Cả hai người đều… đều có chân trong… trong…”
“Một âm mưu của chính phủ? Ừ thì công nhận nghĩ vậy cũng rộng ra rồi đó, nhưng hoang tưởng bao nhiêu cho vừa? Phải chăng Brian và Alice cũng là điệp viên. Lẽ nào Mariângela và Y tá Purvis cũng có phần? Biết đâu Chuẩn tướng Philby không hề chập mạch như ông ấy giả vờ. Ôi, chứng hoang tưởng thật là mệt mỏi.”
Tôi không mơ. Nhìn dấu chân của dã nhân trên tuyết xốp kìa. Ngửi thứ mùi rác rến, như mùi nôn mửa trộn với rượu của gã. Hơi lạnh tê tái trên đầu môi tôi. Làm sao có thể bị ảo giác từng đấy thứ. “Anh muốn gì?”
“Muốn kích hạt nảy mầm.”
Cả hai nhìn nhau. Gã có mùi bánh qui dầu mỡ. “Này,” tôi nói, “tôi không biết chuyện gì đang xảy ra, hay tại sao cô ta gởi anh đến, hay tại sao anh giả vờ làm cô ta… Nhưng cô Constantin cần biết rằng cô ta đã nhầm rồi.”
“Vậy chính xác là ta nhầm kiểu gì?” Dã nhân hỏi.
“Tôi không muốn thế này. Tôi không phải như anh nghĩ. Tôi chỉ muốn yên ổn nghỉ Giáng Sinh, muốn sống cuộc đời yên ổn với…”
“Bọn ta quá biết ngươi, Hugo Lamb à. Bọn ta biết ngươi còn hơn cả chính ngươi.” Dã nhân khoái trá gầm gừ, quay lưng rồi bước xuống lối đi. Gã quẳng lại một câu “Giáng Sinh vui vẻ” sau vai, rồi biến mất.