← Quay lại trang sách

29 Tháng Mười Hai

Núi Alp ở đây, núi Alp ở kia, đâu đâu cũng thấy núi Alp. Chỗ thì xơ xác, chỗ thì huy hoàng như lâu đài, trắng-ngả-xanh-dương, trắng-ngả-tím-tử-đinh-hương, trắng-ngả-trắng, chen mặt đá như sẹo rỗ, cành cây phủ tuyết xù xì… Tôi đã ở nhà nghỉ của Chetwynd-Pitt đã nhiều lần, đến nỗi thuộc tên các đỉnh núi: đỉnh Grande Dent de Veisivi trông như răng nanh; Sasseneire bên kia thung lũng, La Pointe du Tsaté và Pointe de Bricola; sau lưng tôi là dãy Palance de la Cretta, chiếm gần trọn bầu trời. Tôi uống đầy hai buồng phổi thứ khí trời băng giá, rồi mường tượng tự tay xóa những gì hiện đại trong tầm mắt. Chiếc máy bay trong ánh nắng chiều tà: xóa nhé. Ánh đèn từ La Fontaine Sainte-Agnès, sáu trăm mét bên dưới: tắt cả. Dãy nhà nghỉ, tháp chuông, những ngôi nhà mái dốc, không khác mấy với bộ đồ chơi ngôi làng bằng gỗ của tôi lúc còn bé: cho biến luôn. Nhà ga Chemeuille lù lù – một cục ị bằng bê tông kiểu những năm bảy mươi cùng với quán cà phê cắt cổ và sân ga hình đĩa nơi bốn thằng sinh viên trường Humber chúng tôi đang đứng: đập sạch. Xe cáp treo télécabine đưa dân trượt tuyết lên núi và ghế cáp đi lên đỉnh Palanche de la Cretta: phù, hô biến! Bốn năm hay sáu chục người trượt tuyết đang trượt xuống trên đường xanh ngoằn ngoèo thoai thoải, và cả trên đường đen dốc hơn nhiều: đâu rồi, người trượt tuyết nào kia? Tôi chẳng thấy ai cả. Rufus Chetwynd-Pitt, Olly Quinn và Dominic Fitzsimmons, thân ái chào tạm biệt các chú. Mà thân ái cũng vừa phải. Từng ấy thôi. Xóa hết chừng đó, thì với tôi, mới thành quang cảnh Trung cổ. Thời đấy đã có La Fontaine Sainte-Agnès chưa nhỉ? Cô nàng mảnh khảnh trong bộ đồ trượt tuyết màu xanh bạc hà đang dựa vào tay vịn, hút thuốc như hết thảy các em gái Pháp khác – chắc ở xứ này hút thuốc đã được đưa vào chương trình học? - riêng nàng thì được ở nguyên đấy, không bị xóa. Adam nào mà chẳng cần Eve.

• • •

“Lần này thêm tí vinh quang nhé anh em?” Rufus Chetwynd-Pitt nhấc cặp kính trượt tuyết Sno-Fox 180 bảng. “Ba kẻ thua cuộc phải chi cho người thắng ở quầy bar, thâu đêm suốt sáng. Ai chơi?”

“Tớ xin kiếu,” Olly Quinn nói. “Tớ sẽ trượt đường xanh xuống. Tớ chẳng muốn mới ngày đầu tiên đã phải nằm viện.”

“Đua thế công bằng gì,” Dominic Fitzsimmons nói. “Chú đi trượt ở đây còn nhiều lần hơn cả xóc lọ.”

“Hai bà ngoại Quinn và Fitz đã viện cớ.” Chetwynd-Pitt quay về phía tôi. “Còn Lamb, con chiên xấu số thì sao?”

Chetwynd-Pitt trượt giỏi nhất cả bọn, ở đây hay ở đâu cũng thế, ban đêm ở Sainte-Agnès “tí vinh quang” đấy sẽ khá tốn kém, nhưng tôi giả vờ nhổ nước bọt ra tay. “Cầu cho người giỏi nhất chiến thắng, Rufus nhé.” Logic của tôi cực kỳ ổn. Nếu thắng cuộc đua, hắn sẽ cược mạnh tay hơn ở bàn billiard, nhưng nếu bị trượt chân và thua cuộc, hắn sẽ còn cược mạnh tay hơn nữa, chỉ để giữ thể diện đàn ông đàn ang.

Chetwynd-Pitt nhe răng cười rồi kéo cặp kính Sno-Fox lên. “Mừng là vẫn có đứa còn dính đủ hai hòn. Fitz, chú phát lệnh bắt đầu nhé.” Cả hai leo lên đỉnh đường trượt, Chetwynd-Pitt dùng gậy trượt vẽ đường xuất phát trên mặt tuyết bẩn. “Ai tới chỗ thằng người tuyết to đùng xù xì cuối đường trượt màu đen thì thắng. Không càm ràm, không nếu niếc gì cả – cứ đua thẳng đến đít, như bọn trường Eton hay nói với nhau. Hẹn gặp lại nhị vị búp bê bằng bông…” hắn nhìn Fitzsimmons và Quinn “…chez moi”.[18]

“Vậy thì đợi khẩu lệnh xuất phát…” Fitzsimmons tuyên bố.

Tôi và Chetwynd-Pitt khom người như vận động viên Olympic mùa đông. “Vào chỗ, sẵn sàng – pằng!”

Khi tôi kịp vững tư thế thì Chetwynd-Pitt chỉ còn là một quả bóng tuyết lăn phía trước. Cả hai tà tà trượt xuống quãng đầu tiên, qua mặt một đám nhóc người Tây Ban Nha tự dưng đứng ngay giữa đường trượt để chụp ảnh. Đường trượt chia làm hai – xanh dương ở bên phải, đen qua một bờ dốc bên trái. Chetwynd-Pitt chọn đường đen, tôi theo sau, nhăn nhó vì cú tiếp đất vụng về vài mét sau đó, nhưng ít ra tôi vẫn còn đứng thẳng. Mặt tuyết cũ ở đây như mặt gương, nhưng trượt rất nhanh, ván trượt phát tiếng kêu như mài dao. Tôi đang tăng tốc, nhưng đối thủ chết dẫm mặc bộ Lycra hai màu đen cam cũng thế, hắn vừa vượt qua cột xe cáp treo télécabine. Đường trượt uốn thẳng vào khu rừng trên cao và độ dốc tăng lên. Tốc độ ba mươi, ba lăm, bốn chục cây một giờ, gió sượt rát hai má tôi. Cả bọn bốn đứa sáng nay đã trượt vòng vèo ở đoạn này, nhưng giờ đây Chetwynd-Pitt trượt như như người ta phóng lao – phải tới bốn lăm, năm chục cây số một giờ – xưa nay tôi chưa bao giờ trượt nhanh hơn thế, bắp chân và đùi tôi nhức nhối, gió hùng hục rú rít trong ống tai. Một gò tuyết không nhìn thấy trước nhưng lắt léo khiến tôi văng ra ba, năm, tám mét… Suýt chút nữa tôi ngã lăn quay, may mà kịp giữ thăng bằng. Đi ở tốc độ này mà ngã thì phúc lắm mới không bị gãy xương khắp người. Chetwynd-Pitt biến mất sau một khúc cua sâu phía trước, mười lăm giây trước khi tôi trượt đến. Tôi không lường trước được góc cua, vậy là bị hất tung vào những cành linh sam vươn ra như móng vuốt, trước khi vặn vẹo kéo người xuống đường trượt trở lại. Tiếp theo là đến những khúc cua ngoằn ngoèo như rắn, như những đường trượt đua có chướng ngại: Tôi nhìn Chetwynd-Pitt thoắt ẩn thoắt hiện; cố theo đường đi của hắn; thụp người xuống theo phản xạ khi đám quạ xổ ra từ ngõ ngách giữa những cành cây. Ra khỏi rừng, trong tích tắc tôi bắn vào đường trượt chậm, sau một phiến đá chết tiệt và cú rơi muốn gãy cổ. Biển báo hình thoi màu vàng vẽ đầu lâu xương sọ cảnh báo đừng lại gần mép đường trượt. Đối thủ của tôi trượt chậm lại một chút và liếc ra sau… Giờ đây hắn ở xa tít tắp, đã qua khỏi Cây Thông Cô Đơn mọc trên phiến đá trông chỉ bằng ngón tay – cũng là điểm giữa của chặng đua. Rõ là mới đua có bốn hay năm phút gì đó thôi. Tôi đứng thẳng người, để cơ bụng nghỉ và nhìn xuống thị trấn nằm lọt thỏm bên dưới – thấy đèn cây thông Giáng Sinh ở quảng trường không? Cặp kính chết dịch của tôi bắt đầu bị mờ hơi nước, mặc dù con bé bán hàng cứ thề thốt sẽ không mờ gì cả. Chetwynd-Pitt đã vào khu rừng ở phía dưới, vậy là tôi đẩy mạnh gậy trượt cho đến chỗ Cây Thông Cô Đơn, rồi trở lại tư thế khom lưng trượt đua. Chẳng mấy chốc tôi đã tăng tốc trở lại, bốn mươi lăm, năm mươi cây số giờ, và đáng ra tôi nên nhẹ tay lại nhưng gió trong tai tôi lên tiếng khích tôi dám đi nhanh hơn, rồi cánh rừng bên dưới nuốt lấy tôi, lối đi mờ dần, năm mươi lăm, sáu mươi, rồi tôi bay lên một sườn dốc trước hố sâu, mặt đất như rơi ra… Rồi tôi bay lên như một tổng lãnh thiên thần đang phê… Tự do này là mãi mãi, trong từng phút trải nghiệm… Tại sau chân tôi lại lên đến cằm?

Bàn chân phải chạm đất trước, nhưng bàn chân trái thì đi đâu mất, rồi tôi lộn nhào, các bộ phận lần lượt đau đớn điểm danh – mắt cá, đầu gối, khuỷu tay – chết tiệt, ván trượt bên trái của tôi đâu mất, dường như đã bị thó hay tự trốn đi từ khi nào – đất-rừng-trời, đất-rừng-trời, đất-rừng-trời, mặt tôi đầy tuyết phủ; con xúc xắc trong cốc, những quả táo trong máy sấy; gầm gừ, rên rỉ, van lơn… chết mẹ… Trọng lực, tốc độ và mặt đất: nếu dừng lại bây giờ tôi sẽ phải trả một giá đắt, mà thứ tiền tệ duy nhất là sự đau đớn…

Uiiii da. Cổ tay, ống chân, sườn, mông, mắt cá, thùy tai… Tê tái, đau như bị roi quật, thì rõ rồi… nhưng trừ khi tôi quá lậm thuốc giảm đau tự nhiên đến không còn cảm giác… bởi cả người tôi vẫn còn nguyên vẹn. Sau cú ngã tôi nằm chỏng chơ trên mặt tuyết trộn lá thông và lớp mùn xôm xốp, trơn như rêu. Tôi ngồi dậy. Xương sống vẫn còn nguyên. Tốt. Đồng hồ vẫn chạy, báo 16:10, như chả có gì xảy ra. Tiếng chim hót lảnh lót, mỏng manh tê tỉ như những cây kim bạc. Tôi đứng dậy được không? Mông bên phải đâu mất, chỉ còn đau đớn ê ẩm; chỗ xương cụt như có ai vừa đập búa vào… Nhưng, tôi đứng được, nghĩa là tôi đã may mắn thoát chết. Tôi nhấc kính lên, phủi tuyết trên áo khoác, gỡ ván trượt khỏi chân và dùng nó làm cây gậy để cà nhắc đi lên đồi, tìm ván trượt còn lại. Một phút, hai phút, vẫn chẳng thấy gì cả. Chetwynd-Pitt giờ này chắc đang đấm bình bịch tên người tuyết xù xì dưới làng, ăn mừng chiến thắng rồi. Tôi đi ngược trở lại, tìm khắp trong bụi cây dọc theo đường trượt. Ngã trên đường đen cũng chẳng có gì bẽ mặt – tôi có phải là dân chuyên nghiệp hay huấn luyện viên đâu – nhưng trở về chỗ Chetwynd-Pitt bốn mươi phút sau Fitzsimmons và Quinn, lại còn chỉ còn mỗi một ván trượt thì, nói thẳng ra, đúng nhục như chó.

Rồi từ đâu có tiếng vút – một người trượt khác – tôi đứng lùi ra sau. Là cô nàng người Pháp đứng ở sân chờ khi nãy – còn ai mặc màu xanh bạc hà mùa này? Nàng trượt lên dốc nhẹ nhàng như không, khác xa với kiểu vụng về nặng nhọc của tôi, rồi đổ xuống như dân chuyên nghiệp. Nàng trông thấy tôi, hiểu chuyện, thẳng người dậy rồi dừng lại cách mép đường vài mét. Nàng cúi xuống, nhặt thứ gì đó trông như ván trượt và mang đến chỗ tôi. Tôi vận công lực vốn tiếng Pháp tầm thường của mình: “Merci… Je ne cherchais pas du bon côté.”

“Rien de cassé?”

Tôi đoán nàng vừa hỏi tôi có bị gãy chân tay gì không. “Non. À part ma fierté, mais bon, ça ne se soigne pas.”

Nàng vẫn không tháo kính, vậy nên trừ vài lọn tóc đen bung ra và khuôn miệng không mỉm cười, gương mặt ân nhân của tôi vẫn là bí mật. “Tu en as eu, de la veine.”

Tôi thật quá may mắn? “Tu peux…” “nói vậy cũng chả sai” Tôi chớm thốt lên. “C’est vrai.”

“Ça ne rate jamais: chaque année, il y a toujours un couillon qu’on vient ramasser à la petite cuillère sur cette piste. Il restera toute sa vie en fauteuil roulant, tout ça parce qu’il s’est pris pour un champion olympique. La prochaine fois, reste sur la piste bleu.”

Lạy Chúa, tiếng Pháp của tôi tệ hơn tôi nghĩ: “Năm nào cũng có người bị gãy cột sống và tôi chỉ nên trượt ở đường xanh?” Hay đại loại thế? Gì gì đi nữa, nàng trượt đi mà không một lời từ biệt, biến mất, bay vù qua những gò tuyết.

Trở về nhà nghỉ của Chetwynd-Pitt, ngâm mình trong bồn tắm, bài Nevermind của Nirvana đập thùm thụp lên tường; tôi làm một điếu giữa những làn hơi nước ngo ngoe như rắn, ngẫm ngợi về Vụ án Hồn-chiếm-xác lần thứ một nghìn. Sự việc tưởng chừng quá đơn giản: sáu đêm trước, bên ngoài nhà của bố mẹ, tôi bắt gặp một ca hồn-này-xác-nọ. Những thứ lạ lùng quái đản thì phải được đặt giả thuyết. Tôi có ba.

Giả thuyết 1: vụ dã nhân tái xuất và những chứng cứ quanh đó đều là ảo giác, cả dấu chân của gã lẫn những câu nói chỉ có cô Constantin và tôi biết được.

Giả thuyết 2: Tôi là nạn nhân của một cú lừa rối rắm ngoạn mục, dưới bàn tay của cô Constantin và một kẻ đồng phạm đóng giả gã vô gia cư.

Giả thuyết 3: mọi thứ đúng như thế, và “hồn du” - chứ gọi thế nào bây giờ? - là một hiện tượng có thật.

Giả thuyết Ảo giác: “Tôi không điên” là một phản biện yếu ớt, nhưng tôi thực không điên. Nếu tôi bị ảo giác một nhân vật mà nhìn rõ đến vậy, hẳn những thứ khác cũng là ảo giác? Như những gì tai nghe thấy chẳng hạn, tôi không biết nữa. Bài “An Englishman In New York” của Sting như đang phát ra từ trong bóng đèn.

Giả thuyết Lừa đảo Rối rắm: “Tại sao lại là tôi?” Sẽ có người chẳng ưa gì Marcus Anyder, nếu biết được vài chuyện. Nhưng tại sao lại trả thù bằng một thứ âm mưu quái dị, cố khiến tôi tưởng mình điên? Tẩn tôi một trận chết bỏ chẳng hay hơn sao?

Giả thuyết Hồn du: cũng có thể tin được, nếu ta sống trong một cuốn tiểu thuyết kỳ ảo siêu tưởng. Còn ở đây, trong thế giới thật, hồn ai ngụ xác nấy. Những thứ lạ đời luôn luôn, luôn luôn là trò lừa phỉnh.

Vòi nước nhỏ giọt tong, tong, tong. Lòng bàn tay và ngón tay tôi ửng hồng, nhăn nheo. Có đứa đang đi thình thịch trên gác.

Vậy tôi phải làm gì với Immaculée Constantin, dã nhân ăn mày và những thứ quái đản ấy? Câu trả lời khả dĩ duy nhất là “Không làm gì cả, vào lúc này.” Có lẽ tối nay tôi sẽ bị thêm một vố nữa, có lẽ thứ ấy đang đợi tôi ở London hay Cambridge, hay biết đâu nó chỉ là một trong những biến cố nho nhỏ trong cuộc đời mà người ta sẽ không bao giờ nghĩ đến nữa. “Hugo?” Là Olly Quinn, tội nghiệp cu cậu. Cu cậu đang gõ cửa. “Cậu còn sống trong đó chứ?”

“Có, lần cuối cùng kiểm tra vẫn còn,” tôi hét lên, át giọng Kurt Cobain. “Rufus nói là tụi mình nên đi ngay, trước khi quán Le Croc đông lên.”

“Ba người cứ đi trước đi, còn lấy bàn. Tớ sẽ theo sau ngay.”

Le Croc – mà khách quen hay gọi là Le Croc Cứt-Khô là tửu quán nhỏ nằm trong góc cuối con ngõ nối với quảng trường ba mặt ở Sainte-Agnès. Günter, lão chủ quán, đưa tay chào tôi điệu đà rồi chỉ vào Tổ Đại Bàng – một cái gác lửng nhỏ như ngăn kệ, nơi có ba thằng đồng môn Richmond ngồi sẵn. Hơn mười giờ, quán chật như nêm, hai cô saisonnières[19] của Günter – một cô mảnh khảnh mặc nguyên bộ đen như đưa đám, cô kia trông mẫm hơn, ăn mặc điệu đà hơn, tóc cũng vàng hơn, luôn chân luôn tay với khách. Hồi những năm 1970 Günter là tay vợt tennis xếp hạng 298 trên thế giới (trong vòng một tuần), lão còn giữ bài báo, đã đóng khung treo lên làm chứng. Giờ đây lão chạy kiếm cocaine cho bọn nhãi lắm tiền rởm đời, trong đó có cậu cả con Ngài Chetwynd-Pitt. Mái tóc nhuộm sáng kiểu Andy Warhol của lão đúng là dở hơi cám hấp. Nhưng tay buôn thuốc ngũ tuần, dân Thụy Sĩ kiêm Đức này sẽ không muốn nghe lời khuyên về thời trang từ một thằng người Anh. Tôi gọi vang đỏ nóng và leo lên Tổ, bước qua một đám lù lù các chú Hà Lan, chú nào cũng cao đến hơn hai mét. Chetwynd-Pitt, Quinn và Fitzsimmons đều đã ăn tối – món daube của Günter, tức bò hầm, và một lát bánh táo với sốt quế – cả bọn đã bắt đầu uống cocktail, mà sau vụ thua ê ẩm, tôi phải móc ví ra trả cho Chetwynd-Pitt. Olly Quinn đã say mèm, mắt long lanh ngân ngấn. “Không thể hiểu được,” hắn ta rền rĩ. Thằng này một khi đã say thì coi như vứt.

“Không hiểu gì kia?” Tôi cởi khăn quàng.

Fitzsimmons thì thầm, “Ness.”

Tôi làm động tác treo cổ bằng khăn quàng, nhưng Quinn không để ý: “Bọn tớ đã định cả rồi. Tớ sẽ lái xe đưa cô ấy về Greenwich, cô ấy sẽ giới thiệu tớ với ông cụ bà cụ. Sẽ gặp nhau trong kỳ nghỉ Giáng Sinh, sẽ đi Harrods mua sắm, đi trượt băng ở Hyde Park Corner… Đã định hết cả rồi. Thế mà hôm Thứ Bảy, sau khi tớ chở Cheeseman đến bệnh viện khâu mấy mũi, cô ấy gọi rồi nói ‘Tụi mình đã hết rồi, Olly.’ Quinn nuốt khan. “Tớ, tớ cứ… hở? Cô ấy cứ, ‘Không, không phải lỗi của anh, là lỗi của em.’ Cô ấy nói là đang cảm thấy mâu thuẫn, cảm thấy bị trói buộc và…”

“Tớ biết một ghệ người Bồ Đào Nha thích chơi trò trói buộc, nếu cậu ưng món đấy,” Chetwynd-Pitt nói.

“Vừa kỳ thị phụ nữ, vừa vô duyên,” Fitzsimmons đáp, hít hà hơi rượu từ cốc vin chaud[20]. “Chuyện chia tay chán kinh được ấy chứ.”

Chetwynd-Pitt mút quả anh đào. “Nhất là khi đã mua chuỗi hạt opal định làm quà Giáng Sinh, chưa kịp đổi hạt lấy ‘hàng’ thì đã bị đá. Mua ở hiệu Ratners Jewellers hả Olly? Bọn đó chỉ hoàn lại bằng phiếu mua hàng thôi, không tiền nong gì. Tay coi bãi nhà tớ bị xù đám cưới một lần nên tớ biết.”

“Không, không phải mua từ cái hiệu chết tiệt ấy,” Quinn càu nhàu.

Chetwynd-Pitt thả hạt anh đào xuống gạt tàn. “Thôi vui lên đê, giời ạ. Sainte-Agnès dịp năm mới thì thiếu gì các bé mèo Âu châu, Hội Cứu Mèo Schleswig-Holstein mà có ở đây cũng chả biết phải làm gì. Tớ cá với cậu chuyện ‘cảm thấy mâu thuẫn’ thực ra là cô ả đã có người khác.”

“Ness không thế, không đời nào,” tôi dỗ Quinn tội nghiệp. “Cô ấy rất tôn trọng cậu – và quá tự trọng nữa. Tin tớ đi. Mà khi Lou đá cậu…” đòn này cho Chetwynd-Pitt “…cậu như cái xác không hồn cả mấy tháng trời còn gì.”

“Lou với tớ là nghiêm túc. Olly và Ness bao lâu rồi, năm tuần là cùng? Với cả Lou không đá tớ. Mà là cả hai bỏ nhau.”

“Sáu tuần, bốn ngày.” Mặt mày Quinn như bị tra tấn. “Nhưng vấn đề đâu phải là bao lâu. Mà là… như có một nơi bí mật mà chỉ hai đứa biết.” Hắn uống thứ bia Maltese lạ hoắc. “Cô ấy rất hợp với tớ. Tới không biết tình yêu là gì, liệu nó thần bí hay chỉ là sinh lý thuần túy. Nhưng một khi đã yêu, rồi mất đi, cứ như… cứ như… cứ như…”

“Bị tạt nước lạnh vào mặt,” Rufus Chetwynd-Pitt đáp. “Roxy Music đã đúng khi cho rằng tình yêu là ma túy, mà một khi đã xài hết, không tay buôn nào trên quả đất có thể giúp được ta. À, thì có một người đấy – là chính cô nàng. Nhưng cô ả đã phắn, và sẽ không cho thứ ta cần. Thấy chưa? Tớ hiểu Olly tội nghiệp đang chịu cảnh gì chứ. Tớ kê đơn…” hắn lắc lư ly cocktail đã uống cạn “…món Cặp Vú Thiên Thần. Crème de cacao” hắn giải thích với tôi, “pha với maraschino. Pile au bon moment, Monique, tu as des pouvoirs télépathiques.”[21] Cô chạy bàn mẫm người vừa đến mang theo cốc vang nóng cho tôi. Chetwynd-Pitt phun thứ tiếng Pháp chảnh chọe của hắn ra: “Je prendrai une Nước giải người ngoài hành tinh, et ce sera mon ami ici présent” - hắn gật đầu về phía tôi - “qui réglera l’ardoise”[22]

“Bien,” Monique đáp, vui vẻ xởi lởi. “J’aimerais bien moi aussi avoir des amis comme lui. Et pour ces messieurs? Ils m’ont l’air d’avoir encore soif.”[23] Fitzsimmons gọi cassis, rồi Olly “Thêm một bia nữa.” Monique gom đám tách đĩa bẩn và đi khuất.

“Quả đấy cho tớ, tớ xơi ngay,” Chetwynd-Pitt nói. “Sáu điểm rưỡi, khá nhỉ. Ngon lành hơn con bé trông giống Wednesday Addams[24] kia. Người đâu lạnh lùng phát sợ, nhỉ?” Tôi nhìn theo mắt hắn, đến chỗ cô chạy bàn mảnh khảnh. Cô nàng đang rót đầy một ly cognac. Tôi hỏi dân Pháp à, nhưng Chetwynd-Pitt còn bận hỏi Fitzsimmons, “Tối nay cậu thật thông thái, Fitz à. Vậy thì nói xem, cái món tình yêu tình báo này, rốt cuộc là gì?”

Fitzsimmons châm một điếu rồi chuyền bao thuốc cho cả bọn. “Tình yêu là thứ thuốc tê mà Tạo hóa tiêm cho ta, để tòi ra trẻ con.”

Tôi đã từng nghe câu đấy ở đâu rồi. Chetwynd-Pitt khẩy tàn thuốc vào gạt. “Cậu nói hay hơn thế được không, hả Lamb?”

Tôi ngắm cô hầu bàn mảnh khảnh đang pha một thứ đồ uống, hẳn là món Nước giải người ngoài hành tinh của Chetwynd-Pitt. “Đừng hỏi tớ. Tớ đã yêu bao giờ đâu.”

“Ôi, chú cừu non tội nghiệp,” Chetwynd-Pitt giễu.

“Vớ vẩn,” Quinn nói. “Cậu bao nhiêu em rồi còn gì.”

Trí nhớ đưa tôi tấm hình bà mẹ ngon mắt của Fitzsimmons. “Về giải phẫu học thì đúng là tớ biết đôi chút – nhưng về mặt tình cảm nọ kia thì với tớ, họ bí hiểm như Tam giác Bermuda. Tình yêu, cái thứ ma túy mà Rufus nhắc đến, cái ơn huệ mà Olly tha thiết có được, cái chủ đề lớn lao ấy… tớ đã miễn dịch rồi. Tớ chưa bao giờ yêu em gái nào cả. Em trai cũng thế, nói luôn cho xong.”

“Nói năng bốc mùi,” Chetwynd-Pitt đáp.

“Sự thật đấy. Tớ chưa bao giờ yêu cả. Thì đã sao. Kẻ mù màu cũng sống được mà đâu cần biết phân biệt màu xanh với màu tím.”

“Do cậu chưa gặp đúng người,” Quinn ngốc phán như đúng rồi.

“Hoặc gặp ai cũng thấy đúng,” Fitzsimmons góp chuyện.

“Con người,” tôi hít hơi rượu đậm mùi hạt nhục đậu khấu, “suy cho cùng cũng là những nỗi thèm muốn biết đi. Thèm đồ ăn, nước uống, nơi ở, sự ấm áp; tình dục và bạn tâm giao; vân vân và vân vân, cho đến thèm có được phòng tắm lót gạch màu sô-cô-la. Tình yêu là một cách để thỏa mãn vài cái thèm muốn ấy. Nhưng tình yêu không chỉ là ma túy: nó còn là kẻ buôn ma túy. Tình yêu muốn được đáp trả, tớ nói đúng không hả Olly? Như ma túy, những lúc thăng hoa thì tuyệt vời, tớ ganh tị với bọn chơi thuốc. Nhưng một khi tác dụng phụ xuất hiện – ghen tuông, giận dữ, đau khổ – tớ nghĩ, thôi cho tớ kiếu. Thời Elizabeth người ta cho rằng ái tình lãng mạn chẳng khác gì chứng điên loạn. Phật tử xem tình ái như đứa trẻ quấy, giở trò ăn vạ giữa cuộc dã ngoại của tâm trí bình lặng. Tớ…”

“Tớ thấy một ly Nước giải người ngoài hành tinh.” Chetwynd-Pitt nhếch mép cười với cô nàng mảnh khảnh đang bưng khay, trên đó có một ly cao đựng thứ nước sánh, màu xanh nhờ nhờ như dưa tây. “J’es père que ce sera aussi bon que vos Cặp vú Thiên Thần.”[25]

“Les boissons de ces messieurs.” Môi mỏng, không đánh son, từ “messieurs” phát ra đầy chút mai mỉa. Nói rồi nàng đi ngay.

Chetwynd-Pitt khịt mũi. “Thế đấy, Hoa hậu thân thiện 1991.”

Trong khi đám còn lại chạm ly, tôi giấu chiếc găng tay sau chậu cây cảnh. “Có lẽ cô ấy không thấy cậu dí dỏm như cậu tưởng,” tôi nói với Chetwynd-Pitt. “Món Nước giải người ngoài hành tinh thế nào?”

Hắn nhấp thứ nước sánh màu xanh nhạt. “Y như tên của nó vậy.”

Các cửa hiệu cho khách du lịch ở quảng trường Sainte-Agnès – hàng dụng cụ trượt tuyết, phòng tranh, trang sức, sô-cô-la – vẫn mở cửa lúc mười một giờ đêm, cây thông Giáng Sinh khổng lồ vẫn sáng đèn; một tay bán bánh kếp mặc đồ hóa trang gorilla đang luôn tay luôn chân, vẻ ăn nên làm ra. Mặc dù Chetwynd-Pitt đã nhận gói hàng trắng từ Günter, cả bọn quyết định tối mai mới đi xả láng ở Club Walpurgis. Tuyết bắt đầu rơi. “Khỉ thật,” tôi nói, quay bước ngược lại. “Tớ để quên cái găng tay ở Le Croc. Các cậu đưa Quinn về trước, tớ sẽ đuổi theo sau…”

Tôi chạy dọc theo ngõ, trở lại quán ngay lúc một đám Bắc Âu cả đực cả cái đang ồn ào ra về. Le Croc có một cửa sổ hình tròn: qua cửa tôi có thể bí mật ngắm cô gái mảnh khảnh đang pha một bình sangria. Nàng khá bắt mắt, như một tay guitar bass bất động trong một ban nhạc rock cực nhộn. Ở nàng vừa đậm chất punk, bất cần bướng bỉnh, kiểu kệ-mẹ-mày, vừa chính xác tuyệt đối trong từng cử động nhỏ nhất. Hẳn nàng không dễ xiêu lòng, tôi dự cảm. Khi Günter mang bình ra cho khách, nàng quay nhìn tôi, vậy là tôi bước vào cái không khí đặc quánh khói thuốc và tiếng ồn, len lỏi giữa những đám khách vào quầy bar. Đợi nàng dùng lưỡi dao gạt bọt bia trên cốc rồi đưa cho khách xong, tôi trờ đến, giở trò để quên găng tay. “Désolé de vous embêter, mais j’étais installé là-haut…”[26] Tôi chỉ tay lên Tổ Đại Bàng, nhưng nàng không để lộ có nhận ra tôi không “… il y a dix minutes et j’ai oublié mon gant. Est-ce que vous l’auriez trouvé?”[27]

Nhẹ nhàng như Ivan Lendl[28] thực hiện một quả lốp bóng trên thằng người lùn bất lực, nàng cúi xuống và lấy ra chiếc găng. “Bizarre, cette manie que les gens comme vous ont d’oublier leurs gants dans les bars”[29]

Được rồi, vậy nàng đã đi guốc trong bụng tôi. “C’est surtout ce gant; ça lui arrive souvent.” Tôi cầm chiếc găng lên như cầm một con rối lắm trò, làm bộ giận dữ hỏi nó, “Qu’est-ce qu’on dit à la dame?” Ánh mắt nàng lạnh lùng sắt đá, khiến tôi hết dám đùa. “En tout cas, merci. Je m’appelle Hugo. Hugo Lamb. Et si pour vous, ça fait…”[30] chết thật, ‘chảnh chọe’ tiếng Pháp là gì nhỉ? “…chic, eh bien le type qui ne prend que des cocktails s’appelle Rufus Chetwynd-Pitt. Je ne plaisante pas.”[31] Vẫn không xong, chẳng hề hấn gì cả. Günter xuất hiện với một khay toàn ly đã cạn.

“Tại sao cậu nói tiếng Pháp với Holly vậy, Hugo?”

Tôi ngớ mặt ra. “Tại sao không?”

“Anh ta có vẻ rất hăng hái thực tập tiếng Pháp,” nàng đáp, tiếng Anh London. “Mà khách hàng thì luôn luôn đúng, Günter nhỉ.”

“Ê Günter!” Một tay người Úc gọi từ bàn bi lắc. “Cái máy chết dịch này giở chứng rồi! Đã cho francs vào rồi nhưng chả chịu nhả hàng ra.” Günter chạy đến, Holly cho ly tách vào máy rửa, tôi nghĩ ra vấn đề. Khi đưa trả tôi tấm ván trượt trên đường trượt đen ban nãy, nàng nói tiếng Pháp, nhưng không giải thích gì khi nhận ra giọng tôi. Thân gái đi làm ở khu nghỉ mát trượt tuyết thì kiểu gì mỗi ngày cũng bị tán tỉnh dăm lần, nói tiếng Pháp với bọn Anh cũng là một cách tự vệ. “Tôi chỉ muốn cảm ơn cô đã nhặt ván trượt cho tôi khi nãy.”

“Anh đã cảm ơn rồi mà.” Con nhà bình dân; loại không nể nang dân nhà giàu; rất giỏi tiếng Pháp.

“Đúng vậy, nhưng nếu không có cô thì hẳn tôi đã bị hạ thân nhiệt mà chết một mình trong rừng Thụy Sĩ. Tôi mời cô ăn tối được không?”

“Tôi đang làm ở chỗ người ta tới ăn tối.”

“Vậy để tôi mời cô bữa sáng.”

“Đợi đến lúc anh ăn sáng, tôi đã lau dọn chỗ này được hai tiếng đồng hồ, mà vẫn còn phải lau thêm hai tiếng nữa.” Holly đóng sầm cửa máy rửa bát. “Rồi tôi đi trượt tuyết. Không có phút nào trống cả. Xin lỗi.”

Kiên nhẫn là đồng minh của thợ săn. “Hiểu rồi. Thôi thì, tôi không muốn bạn trai cô hiểu lầm động cơ của tôi.”

Nàng giả vờ táy máy thứ gì đó dưới quầy. “Các bạn anh chắc đang đợi anh về nhỉ?”

Cá một ăn bốn là không có bạn trai gì sất. “Tôi còn ở đây đến mươi ngày nữa. Hẹn gặp cô nhé. Chúc ngủ ngon, Holly.”

“Ngủ ngon,” và đi chết đi, đôi mắt xanh lạ lùng của nàng nói với theo.