14 Tháng Ba Năm 2016
Tôi gọi omelette lòng trắng trứng với rau chân vịt, bánh mì bột chua và thịt viên gà tây hữu cơ, nước cam tươi ép, nước suối Evian ướp lạnh và cà phê đặc sản để tống thuốc giảm đau và nén xuống cơn say tối qua. Bảy giờ sáng, không khí trong khoảng sân có mái che vẫn còn mát mẻ. Con nhồng khách sạn nuôi đang vắt vẻo trên giá, líu lo những tiếng quái lạ. Mỏ của nó như lưỡi liềm phủ men, con mắt như thấy hết, biết hết. Nếu đây là một tiểu thuyết, thưa độc giả quý mến, thì nhân vật chính có lẽ đang tự hỏi liệu con nhồng đã biết trước âm mưu của gã chăng. Damon MacNish, mặc vét vải lanh như nhân vật chính trong tiểu thuyết Our Man in Havana, đang ngồi trong góc, lấp ló sau tờ Wall Street Journal. Nghĩ cũng buồn cười, chỉ vài ngày trong một phòng thu ở Scotland khi chưa kịp qua tuổi hai mươi lại có thể đổi khác hoàn toàn số phận của một con người. Bạn gái của lão, bé này còn lâu mới được hai mươi, đang lật giở tạp chí Face. Với bé, hẳn lên giường với lão cũng giống như ngủ với ông ba bị thô tháp. Theo lão bé được gì? Ngoài vé máy bay hạng nhất, khách sạn năm sao, đàn đúm với giới quý tộc rock riếc, đạo diễn điện ảnh và các trùm từ thiện; được chường mặt lên mọi tạp chí lá cải trên Trái Đất, và các hợp đồng làm mẫu đi kèm, ừ thì rõ chỉ có thế… Tôi chỉ mong là nếu Juno và Anaïs một ngày nọ chinh phục Núi Xã Hội, chúng sẽ dùng chính tài năng của mình, chứ không dạng háng trên cặp đùi tong teo của một tay nhạc sĩ còn nhăn nheo hơn cha chúng. Cho những gì chúng con sắp nhận được xin Chúa ban lòng tri ân. Liệu văn chương có thể thay đổi thế giới? là tên của sự kiện có Cheeseman góp mặt. Cuộc giao lưu giữa các đỉnh của đỉnh trong lĩnh vực văn hóa, vừa cấp bách vừa đúng lúc này, được tổ chức trong sảnh dài sơn trắng tại tầng trên cùng của dinh tổng trấn, Bình Địa của Cartagena 2016. Khởi sự ba nhà văn Colombia bước lên sân khấu, bên dưới dân tình bật dậy vỗ tay. Bộ ba chào khán giả như các lão thành cách mạng. Chủ tọa theo sau - một phụ nữ gầy nhẳng mặc đầm đỏ như máu, rõ là khoái đeo các thể loại trang sức vàng dày cộm, từ chỗ tôi ở hàng ghế cuối vẫn thấy mồn một. Richard Cheeseman chọn phong cách ngài lãnh sự Anh quốc, đóng bộ trắng kem vét kèm gi-lê, cà vạt màu mận tía, nhưng lại trông giống như tay tóc xõa khốn nạn trong Trở lại Brideshead. Ba vị lão thành cách mạng ngồi xuống ghế, dân mù tiếng Tây Ban Nha đeo tai nghe để chờ dịch song song. Nữ phiên dịch xử lý câu chào của chủ tọa, rồi đến tiểu sử trích ngang của bốn vị khách. Tiểu sử của Richard Cheeseman ngắn gọn nhất: “Một nhà văn, nhà phê bình người Anh nổi tiếng và uy tín.”
Công bằng với cái đứa soạn tài liệu mà nói, trang Wikipedia của Richard Cheeseman cũng ngắn gọn thế, mặc dù “cú đòn khét tiếng” dành cho tác phẩm Tiếng Vọng Phải Chết của Crispin Hershey nằm chễm chệ trên đó, có cả đường dẫn đến trang web của Tạp chí Piccadilly. Hal Linh Cẩu nói rằng hắn đã làm hết nước để xóa đường dẫn ấy, nhưng Wikipedia không nhận hối lộ.
Ở Nam Mỹ, các tiết mục tác giả đọc sách luôn có tương tác với khán giả, như những màn hài độc thoại ở quê nhà. Con cá Babel[44] trong tai tôi tóm tắt trích đoạn, thay vì dịch tuốt, nhưng thi thoảng phiên dịch lại tự thú, “Tôi xin lỗi, nhưng tôi không hiểu ông ấy vừa nói gì. Mà có khi chính ông ấy còn chả hiểu.” Richard Cheeseman đọc một cảnh trong tiểu thuyết mới nhất Người Đàn Ông Trong Xe Trắng, nói về những giây phút cuối cùng của Sonny Penhallow, một sinh viên Cambridge lái chiếc xe cổ Aston Martin lao xuống vực ở Cornwall. Văn của Cheeseman còn không đáng được coi là tệ: chỉ tầm thường xoàng xĩnh, rồi lần lượt từng bộ tai nghe tháo xuống, điện thoại thông minh rút ra. Khi Cheeseman đọc xong, tiếng vỗ tay nghe lác đác ủ dột, nhưng màn đọc sách hôm qua của tôi cũng chẳng vang dội sập nhà.
Rồi đến phần “bàn tròn thảo luận”, bắt đầu chuối cả nải.
“Văn chương phải có khả năng ám sát,” lão thành cách mạng thứ nhất tuyên bố. “Tôi viết văn, một tay cầm bút, một tay cầm dao!” Dân tình toàn người lớn cả liền bật đứng dậy, hò reo, vỗ tay.
Nhà văn thứ hai cũng không chịu kém cạnh: “Woody Guthrie, một trong những nhà thơ vĩ đại người Mỹ, đã sơn dòng chữ ‘Cỗ Máy Này Giết Quân Phát Xít’ lên cây guitar; còn trên máy tính xách tay, tôi đã viết ‘Cỗ Máy Này Giết Chủ Nghĩa Tư Bản Mới’!” Ôi, đám đông như muốn nổi cơn dại!
Một đám khán giả đi trễ len vào hàng trước mặt tôi. Một cơ hội hoàn hảo, cứ như đã được lên kịch bản. Nấp sau tấm lá chắn sống đó, tôi lẻn ra khỏi phòng, lóc cóc đi xuống cầu thang sơn trắng. Phía bên kia khoảng sân trời của tu viện Claustro de Santo Domingo, Kenny Bloke đang đọc sách cho một bầy trẻ con lúc nhúc. Bọn trẻ ngồi im, mê mệt. Ông cụ thân sinh hay kể chuyện về một bữa tiệc, Roald Dahl đến bằng trực thăng và nói với hết thảy, “Cứ viết cho trẻ con ấy - bọn nhãi ranh cái quái gì cũng tin được.” Tôi đi qua cổng chính, ra đến quảng trường nơi Damon MacNish diễn đêm qua. Qua khỏi năm khối nhà dọc theo con đường Calle 36 hơi cong cong, tôi châm một điếu thuốc, nhưng thả ngay xuống cống trước trước khi kịp làm một hơi. Cheeseman đã bỏ thuốc, mùi thuốc lá có thể là một manh mối chết người chứ chẳng chơi. Chuyện nghiêm trọng thật rồi. Cả đời tôi chưa từng làm gì giống vậy. Mặc khác, chưa có bài bình sách nào vô duyên vô cớ giết chết một cuốn sách như cách Richard Cheeseman đã giết Tiếng Vọng phải Chết. Chuối nướng xèo xèo ở hàng quà vặt. Một em bé chập chững quan sát con phố từ hành lang tầng hai, nắm chặt thanh chắn bằng sắt, như tù nhân. Binh lính canh gác một nhà băng, đeo súng máy quanh cổ, nhưng tôi thấy mừng là đã không gởi tiền vào đó: tên thì mải nhắn tin, tên thì đang tán tỉnh với một con bé chừng tuổi Juno. Carmen Salvat đã có gia đình chưa nhỉ? Không thấy nói gì.
Tập trung nào, Hershey. Chuyện nghiêm túc đấy. Tập trung.
Từ con phố nóng ran sáng rỡ, tôi bước vào sảnh bằng đá cẩm thạch và gỗ tếch mát lạnh của khách sạn Santa Clara. Qua khỏi hai tên gác cửa, bọn này hẳn đã được huấn luyện giết người. Chúng soi áo quần, soi chỉ số ngoại quốc, soi xếp hạng tín dụng. Tháo kính râm và nheo mắt giả khờ tí chút - Thấy chưa, con trai, ta là khách trú mà - nhưng mang kính vào ngay khi lướt qua khoảng sân, qua khỏi đám khách vừa nhấp cappuccino bữa xế, vừa rầm rập gõ email, ngay tại nơi ngày trước các nữ tu dòng Benedictine từng đẫm mình trong những cơn gió lùa của Đức Thánh Linh. Tránh nhìn mắt con nhồng và qua khỏi đài phun nước không ngơi nghỉ, lên cầu thang đến tầng bốn. Dò dẫm lại những bước chân nửa đêm trước trên lối đi ngoằn ngoèo ấy. Một hành lang ngập nắng bao quanh khu giếng trời vang vọng của khoảng sân tầng trên dẫn về phòng tôi, nơi Crispin Hershey nhụt chí bỏ cuộc, còn con đường quanh co rối rắm lại bẻ ngoặt về phòng 405 của Richard Cheeseman, nơi Crispin Hershey đòi món nợ máu. Một con cá tuế déjà vu lượn qua trong tâm trí tôi, mang tên Geoffrey Chaucer:
“Nếu các ngài” lão đáp, “thực nóng lòng Gặp Tử thần, thì lối khúc quanh co Ra rừng kia nơi ta rời hắn, ta tin Hắn sẽ chờ sẵn đó, dưới tàn cây to[45]…”
Nhưng công lý, chứ không phải Tử Thần, mới là thứ tôi thực nóng lòng gặp. Có nhân chứng nào không? Không. Vậy thì chọn lối quanh co thôi. Một xe đẩy lao công đỗ ngay bên ngoài phòng 403, nhưng không thấy lao công đâu. Phòng 405 chỉ ở ngay góc đó thôi, gần phòng cuối cùng trong ngõ cụt. Bản Dance Me To The End Of Love của Leonard Cohen dặt dìu cất lên trong tâm trí tôi; qua cổng vòm khoét vào bức tường bao quanh khách sạn, cách mặt đường bốn tầng, Hershey nhìn thấy những nóc nhà, một dải biển Caribe xanh ngắt và những đám mây đục trắng như hoa lơ… Những tòa nhà chọc trời ven biển xa xa, cái đã hoàn tất, cái còn dang dở. Phòng 405. Cốc-cốc. Ai đấy. Quả báo của ngươi đây, Dickie Cheeseman. Dưới phố, chiếc xe máy rồ ga lên vài quãng tám. Đây là thẻ khóa của Cheeseman, được giữ lại sau khi tôi ra tay nghĩa hiệp đêm qua, Định Mệnh vẫn còn một cơ hội để phá hỏng mưu sâu kế hiểm của tôi: nếu sáng nay Cheeseman để ý thấy hắn đã đánh mất thẻ khóa và hỏi xin thẻ mới với mã mới, chấm đèn LED trên cửa sẽ lóe đỏ, cửa sẽ vẫn đóng và Hershey phải dừng cuộc chơi. Nhưng nếu Định Mệnh muốn tôi đi tiếp, chấm đèn LED sẽ lóe xanh. Một con thạch sùng bám trên khung cửa. Lưỡi nó rung rinh tanh tách.
Vậy thì quẹt thẻ đi. Còn chờ gì.
Xanh. Đi đi đi đi đi nào!
Cửa đóng lại. Tốt, phòng đã được dọn dẹp và giường đã thay ga. Nếu cô hầu phòng xuất hiện, cứ vờ như chẳng có gì cả. Một chiếc áo sơ mi treo trên cánh cửa tủ, cuốn Con Người Độc Lập của Halldór Laxness đặt trên bàn cạnh giường. Nếu phụ nữ Hồi giáo bị cấm chạm vào kinh Koran khi đang tới tháng, thì người ta không nên để thứ cứt đái như Richard Cheeseman được phép chạm vào sách của Laxness, trừ phi có đeo găng tay hình sự. Một suy nghĩ hay ho. Moi cặp găng nhựa màu vàng trong túi áo vét ra, mang vào. Tốt. Tìm va-li của Richard Cheeseman trong tủ áo. Loại tốt, đắt tiền, xông xênh: thật lý tưởng. Mở ra, kéo khóa một túi bên trong: khóa kéo rất cứng, như chưa bao giờ dùng. Rút dao xếp, cẩn thận rạch một đường nửa inch xuống lớp vải ngoài. Xuất sắc. Lấy ra bao thư cỡ thẻ tín dụng từ trong túi áo vét, thật cẩn thận, và cũng tiếp tục cẩn thận thế, cắt một góc bao, rồi rắc một lượng rất nhỏ thứ bột trắng quanh va-li - sao cho mắt thường không nhìn thấy, nhưng mùi nặng như cứt chồn với mũi chó nghiệp vụ. Thảy bao thư vào khe rạch trên lớp da va-li. Ấn sâu xuống. Kéo khóa túi trong. Đặt lại va-li vào trong tủ, kiểm tra xem ông già Noel có để lại vụn bánh không. Không có gì cả. Tốt rồi. Rời khỏi hiện trường. Tháo găng tay trước đã, đồ ngốc…
Bên ngoài cô lao công đứng thẳng dậy sau xe đẩy, mỉm cười mệt mỏi với tôi, tim tôi như muốn thắt lại. Ngay cả lúc thốt ra hai tiếng “Xin chào,” tôi biết mình vừa phạm một lỗi nghiêm trọng. Cô lao công thầm thì, “Xin chào” lại, đôi mắt lai lướt qua kính râm của tôi, nhưng tôi vừa mới tự nhận là một người khách nói tiếng Anh còn gì. Ngốc, ngốc, ngốc quá chừng. Tôi bước vội về lối quanh co. Chậm lại nào! Đừng làm như vừa bị bắt quả tang ăn vụng thế. Cô ta có thấy tôi tháo găng không?’ Tôi có nên quay lại đó, lấy lại chỗ cocaine không?
Bình tĩnh nào! Với cô hầu phòng không biết chữ kia, ngươi chỉ là một lão da trắng trung niên đeo kính râm nữa. Với cô ta, phòng 405 chính là phòng của ngươi. Cô ta đã quên mất từng thấy ngươi ở đó. Tôi qua khỏi đám bảo kê nơi sảnh, đi theo một lối khác về Bình địa Lễ Hội. Lần này tôi hút thuốc. Tôi vứt cặp găng cao su vào thùng rác sau lưng một nhà hàng, rồi bước vào cổng của tu viện Claustro de Santo Domingo, tung tẩy thẻ VIP đeo trên cổ. Kenny Bloke đang nói với một thằng nhóc, “À, thật là một câu hỏi xuất sắc…” Đi lên trước theo lối khác, qua khỏi một hội trường lớn với ba trăm người đang lắng nghe Holly Sykes trên sân khấu xa xa đọc sách. Tôi dừng lại. Những người này thấy cái quỉ quái gì trong sách cô tả? Há mồm, tập trung, nhìn chăm chú vào đoạn dịch từ sách của người đàn bà họ Sykes được chiếu lên màn hình lớn trên sân khấu. Ngay cả đám gia nô Lễ hội cũng xao nhãng nhiệm vụ giữ cửa, chỉ để lắng nghe Nữ Nhà Văn Viết Truyện Thiên Thần. “Thằng bé trông giống Jacko,” người đàn bà họ Sykes đọc, “cũng cao chừng đó, áo quần, mặt mũi như vậy, nhưng tôi biết em trai tôi đang ở Gravesend, cách đó hai mươi dặm.” Im lặng lấp đầy hội trường như tuyết phủ khắp rừng. “Thằng bé vẫy tay, như thể nó đã đứng đó đợi tôi đến. Vậy là tôi vẫy lại, rồi nó mất hút vào đường hầm.” Trời đất, khán giả khóc thật sự khi nghe cái thứ văn vẻ vô vị này. “Làm sao Jacko đi chừng đó quãng đường, khi mới sớm tinh mơ sáng Chủ Nhật thế này? Nó chỉ mới bảy tuổi. Làm sao nó tìm ra tôi? Tại sao nó không đợi tôi trước khi chạy mất hút vào đường hầm một lần nữa? Vậy là tôi cũng bắt đầu chạy…”
Tôi bước vội lên một dãy cầu thang nữa rồi len lén chui vào chỗ cũ ở hàng cuối, khuất tầm nhìn từ sân khấu. Dân tình đang mải nói chuyện, đi đứng, nhắn tin. “Nhưng, không, tôi thật sự không đồng ý rằng nhà thơ là những nhà lập pháp không được thừa nhận của thế giới,” Richard Cheeseman ngẫm ngợi. “Chỉ có nhà thơ hạng ba kiểu Shelley mới tin một điều viển vông thế.”
Hội nghị chuyên đề mau chóng kết thúc, tôi đi lên sân khấu. “Richard, anh đúng là tiếng nói của lý trí, từ đầu đến cuối.”
Chiều tối. Trên những con phố hẹp do người Hà Lan thiết kế và được nô lệ của họ xây nên cách đây bốn thế kỷ, các bà ngoại đang tưới những bụi phong lữ. Tôi leo lên bậc đá đến khu thành cổ. Đá tỏa nhiệt từ ban ngày qua đế giày mỏng dưới chân tôi, mặt trời hồng đỏ như màu cây đại hoàng, mỗi lúc một phình ra khi lặn xuống biển Caribe. Một lần nữa tôi tự hỏi, cớ gì mà tôi cứ sống ở cái xứ trời mưa dầm dề con người chua chát ấy? Nếu Zoë và tôi li dị thật, tại sao không nhổ cọc mà dọn đến nơi nào ấm áp? Đây cũng được vậy. Bên dưới, giữa bốn làn xe cộ và biển cả, bọn nhóc con đang chơi bóng đá trên sân bụi: một đội mặc áo thun, đội kia cởi trần. Tôi đi về trước, tìm một băng ghế trống. Vậy. Tha bổng vào phút cuối chăng?
Không đời nào. Tôi viết Tiếng Vọng Phải Chết trong bốn năm, và tay Cheeseman rậm râu ấy đã giết chết nó trong vòng tám trăm chữ. Hắn đã nâng danh tiếng của mình lên bằng cách hạ tôi xuống. Đấy là ăn cắp. Công lý đòi hỏi kẻ cắp phải bị trừng phạt.
Tôi nhét năm viên kẹo bạc hà Mint Imperials vào miệng, rút ra chiếc điện thoại nạp tiền mà Biên tập viên Miguel đã đưa và, từng phím một, tôi bấm số điện thoại đã chép xuống từ áp phích tại sân bay Heathrow. Tiếng xe cộ, chim biển và bọn trẻ đá bóng chỉ còn văng vẳng. Tôi nhấn nút gọi.
Giọng nữ đáp ngay: “Đường dây mật của Cục Hải quan Heathrow xin nghe?” Tôi nói, giả giọng Michael Caine cực sến, mấy viên Mint Imperial làm giọng tôi thêm eo éo. “Nghe đây. Có một gã này, tên là Richard Cheeseman, bay về London từ Colombia trên chuyến bay số hiệu BA713, tối mai. BA713, tối mai. Cô nghe rõ chứ?”
“BA713, thưa ông. Vâng, tôi đang ghi lại đây.” Tự dưng tôi thấy thót ruột. Đương nhiên rồi, họ phải ghi âm hết chứ. “Phiền ông nhắc lại tên của người này?”
“Richard Cheeseman. “Cheese” và “man”. Ông ta mang cocaine trong va-li. Cứ để chó nghiệp vụ đánh hơi. Rồi cô xem.”
“Tôi hiểu,” người phụ nữ đáp. “Thưa ông, tôi muốn hỏi liệu…”
CHẤM DỨT CUỘC GỌI, dòng chữ mập mạp trên màn hình bé xíu báo. Âm thanh của buổi chiều tối trở lại. Tôi nhả mớ Mint Imperials. Mấy viên kẹo vỡ vụn trên mặt đá, nằm đó, như những mẩu răng sau một cuộc ẩu đả. Richard Cheeseman đã tấn công: còn tôi phản công. Đạo đức cũng như vật lý Newton. Có thể những gì tôi vừa nói đủ để người ta khám hành lý hắn. Có thể không. Có thể hắn sẽ được tha bổng sau khi bị cảnh cáo, hoặc bị đánh đòn công khai. Có thể vụ bê bối này sẽ khiến hắn mất cột báo trên tờ Telegraph. Có thể không. Phần tôi đã xong, giờ chỉ tùy vào Số Phận. Tôi đi xuống những bậc đá, giả vờ thắt dây giày. Sè sẹ tôi thảy chiếc điện thoại xuống cống thoát nước. Plop! Đến khi tàn tích của nó được khai quật, nếu có chuyện đó thật, thì hết thảy những kẻ còn sống trong buổi chiều huy hoàng này đều đã chết được mấy thế kỷ.
Tức là bạn, độc giả thân mến, tôi, Richard Cheeseman, hết thảy chúng ta.