21 Tháng Hai 2017
Aphra Booth bắt đầu trang tiếp theo trong Bản tuyên cáo lập trường, tựa đề Đực rựa, Tai Tái và Heo Héo: Đập bỏ/Giải kiến tạo những con bù nhìn rơm hậu-hậu-nữ quyền trong nền văn học tân dương vật tính. Tôi rót thêm nước suối có ga. Òng ọc, róc rách, xì xoạt… Bên phải tôi, chủ tọa đang ngồi, cặp mắt kiểu giáo sư nửa cụp xuống, ra vẻ tập trung cao độ như đang hành lễ, nhưng tôi đoán hắn đang ngủ thì có. Bức tường kính phía sau khán giả nhìn ra dòng sông Swan, lấp lánh ánh xanh bạc chảy qua Perth, Tây Australia. Aphra ra rả thế đã được bao lâu rồi? Còn chán hơn đi nhà thờ nữa. Hoặc chủ tọa đã ngủ gục thật, hoặc hắn quá sợ không dám cắt ngang lời bà Booth. Không tập trung, tôi bỏ lỡ những gì? “Khi soi vào tấm gương giới tính, những siêu hệ hình tính nam về tâm thần nữ giới lại khúc xạ cái ẩn ý mờ đục bất đối xứng ấy; hoặc, diễn giải theo chính tôi, khi Sao Kim vẽ Sao Hỏa, nàng vẽ từ bên dưới; từ phòng giặt và tấm lót thay tã. Nhưng khi Sao Hỏa vẽ Sao Kim, chàng không thể làm gì khác hơn là vẽ từ bên trên; từ ngai của thầy tế Hồi giáo, từ bục giảng kinh của tổng giám mục hay qua ống kính của thợ ảnh khiêu dâm…” Tôi vươn vai ngáp dài, Aphra Booth xoay quanh. “Không có PowerPoint thì theo không nổi hả Crispin?”
“À bệnh cũ tái phát ấy mà, tôi vốn bị ngồi lâu đông máu, Aphra.” Tôi được thưởng một vài cái khúc khích sợ sệt, và khả năng có đụng độ khiến đám dân Perth say nắng tự dưng tươi tỉnh hơn chút. “Cô nói thế cũng được vài tiếng rồi. Tôi tưởng chủ đề hôm nay là linh hồn kia mà?”
“Lễ hội này vẫn chưa có chuyện kiểm duyệt.” Ả lườm tay chủ tọa. “Tôi nói đúng không?”
“Ồ, đúng thế,” hắn nháy mắt, “ở Australia không có chuyện kiểm duyệt. Nhất định thế rồi.”
“Vậy thì nên chăng Crispin sẽ lịch sự,” Aphra Booth mắt hình viên đạn lướt lại phía tôi, “mà để tôi nói xong. Bất cứ ai đã thôi mặc tã về mặt trí tuệ, đều biết rõ rằng linh hồn là một hiện thân tiền-Descartes. Nếu khái niệm đấy quá phức tạp thì cứ mút kẹo mà đứng im trong góc đợi nhé.”
“Tôi thà mút thuốc độc.” Tôi lẩm bẩm.
“Crispin muốn ăn thuốc độc! Có ai sẵn đấy không? Làm ơn đấy.” Ôi, đám xác ướp vừa được tưới lại, cứ gọi là ríu rít râm ran!
Đến khi Aphra Booth nói xong, chín mươi phút chỉ còn đúng mười lăm. Tay chủ tọa cố bắt lấy chủ đề chính đang dần trôi xa, hỏi tôi liệu tôi có tin vào linh hồn không, nếu có thì linh hồn là gì. Tôi ví von linh hồn là một thứ bảng điểm nghiệp chướng; là thẻ nhớ tâm linh mải đi tìm một ổ cứng hữu hình; và là giả dược ta tạo ra để chữa chứng sợ chết. Aphra Booth đá đểu, cho rằng tôi đã né tránh câu hỏi vì tôi vốn mắc chứng sợ ràng buộc - “như chúng ta đều biết.” Rõ ý nhắc đến vụ ly dị ồn ào mới đây của tôi và Zoë, vậy là tôi đề nghị ả thôi trò bóng gió hèn hạ ấy, mà muốn nói gì thì cứ nói toạc móng heo ra đi. Ả tố tôi là kẻ theo chủ-nghĩa-duy-Hershey, còn bị hoang tưởng nữa. Tôi tố ả chuyên tố bừa bãi nhưng không có gan cãi theo đến cùng, tôi lấy hết sức lực nhấn mạnh chữ “gan”. Kịch tính lên cao độ. “Cái nghịch lý bi thảm của Crispin Hershey,” Aphra Booth nói với cả lán, “là trong khi đóng vai hung thần của văn chương sáo rỗng, cái vị trí Johnny Rotten[46] trên văn đàn của ông ta lại chính là khuôn mẫu sáo nhất, chán nhất trong cái sở thú đàn ông. Nhưng ngay cả vị trí ấy cũng bị lung lay cực độ qua chuyện ông ta ủng hộ một tay buôn lậu ma túy đã bị kết án.”
Tôi tưởng tượng ra một cái máy sấy tóc bay vèo vào bồn tắm của ả: tứ chi ả co giật, tóc bốc khói trong khi ả tắt thở. “Richard Cheeseman là nạn nhân của án oan sai nghiêm trọng, chuyện cô dùng nghịch cảnh của anh ấy làm đòn hạ tôi thật thô bỉ đến không thể tin nổi, ngay cả đối với tiến sĩ Aphra Booth đây.”
“Ba mươi gram cocaine được tìm thấy trong lớp vải bọc va li của anh ta.”
“Tôi nghĩ là,” chủ tọa lên tiếng, “chúng ta nên trở lại…”
Tôi ngắt lời hắn: “Ba mươi gram không làm nên trùm buôn ma túy.”
“Không, Crispin: nghe kỹ lại đi - tôi nói là tay buôn ma túy kia mà.”
“Không có bằng chứng cho thấy Richard Cheeseman giấu chỗ cocaine đó.”
“Vậy thì ai giấu?”
“Tôi không biết, nhưng…”
“Cảm ơn.”
“… nhưng Richard không bao giờ lại đi làm chuyện liều lĩnh ngớ ngẩn đến vậy.”
“Trừ khi anh ta là một con nghiện và nghĩ rằng tiếng tăm khiến mình đứng trên luật pháp Colombia, như thẩm phán và bồi thẩm đoàn đã kết luận.”
“Nếu Richard Cheeseman mà là Rebecca Cheeseman, giờ này cô đã đốt lông mu bên ngoài Đại sứ quan Colombia, gào thét đòi công lý. Ít nhất Richard cũng phải được chuyển về nhà tù Anh quốc. Buôn lậu ma túy là tội cấu thành ở nước đến, không phải nước đi.”
“Ồ… vậy ra bây giờ ông nói rằng Cheeseman là tay buôn lậu ma túy?”
“Anh ấy phải được phép đấu tranh chứng minh mình vô tội trong nhà tù Anh quốc, không phải trong một cái hang thối tha ở Bogotá, không có cả xà phòng, chứ nói gì đến luật sư bào chữa cho tử tế.”
“Nhưng với tư cách là nhà báo ở Tạp chí Piccadilly thiên hữu, Richard Cheeseman từng rất hùng hổ ủng hộ án tù, như biện pháp răn đe. Đúng ra, theo như…”
“Đủ rồi, Aphra, mụ béo thiển cận.”
Aphra nhảy dựng lên, chỉ ngón tay về phía tôi, như thể nó là một quả tên lửa chống bức xạ. “Xin lỗi ngay bây giờ, nếu không thì sẽ được học ngay một bài về tòa án Australia, tội bôi nhọ, phỉ báng và uy hiếp hình thức người khác!”
“Tôi chắc rằng Crispin chỉ có ý…”chủ tọa hó hé, “rằng…”
“Tôi đòi hỏi một lời xin lỗi từ Con Lợn Đực Nặng Ký Nhất ấy!”
“Đương nhiên là tôi xin lỗi cô, Aphra. Thực ra tôi muốn nói rằng cô là một mụ béo thiển cận, vô duyên, kỳ thị giới tính, õng à õng ẹo, chuyên nghề hiếp đáp sinh viên để chúng bình năm sao cho sách của mình trên Amazon, và còn nữa, ngày Mười tháng Hai lúc mười sáu giờ, giờ địa phương, có người thấy tận mắt cô mua một cuốn tiểu thuyết của Dan Brown tại Hiệu sách Relay ở sân bay quốc tế Singapore Changi. Một nhân chứng công tâm đã kịp tải đoạn ghi hình lên YouTube, nếu cô muốn xem.”
Khán giả đồng loạt há hốc miệng, thật đích đáng.
“Và đừng nói cô đọc ‘chỉ để nghiên cứu,’ Aphra, bởi vì chả ai tin đâu. Rồi đấy. Tôi hi vọng lời xin lỗi này đã giải thích cả.”
“Anh,” Aphra Booth quay sang chủ tọa, “không thể mời lên diễn đàn một con lợn sô-vanh thối nát bốc mùi như thế này được, còn anh,” chỉ tôi, “sẽ cần thuê luật sư chuyên tội phỉ báng vì tôi sẽ kiện cho anh hết ngóc đầu nổi!”
Aphra Booth rời sân khấu về bên trái, ở dưới như vỡ chợ.
“Ôi, đừng thế chứ, Aphra,” tôi gọi với theo. “Fan của cô đang ở đây nè. Cả hai người luôn. Aphra… Phải chăng tôi đã nói gì không phải?”
Tôi đạp xe khỏi dãy phố toàn hàng lưu niệm và quán cà phê, nhưng chỉ một phút sau đã đến một ngõ cụt ở khu quân sự bụi bặm. Quanh đó có những nhà tạm cho binh lính kiểu Đệ Nhị Thế Chiến rồi tôi nhớ mang máng có lần nghe rằng tù nhân chiến tranh người Ý từng bị giam giữ trên đảo Rottnest. Dòng suy nghĩ đó đưa tôi về với Richard Cheeseman, cũng như nhiều dòng suy nghĩ khác trong những ngày này.
Vụ trả thù tai họa của tôi ở Cartagena năm ngoái không chỉ nổ đì đạch, mà đúng ra là đã bùng nổ, thành công kinh hồn khiếp vía: Cheeseman giờ đây đã ở tù được ba trăm bốn mươi hai ngày, đang chịu án sáu năm tại nhà tù Penitenciaría Central, Bogotá vì tội buôn ma túy. Buôn ma túy! Chỉ vì một cái phong bao nhỏ xíu! Nhóm những người bạn của Richard Cheeseman cố xoay xở để hắn được giam biệt lập, có giường đá, nhưng đổi lại với tiện nghi xa xỉ ấy, chúng tôi đã phải trả hai nghìn đô la cho đám đại bàng trong khu nhà giam đó. Đã có vô số, vô số lần tôi tha thiết muốn sửa chữa cái tội lỗi liều lĩnh ấy, nhưng như ngạn ngữ Ả Rập từng nói, đến cả Thượng đế cũng không thay đổi được quá khứ. Chúng tôi - Nhóm Những người bạn đang dùng mọi phương cách để rút ngắn án cho nhà phê bình, hoặc ít nhất tìm cách hồi hương hắn về Anh quốc, nhưng vô cùng khó khăn. Chúng tôi có được sự hậu thuẫn của Dominic Fitzsimmons - vị thứ trưởng giỏi giang và khôn khéo ở Bộ Tư Pháp từng quen với Cheeseman hồi học Cambridge, nhưng thứ trưởng phải hành động thật kín đáo để tránh mang tiếng thân hữu chủ nghĩa. Ngoài ra, chẳng mấy ai thông cảm cho tay nhà báo bố láo. Người ta chỉ ra án chung thân nhan nhản ở Thái Lan và Indonesia rồi kết luận rằng Cheeseman đã được xử quá nhẹ nhàng, nhưng cuộc sống trong nhà tù Penitenciaría thì chẳng có gì là “nhẹ nhàng” cả. Mỗi tháng có hai, ba người chết trong đó.
Tôi biết, tôi biết chứ. Chỉ cần một người, một người thôi, là đã có thể kéo Cheeseman ra khỏi địa ngục trần gian ở Bogotá, người ấy chính là Crispin Hershey - nhưng hãy nghĩ đến cái giá phải trả. Làm ơn mà. Nếu khai tuốt tuồn tuột, tôi sẽ phải đi tù, rất nhiều khả năng ở ngay địa chỉ hiện nay của Cheeseman. Chi phí luật sư sẽ làm tôi táng gia bại sản, và sẽ không có nhóm nhữngngườibạncủacrispinhershey.org nào đi mua cho tôi một phòng giam riêng - tôi sẽ bị thả ngay vào bể cá cọp. Juno và Anaïs sẽ từ mặt tôi vĩnh viễn. Khai tuốt thì khác gì tự sát, tôi thà làm một kẻ hèn nhát tội lỗi, còn hơn là làm Judas đã chết.
Tôi không thể làm thế với chính mình. Tôi không thể.
Xa khỏi bãi tập quân sự, con đường đất mất hút.
Ai cũng từng đi nhầm đường vài lần. Tôi quay xe đạp lại.
Nắng buổi chiều như lò vi sóng, mở toang cửa, nướng chín thịt da trần. Đảo Rottnest hẳn là đảo nhỏ nhất, chỉ có tám dặm vuông toàn đá trần trụi và những con rãnh cạn khô, những khúc uốn lượn lắt léo, rồi gập ghềnh lên xuống; và đứng trên đảo luôn nhìn thấy được Ấn Độ Dương, không bên này thì bên kia, hoặc chỉ cần đến khúc quanh tiếp theo là thấy. Lên đến nửa dốc tôi xuống xe, đẩy bộ. Tiếng mạch đập như trống bên tai, áo tôi dính nhẹp vào thân mình phát tướng. Từ khi nào mà tôi yếu như sên thế này? Hồi ba mấy tuổi tôi có thể chạy vèo lên con dốc này, nhưng bây giờ tôi mệt gần ói. Lần cuối cùng tôi đạp xe là khi nào? Tám năm trước, hay độ ấy, với Juno và Anaïs trong vườn sau nhà ở Pembridge Place. Một buổi chiều trong kỳ nghỉ, tôi làm đường đua chướng ngại cho hai con bé với dốc bằng ván, một đường trượt lắt léo với cọc tre, một đường hầm bằng tấm trải giường và dây phơi đồ, thêm một thằng bù nhìn rơm gian ác để dùng gươm báu Excalibur chặt đầu khi đạp xe ngang qua. Tôi đặt tên là “Đường đua mạo hiểm”, rồi ba cha con đua tính giờ. Cô giúp việc người Pháp ấy, tôi quên mất tên, đã làm món nước bưởi đắng mát lạnh, Zoë cũng nhập hội picnic ở khoảng rừng thưa thần tiên sau bụi cẩm tú cầu nở rộ. Juno và Anaïs thường đòi tôi làm lại đường đua như thế, mà tôi muốn lắm chứ, nhưng lúc nào cũng có bài bình sách phải viết, email phải gởi, hoặc một cảnh trong sách phải tuốt lại, và “Đường đua mạo hiểm” chỉ được tổ chức duy có một lần. Xe đạp của bọn nhóc đi đâu rồi nhỉ? Hẳn Zoë đã vứt rồi, tôi đoán. Vứt đi những thứ thừa thãi vốn là sở trường của nàng.
Cuối cùng, thật nhẹ cả người, tôi lên đến đỉnh dốc, ngồi lên xe lại và thả dốc xuống sườn bên kia. Cây ô-liu dại trở mình từ lớp đất xam xám quanh những hồ nước sền sệt. Tôi tưởng tượng ra những thủy thủ đầu tiên từ châu Âu đặt chân đến đây, đi tìm nước uống trong vườn địa đàng âm u, rồi lặng lẽ ngồi bĩnh một bãi. Những gã du thủ du thực từ Liverpool, Rotterdam, Le Havre và Cork: da ngăm nắng, người xăm trổ, bị chứng thiếu hụt vitamin C, chai sạn và cơ bắp thô tháp, và…
Tự dưng tôi có cảm giác như mình đang bị theo dõi.
Cảm giác rất mạnh. Rất lạ lùng. Bất an.
Tôi nhìn quanh dốc. Mỗi phiến đá, bụi cây…
…không. Không có ai cả. Chỉ là… chỉ là gì chứ? Tôi muốn quay lại từ đầu.
Ở ngã rẽ sau đó, tôi theo đường về hải đăng. Không hề hoành tráng như vua núi khoác áo choàng trắng, Hải đăng Rottness giống một ngón tay giữa mập mạp chòi lên giữa núi, gầm ghè, “Ngồi đó đi, bồ tèo.” Nó cứ thoắt ẩn thoắt hiện từ những góc quái lạ, lúc to lúc nhỏ, nhưng mãi mà tôi vẫn chưa đến. Có một ngọn đồi như thế trong truyện Qua Tấm Gương Soi, cứ chạy xa mãi cho đến khi Alice dừng lại, không cố gắng chạy đến đó nữa - có lẽ tôi thử vậy xem sao. Tôi nghĩ gì bây giờ, để giết thời gian?
Richard Cheeseman, còn gì nữa? Tôi chỉ muốn làm Richard Cheeseman bẽ mặt, có thế thôi. Tôi đã hình dung rằng hắn sẽ bị giữ lại vài tiếng đồng hồ ở sân bay Heathrow, khi luật sư hối hả vào cuộc, và một nhà phê bình khiêm tốn hơn sau đó sẽ được bảo lãnh tại ngoại. Có thế thôi. Làm sao tôi dự trước chuyện cảnh sát Anh và Columbia đang vào mùa hợp đồng tác chiến, kết quả là Richard khốn nạn bị bắt ngay tại sân bay quốc tế Bogotá, trước khi lên máy bay?
“Có gì mà không đoán được,” lương tâm tôi trả lời. Và vâng, thưa độc giả quý mến, tôi rất hối tiếc, tôi đang cố chuộc tội. Với em gái Maggie của Richard, tôi thành lập Nhóm Những Người Bạn Của Richard Cheeseman để câu chuyện không bị chìm xuồng, và mặc dù hành động của tôi thật đáng chê trách, tôi đâu phải hạng Gian Ác Bậc Nhất. Tôi đâu phải ông giám mục Cơ đốc nào đấy, cứ luân chuyển bọn linh mục xâm hại các bé trai từ xứ đạo này đến xứ đạo kia qua hàng thập kỷ để tránh tiếng xấu cho Nhà Thờ. Tôi đâu phải là cựu tổng thống Bashar al-Assad của Syria, kẻ từng dùng khí độc giết chết hàng nghìn đàn ông, đàn bà và trẻ con chỉ vì can tội sống ở vùng ngoại ô dưới quyền kiểm soát của quân nổi loạn. Tôi chỉ làm mỗi việc là trừng phạt một người từng bôi nhọ tiếng tăm của mình. Hình phạt có hơi quá tay. Đúng thế, tôi có tội. Tôi ân hận lắm. Nhưng tội lỗi là gánh nặng của chính tôi. Của chính tôi.
Hình phạt của tôi là phải sống tiếp với những gì mình đã gây ra.
Iphone rung trong túi áo sơ mi. Vừa hết hơi, tôi dừng xe dưới bóng một phiến đá to như cái nhà kho. Tôi làm rơi điện thoại rồi phải nhặt lên từ đám sỏi bạc thếch, nắm lấy sợi móc khóa Moshi Monsters mà Anaïs đã cột vào. Thật đúng lúc, tin nhắn từ Zoë, hay đúng hơn, là một tấm hình chụp tiệc sinh nhật mười ba tuổi của Juno tại nhà ở Montreal. Căn nhà do tôi mua, thuộc sở hữu của Zoë kể từ khi li dị. Đằng sau bánh sinh nhật hình con ngựa, Juno cầm đôi giày cưỡi ngựa tôi mua, và Anaïs làm mặt ngố, cầm tờ giấy ghi chữ, “Bonjour, Papa!” Zoë gượng gạo đứng vào nền ảnh, bắt tôi phải đoán ai là người chụp ảnh. Có thể là một thành viên của La Famille Legrange, nhưng Juno có nhắc đến một gã nào đó tên là Jerome, dân nhà băng đã lị dị, có một con gái riêng. Tôi không màng quan tâm Zoë đang cặp với ai, nhưng rõ là tôi có quyền biết ai là người chúc con tôi ngủ ngon mỗi đêm, sau khi mẹ chúng đã quyết định người đấy không phải là tôi. Zoë không gởi kèm tin nhắn nào cả, nhưng ẩn ý thì quá rõ: Không có anh mẹ con chúng tôi vẫn ổn, Cảm ơn.
Tôi để ý thấy một con chim xinh xinh trên cành cây, chỉ cách đó vài mét. Con chim màu trắng và đen, mào đỏ, ức đỏ. Để tôi chụp một tấm rồi gởi Juno, kèm theo một tin nhắn chúc sinh nhật thật hài hước. Tôi ra khỏi hộp thư tin nhắn và ấn biểu tượng máy ảnh, nhưng khi tôi nhìn lên, con chim đã bay mất.
Hai chiếc xe đạp đang dựa vào hải đăng khi Crispin Hershey đến nơi, khiến chàng không vừa lòng tí nào. Tôi xuống xe, nhớp nháp mồ hôi, đáy chậu ê ẩm. Tôi bước từ mảng nắng chói rực đến chỗ hải đăng đổ bóng, nơi mà, thật hay ho làm sao, hai đồng loại giống cái đang ăn uống picnic. Đồng loại trẻ hơn mặc áo sơ mi Hawai giả, quần sọc khaki dài đến đầu gối, má và trán lem nhem kem chống nắng xanh xanh. Đồng loại già hơn mặc đồ vải nhuộm thủ công, kiểu yêu mẹ-trái-đất, đội mũ rộng vành trắng, mái tóc đen rối tung, thêm cặp kính râm che chắn tối đa. Đồng loại trẻ tiến đến - hãy còn đang tuổi choai choai, rồi nói, “Oa. Xin chào. Bác là Crispin Hershey.” Cô bé nói tiếng Anh giọng người phía Đông Nam.
“Đúng thế.” Lâu lắm rồi mới có người nhận ra tôi ngoài đời.
“Chào bác. Cháu là Aoife, à… ờ… Mẹ cháu đây từng gặp bác.”
Người phụ nữ lớn tuổi đứng dậy, tháo kính râm. “Chào anh Hershey. Chắc anh không nhớ tôi…”
“Holly Sykes. Đúng rồi. Ta đã gặp ở Cartagena, năm ngoái.”
“Oa, trời đất!” Aoife nói. “Nhà văn Crispin Hershey biết mẹ là ai. Dì Sharon sẽ sốc hết cỡ cho coi.”
Cô bé làm tôi nhớ Juno da diết, à mà một tí thôi.
“Aoife.” Giọng có vẻ hơi la rầy: Nữ Văn Sĩ Viết Truyện Thiên Thần đắt hàng có vẻ không thoải mái với danh tiếng của mình. “Bác Hershey cần chút yên tĩnh sau lễ hội. Mình về thành phố lại đi?”
Cô bé đưa tay xua một con ruồi. “Mình chỉ mới tới đây mà mẹ. Ai lại làm vậy. Bác không phiền xài chung hải đăng chứ?”
“Không cần phải bỏ đi vì tôi đâu,” tôi nghe mình lên tiếng.
“Ô kê,” Aoife đáp. “Vậy bác ngồi ghế đi, à không, ngồi lên đá đi. Hai mẹ con thấy bác trên phà đi Rottnest, nhưng mẹ nói đừng làm phiền bác vì trông bác mệt lắm.”
Nữ Văn Sĩ Viết Truyện Thiên Thần có vẻ muốn tránh mặt tôi. Hồi ở dinh thự tổng thống tôi đã bất nhã lắm sao? “Lệch múi giờ mà, không cách gì chống nổi.”
“Bác nói có lý.” Aoife quạt mát bằng mũ. “Đó là lý do tại sao Australia và New Zealand không bị xâm lược. Quân ngoại bang nào đến bờ biển, đi nửa chừng thì bị lệch múi giờ, rồi ặc ặc, ngã gục xuống cát, khỏi xâm lược gì nữa. Xin lỗi đã bỏ lỡ sự kiện lúc nãy của bác.”
Tôi nghĩ đến Aphra Booth. “Có gì đâu. Vậy…” tôi quay sang người mẹ “… cô cũng nói chuyện tại Lễ hội nhà văn hả?”
Holly Sykes gật đầu, uống nước từ trong chai. “Aoife đang ở Sydney, nghỉ một năm trước khi vào Đại học, nên tiện đôi đường.”
“Bạn cùng nhà của cháu dưới Sydney là người Perth,” Aoife tiếp, “nó cứ nói là, ‘Nếu đi Perth thì phải đi Rotto.’”
Bọn choai choai luôn khiến tôi thấy mình thật già. “‘Rotto’?”
“Tức là đây. Rotto là đảo Rottnest. Fremantle là ‘Freo’; buổi chiều là ‘chìu’. Người Australia nói chuyện hay hả?’”
Không, bình thường tôi đã trả lời thế, người lớn mà ăn nói như trẻ con. Nhưng nhân loại còn chi nếu thiếu đi tuổi trẻ? Ngôn ngữ còn chi nếu thiếu đi cái mới? Không có tuổi trẻ và những thứ mới mẻ, ta chỉ là những người Struldbrug[47], nói thứ tiếng Anh của Chaucer.
“Bác ăn trái mơ không?” Aoife đưa cho tôi một cái túi giấy màu nâu.
Lưỡi tôi ép một quả đượm hương nữa lên vòm miệng. Tôi ném hạt mơ, nghĩ đến mẹ của Jack ném đi những hạt đậu, sáng hôm sau sẽ mọc thành dây đậu thần. “Mơ chín có vị y như màu của nó.”
“Bác đúng là nhà văn thứ thiệt, bác Crispin à,” Aoife nói. “Cậu Brendan cứ chọc mẹ, nói giờ mẹ là nhà văn nổi tiếng mẹ phải ăn nói sao cho chảnh hơn, chứ đừng hở cái là ‘Coi chừng đó tui quýnh cái giờ.’”
Holly Sykes phản đối. “Mẹ đâu có nói vậy!”
Tôi nhớ cách Juno và Anaïs hay trêu tôi. “Vậy vụ nghỉ học một năm này là sao hả Aoife?”
“Cháu sẽ học khảo cổ ở Manchester tháng Chín tới, nhưng biên tập viên ở Australia của mẹ có quen với một giáo sư khảo cổ học ở Sydney, nên học kỳ này cháu được dự thính bài giảng, đổi lại cháu phụ việc cho một dự án ở Parramatta. Chỗ đó từng có nhà máy cho nữ tù nhân. Rất thú vị, cháu thu thập tài liệu, xâu chuỗi chi tiết cuộc đời của họ.”
“Hay đấy,” Tôi nói với Aoife. “Cha cháu là nhà khảo cổ sao?”
“Ba cháu hồi đó làm nhà báo. Nhà báo tác nghiệp ở nước ngoài.”
“Vậy giờ ông ấy…” tôi vừa nhận ra ẩn ý thì đã muộn “làm gì?”
“Khách sạn ba ở chẳng may bị trúng tên lửa. Homs, Syria.”
Tôi gật đầu. “Tôi thật khiếm nhã. Xin lỗi hai người.”
“Chuyện cũng tám năm rồi,” Holly Sykes động viên tôi, “với lại…”
“… với lại cháu rất may mắn,” giờ đến lượt Aoife, “vì trên Youtube có ti tỉ bài phỏng vấn của ba, nên cháu chỉ cần lên mạng là thấy ba đó, nói chuyện như còn sống. Chỉ thua được gặp ba thật thôi.”
Ông cụ nhà tôi cũng trên Youtube, nhưng mỗi lần xem tôi thấy bã cả người. Tôi hỏi Aoife, “Ông ấy tên gì?”
“Ed Brubeck. Cháu lấy họ cha. Aoife Brubeck.”
“Không phải chính là Ed Brubeck đấy chứ? Viết cho tạp chí Spyglass?”
“Chính là anh ấy,” Holly Sykes đáp. “Anh có đọc bài của Ed sao?”
“Tôi từng gặp anh ấy! Ở đâu nhỉ? Washington, khoảng đâu hồi năm 2002? Anh rể của vợ cũ tôi là thành viên hội đồng chấm giải Sheehan-Dower. Năm đó họ tặng giải cho Ed, tôi cũng có buổi đọc sách ngay tại đấy, vậy là hai người ngồi cùng bàn ăn tối hôm đó.”
Aoife hỏi, “Vậy hai người nói chuyện gì?”
“Ồ, cả trăm chuyện. Công việc của anh ấy. Vụ 9/11. Nỗi sợ hãi. Chính trị. Chiếc xe nôi đặt giữa nhà của kẻ theo nghiệp viết. Khi đó anh ấy có con nhỏ lên bốn ở London, tôi còn nhớ.” Aoife mỉm cười, cả gương mặt tròn rạng rỡ. “Tôi đang viết về một nhân vật nhà báo, vậy nên Ed cho tôi hỏi chuyện. Rồi sau đó thi thoảng hai người có email qua lại. Khi tôi nghe tin, về Syria…” Tôi thở hắt ra. “Xin chia buồn với hai mẹ con, dù muộn màng. Quá muộn màng. Anh ấy là một nhà báo xuất sắc.”
“Cảm ơn anh,” một người nói; “Cảm ơn bác,” người kia tiếp.
Cả ba nhìn ra mười một dặm biển nơi có những chuyến phà liên tục. Những tòa nhà chọc trời sẫm màu ở Perth nổi bật trên nền trời sáng.
Cách chừng hai mươi bước, một con thú lạ cỡ vừa tha thẩn ra khỏi bụi cây, đi xuống dốc. Nó mũm mĩm như chuột túi wallaby, màu nâu đo đỏ, có chân giống kangaroo và bộ mặt nửa gấu túi nửa cáo. Một cái lưỡi béo như ngón tay mút quanh hạt mơ. “Trời đất. Cái gì thế?”
“Ghét không? Con quokka đó,” Aoife.
“Quokka là gì? Ngoại trừ một từ độc khi chơi Scrabble.”
“Một loài thú có túi bị đe dọa tuyệt chủng. Người Hà Lan đầu tiên đặt chân đến đây cứ nghĩ tụi nó là chuột khổng lồ, vậy nên họ gọi chỗ này là Đảo Ổ Chuột- Rat’s Nest, trong tiếng Hà Lan thành Rottnest. Hầu hết quokka trên đất liền bị chó mèo giết sạch nhưng ở ngoài này thì sống được.”
“Nếu khảo cổ học mà không thành thì có khi cháu chuyển ngành sang lịch sử tự nhiên cũng được”
Aoife mỉm cười. “Cháu mới tra trên Wikipedia cách đây năm phút.”
Tôi hỏi, “Chắc tụi nó thích ăn mơ nhỉ? Còn một quả héo đây.”
Holly ngài ngại. “Còn tấm biển ‘Đừng cho thú ăn’ thì sao?”
“Có phải như mình quăng sô cô la Cherry Ripe cho nó đâu mẹ.”
“Với cả,” tôi tiếp, “nếu chúng bị đe dọa tuyệt chủng, thì hẳn chúng cần nhiều vitamin C chứ.” Tôi thảy quả mơ về phía con vật, cách vài bước. Nó lạch bạch chạy tới, đánh hơi, nhai rau ráu rồi ngước nhìn ba người.
““Xin ông làm ơn làm phước,”” Aoife giả giọng run run kiểu Oliver Twist, “cho tôi thêm chút nữa được không?” Trời, sao mà dễ thương quá? Phải chụp một tấm mới được.”
“Đừng tới gần quá cưng à,” mẹ cô bé lên tiếng. “Nó là con vật hoang, nhát người.”
“Con biết rồi.” Aoife bước xuống dốc, tay cầm điện thoại đưa ra.
“Con bé ngoan thật,” tôi nói với mẹ cô bé, hạ giọng.
Cô ta nhìn tôi, và tôi thấy dấu vết của một cuộc đời vất vả, trọn vẹn quanh đôi mắt ấy. Giá mà cô ta đừng viết sách kể chuyện thiên thần vớ vẩn cho đàn bà nhẹ dạ, bất mãn với cuộc sống, thì biết đâu cả hai có thể là bạn. Hẳn Holly Sykes biết tôi có hai con gái, biết cả vụ li dị: Kẻ (từng) Nổi Loạn Trên Văn Đàn Anh Quốc có lẽ không đủ nổi tiếng để bán được nhiều sách, nhưng bài phỏng vấn ồn ào của Zoë trên báo Telegraph Chủ Nhật đã kịp cho người ta biết câu chuyện rắc rối (theo một phía) của chúng tôi. Holly và tôi nhìn Aoife cho con quokka ăn, quanh chúng tôi là những dốc đá Rottnest bạc màu, tiếng ong ong ríu rít của côn trùng, nghe như đang ù tai. Một con thạch sùng băng qua bụi đất và…
Cảm giác bị theo dõi trở lại, mạnh cực kỳ. Ở đây không chỉ có tôi và Holly. Có nhiều người lắm. Rất gần. Tôi thề.
Từ cây keo đến những bụi cây xơ xác đến những phiến đá to như nhà kho… Làm gì có ai.
“Anh cũng cảm thấy họ phải không?” Holly Sykes đang nhìn tôi: “Chỗ này giống như buồng tiếng vọng…”
Nếu tôi đồng ý, cũng có nghĩa là tôi chấp nhận cái thế giới phi thực nghiệm, viển vông của cô ta. Nếu đồng ý, làm sao tôi có thể phủ nhận thuật chữa bệnh bằng tinh thể, liệu pháp kiếp trước, lục địa Atlantis, thuật reiki và phép chữa vi lượng đồng cân? Nhưng vấn đề là, cô ta nói đúng. Tôi có cảm thấy những người đó. Nơi này như… Từ tương đương với “ma ám” là gì nhỉ, ông nhà văn? Cổ họng tôi khô khốc. Bình nước đã cạn sạch.
Bên dưới, từng đợt sóng lớn xanh biếc đổ lên đá. Tôi nghe có tiếng bùm, nhè nhẹ văng vẳng, chừng một giây sau. Xa xa, dân lướt ván đang mải mê.
“Họ bị đưa đến đến trong gông cùm,” Holly Sykes nói.
“Ai kia?”
“Người Noongar. Họ gọi đảo này là Wadjemup. Tức là Chỗ Bắt Ngang Mặt Nước.” Cô ta khịt mũi. “Với người Noongar, không ai có thể sở hữu đất đai. Cũng như bốn mùa, hay một năm vậy. Đất cho gì, phải chia sẻ với nhau.” Giọng Holly Sykes hạ dần, run run, như thể cô ta không phải đang nói mà đang dịch một đoạn văn bản rối rắm. Hoặc đang cố nghe một giọng nói trong đám đông gào thét. “Ma trắng djanga đến. Chúng tôi tưởng họ là người chết vừa quay lại. Khi chết đi người ta quên tiếng nói mà, nên họ nói như chim. Ban đầu chỉ có vài người. Thuyền của họ to như ngọn đồi, nhưng trống rỗng, như những cái nhà lớn trôi nổi, bên trong có nhiều, nhiều phòng lắm. Rồi nhiều thuyền, nhiều thuyền nữa, mỗi thuyền lại nhả ra càng nhiều, nhiều người như họ. Họ cắm rào, họ giương bản đồ, mua cừu, đào mỏ tìm kim loại. Họ bắn thú của chúng tôi, nhưng nếu chúng tôi giết thú của họ, họ sẽ rượt ruổi chúng tôi như chuột bọ, họ đưa đàn bà đi hết.”
Màn trình diễn này đáng ra thật nực cười. Nhưng cô ta ngồi đó, bằng xương bằng thịt, chỉ cách tôi có ba bước, một mạch máu rần rần bên thái dương. Tôi không biết phải nghĩ gì. “Truyện cô đang viết sao, Holly?”
“Quá trễ, chúng tôi hiểu ra, djanga không phải là người Noongar đã chết quay trở lại. Họ là Dân Da Trắng.” Giọng Holly giờ đây đang nhịu dần. Vài từ bị nuốt. “Dân Da Trắng biến Wadjemup thành nhà tù cho người Noongar. Nếu đốt rừng, như xưa nay vẫn làm, sẽ bị Dân Da Trắng chở ra Wadjemup. Nếu đánh nhau với Dân Da Trắng, sẽ bị Dân Da Trắng chở ra Wadjemup. Xiềng Xích. Buồng Giam. Hộp Lạnh. Hộp Nóng. Nhiều Năm. Roi Vọt. Khổ Sai. Nhưng tệ nhất là: linh hồn chúng tôi không thể vượt biển. Vậy là khi thuyền tù chở chúng tôi từ Fremantle, linh hồn chúng tôi bị xé rời khỏi cơ thể. Trò đùa ác ôn. Vậy là khi tới Wadjemup, người Noongar chết như ngả rạ.”
Đến lúc này bốn từ tôi chỉ nghe được một. Đồng tử của Holly Sykes đã co lại, bé bằng dấu chấm câu. Không thể thế được. “Holly?” Thao tác sơ cứu nào bây giờ? Hẳn cô ấy đã mù. Holly bắt đầu nói trở lại nhưng hầu như không nói tiếng Anh: Tôi nghe được từ “linh mục”, “súng”, “giá treo cổ” và “bơi”. Tôi không biết tí gì về ngôn ngữ thổ dân, nhưng chắc chắn một điều là những gì chật vật thốt ra từ miệng của Holly Sykes ngay bây giờ không phải là tiếng Pháp, Đức, Tây Ban Nha hay Latin. Rồi đầu Holly Sykes ngã ra sau và đập vào hải đăng rồi hai tiếng “động kinh” nảy đến trong tâm trí tôi. Tôi giữ lấy đầu cô ấy, vậy là khi Holly đập đầu một lần nữa, tay tôi đập vào đá. Tôi xoay người ngồi dựng lại và giữa chặt đầu Holly vào ngực mình rồi hét lên. “Aoife!”
Cô bé xuất hiện từ sau một thân cây, con quokka lủi đi, tôi gọi với, “Mẹ cháu đang có cơn này.”
Một vài giây thình thịch sau đó, Aoife Brubeck đến nơi, giữ lấy gương mặt của mẹ. Con bé nói nhanh: “Mẹ! Thôi mà! Tỉnh lại đi! Mẹ!”
Một tiếng rên khàn khàn khô khốc phát ra từ sâu trong cổ họng Holly.
Aoife hỏi, “Mắt mẹ cháu bị như vậy bao lâu rồi?”
“Sáu mươi giây? Có lẽ là ít hơn. Mẹ cháu bị động kinh sao?”
“Ổn rồi. Không, không phải động kinh. Mẹ đã ngừng nói, vậy là mẹ không còn nghe nữa, mà… ôi, trời ơi, máu đâu ra vậy?”
Có vết đỏ dính dấp trên tay tôi. “Mẹ cháu đập đầu vào tường.”
Aoife nhăn mặt rồi kiểm tra đầu Holly. “Mẹ sẽ bị u một cục to tướng cho xem. Nhưng không sao, mắt mẹ trở lại bình thường rồi.” Đúng thế, đồng tử của Holly đã nở to từ dấu chấm thành hình tròn nhỏ.
Tôi nói, “cháu phản ứng như thể chuyện này đã từng xảy ra vậy.”
“Vài lần rồi,” Aoife đáp, vẻ cố ý nói giảm. “Bác chưa đọc Người Trên Đài phải không?”
Trước khi tôi kịp trả lời Holly Sykes nháy mắt, nhìn thấy chúng tôi.
“Trời đất, lại bị thế nữa sao?”
Aoife lo lắng, ân cần. “Mẹ tỉnh lại rồi.”
Holly vẫn trắng bệch như bột. “Đầu sao vậy nè?”
“Bác Crispin kể là mẹ cố dùng đầu đập móp hải đăng.”
Holly Sykes ngần ngại nhìn tôi. “Lúc đó anh có nghe được tôi nói gì không?”
“Không muốn nghe cũng không được. Ban đầu ấy. Sau đó… thì không hẳn là tiếng Anh. Này, tôi không phải là chuyên gia cấp cứu, nhưng tôi lo cô bị choáng não. Không nên đạp xe xuống đường dốc lắt léo, nhất là vào lúc này. Tôi có số điện thoại của chỗ cho thuê xe đạp. Tôi sẽ nhờ xe cứu thương chạy ra đón cô. Tôi tha thiết khuyên cô để tôi gọi người ta.” Holly nhìn Aoife, cô bé nói, “Chịu đi mẹ,” rồi siết lấy cánh tay Holly.
Holly ngồi dựng người dậy. “Có Chúa mới biết anh nghĩ gì về những thứ này, Crispin.”
Thì có can hệ gì. Tôi bấm số, bên tai tự dưng văng vẳng tiếng chim, hót gọi Sợ chưa, sợ chưa, sợ chưa…
Lần thứ mười lăm Holly rên rỉ. “Tôi thấy xấu hổ quá trời đất.”
Phà cập bến Fremantle. “Làm ơn đừng nói thế mà.”
“Nhưng tôi thấy tệ lắm, Crispin, làm anh lỡ chuyến thăm Rottnest.”
“Đằng nào tôi cũng phải đi phà trở lại. Rottnest như có thứ nghiệp chướng đọa đày. Mấy cái gallery bán tác phẩm nghệ thuật thổ dân đó khiến tôi hết muốn sống. Cứ như thể người Đức xây khu ăn uống Do Thái ngay trên trại tập trung Buchenwald.”
“Nhà văn có khác.” Aoife ăn nốt que kem đá. “Nói gì cũng hay.”
“Viết văn là một thứ bệnh,” tôi đáp. “Nếu được, tôi sẽ bỏ nghề ngay ngày mai.”
Động cơ phà gầm gừ, rồi tắt hẳn. Hành khách lấy hành lý, tháo tai nghe và đi gom trẻ con. Điện thoại của Holly đổ chuông, cô kiểm tra màn hình: “Là bạn tôi, người sẽ đón mình ở đây. Đợi lát nhé.” Khi Holly bận gọi điện, tôi kiểm tra xem có tin nhắn mới không. Không có gì kể từ bức ảnh tiệc sinh nhật của Juno lúc nãy. Cuộc hôn nhân quốc tế của chúng tôi từng là một kho báu đầy khám phá và những điều thú vị, nhưng cuộc ly dị quốc tế thì không dành cho người yếu tim. Qua cửa sổ sóng vỗ tôi quan sát đám trai tráng người Australia uyển chuyển nhảy từ mũi phà xuống rìa cảng, cột thừng quanh những chiếc cọc đầu dây bằng thép phủ sơn.
“Bạn tôi sẽ đón mình từ nhà ga.” Holly cất điện thoại. “Có đủ chỗ cho anh nữa, Crispin. nếu anh muốn đi quá giang về khách sạn.”
Tôi không còn sức lực nào mà đi khám phá Perth nữa. “Vậy thì phiền cô.”
Chúng tôi thả bước trên cầu tàu xuống bến đúc bê tông, chân tôi chật vật làm quen lại với đất liền. Aoife vẫy tay với người đàn bà đang vẫy lại, nhưng tôi không nhìn kỹ bạn của Holly cho tới khi chỉ cách vài bước.
“Chào anh Crispin,” nàng nói, như thể đã biết tôi.
“Đúng rồi,” Holly nhớ ra. “Hai người đã gặp ở Columbia!”
“Nhưng có lẽ,” nàng mỉm cười, “Crispin quên tôi rồi.”
“Không hề, chào Carmen Salvat,” tôi đáp. “Cô khỏe không?”