← Quay lại trang sách

20 Tháng Tám 2018

Rời sảnh điều hòa mát rượi ở Khách sạn Shanghai Mandarin chúng tôi như bị đẩy vào một bức tường của sức nóng hầm hập và đám đông người hâm mộ cuồng nhiệt - tôi chưa bao giờ chứng kiến sự hâm mộ kiểu này đối với một nhà văn. Càng tiếc thay nhà văn đó không phải là tôi - khi họ nhận ra hắn, tiếng hét to lên, “Neeeeek!” Nick Greek đang dẫn đầu đoàn nhà văn hai người của chúng tôi. Hắn dọn đến Thượng Hải từ tháng Ba, học tiếng Quảng Đông và tìm tư liệu cho một cuốn tiểu thuyết về Chiến tranh Nha phiến. Hal Linh Cẩu đã làm việc rất sâu sát với người đại diện của hắn ở Trung Quốc và giờ đây một phần tư triệu độc giả Trung Quốc dõi theo Nick Greek trên mạng xã hội Weibo. Trong bữa trưa, hắn còn kể chuyện phải từ chối hợp đồng làm mẫu, khốn thôi rồi. “Thật đáng xấu hổ,” hắn khiêm tốn thổ lộ. “Thực tình, Steinback sống lại sẽ nghĩ gì về chuyện này?” Tôi cố mỉm cười, nghĩ thầm “Một lần khiêm tốn quá bốn lần tự cao”. Vài tên bảo kê bệ vệ của hội sách đang phải mở đường thoát qua đám đông người hâm mộ Trung Quốc, toàn thiếu nữ tuổi cập kê, tóc đen nhánh, tay giương sách: “Neeeek! Cho chữ kí nhé, đi mà!” Vài đứa còn tung tẩy ảnh màu cỡ A4 của gã trai Mỹ, chờ hắn ký tá lên đó, thật chẳng ra gì. “Hắn là tên một đế quốc Mỹ!” - Tôi muốn hét lên - “Thế còn đức Đại Lai Lạt Ma đang đứng trên thảm cỏ Nhà Trắng thì sao?” Cô Li, nô tỳ của tôi từ Hội đồng Anh và tôi bước theo sau bầu đoàn của hắn, không hề bị quấy rầy. Nếu tôi xuất hiện trong băng ghi hình, chúng sẽ nghĩ tôi là cha hắn. Mà biết sao không, thưa độc giả quý mến? Tôi cóc quan tâm. Cứ để hắn tận hưởng vinh quang khi nó còn đó. Trong sáu tuần nữa Carmen và tôi sẽ sống trong căn hộ như mơ nhìn xuống quảng trường Plaza de la Villa ở Madrid. Khi lão bạn già Ewan Rice của tôi trông thấy căn hộ, lão sẽ phát ghen đến nổ mắt, mặc dù lão đã đoạt giải Brittan hai lần. Một khi đã dọn đến, tôi sẽ chia nửa thời gian ở London và Madrid. Ẩm thực Tây Ban Nha, rượu vang rẻ, nắng vàng sẵn có và tình yêu. Tình yêu. Trong những năm phí hoài tuổi trẻ với Zoë, tôi đã quên bẵng yêu và được yêu mới tuyệt vời làm sao. Nói cho cùng, danh vọng nào sánh được với tình yêu của một người đàn bà tử tế? Nhỉ? Tôi đang hỏi quý độc giả đấy.

Cô Li dẫn tôi vào trung tâm khu phức hợp Hội sách Thượng Hải, nơi có thính đường lớn chờ đợi các diễn giả chủ chốt - toàn những ông nọ bà kia trong ngành xuất bản quốc tế. Tôi có thể mường tượng ra Mao Chủ tịch đứng đây, ra các chỉ thị đường lối kinh tế đã bỏ công suy nghĩ hồi những năm 50; mà biết đâu đúng thế thật. Chiều hôm nay sân khấu được phủ một rừng phong lan và một quả bóng mười mét in hình cái đầu vàng óng và phần thân trên của Nick Greek. Cô Li dẫn tôi ra ngoài qua cửa bên kia của thính đường, vào địa điểm riêng của tôi, nhưng cũng phải dừng hỏi đường vài lần. Cuối cùng, cô ta định vị được nó ở tầng hầm. Trông giống như một dãy tủ đựng đồ quét dọn đập thông nhau. Có ba mươi ghế, mặc dù chỉ bảy ghế có người ngồi, không tính tôi. Gồm có: người phỏng vấn mặt tươi, nữ phiên dịch mặt lạnh, cô Li- run rẩy hồi hộp, Fang - biên tập viên thân thiện của tôi - mặc áo phông Black Sabbath, hai đứa choai choai có thẻ nhân viên Hội Sách Thượng Hải vẫn còn đeo lên cổ, và một cô bé mà trước đây người ta hay gọi là con lai Tây. Nó thấp người, giống con trai, đeo cặp kính ngô ngố, tóc cạo trọc: giống đang điều trị tâm thần bằng điện giật. Quạt trần vù vù đẩy không khí nóng nực trên đầu chúng tôi, bóng đèn tuýp lâu lâu chớp nháy, tường chung quanh loang lổ lem luốc, như bên trong lò nướng không bao giờ được lau rửa. Tôi rất muốn bỏ ra - tôi muốn lắm đấy - nhưng đối phó với hậu quả thất sủng sau đó sẽ còn tệ hại hơn là cố nghiến răng cho qua buổi chiều. Tôi chắc chắn rằng Hội đồng Anh giữ danh sách đen ghi tên những nhà văn không biết cách cư xử.

Người phỏng vấn cảm ơn mọi người đã đến dự bằng tiếng Hoa, rồi sau đó giới thiệu qua, như tôi đoán. Rồi tôi đọc trích đoạn Tiếng Vọng Phải Chết, phần dịch bằng tiếng Quan Thoại được chiếu lên màn hình sau lưng tôi. Cũng chính là trích đoạn tôi đã đọc ở Hay-on-Wye, ba năm trước. Khốn thật, không lẽ đã ba năm kể từ lần cuối cùng tôi ra sách? Cuộc đào tẩu hài hước của Trevor Upward trên nóc tàu Eurostar dường như không khiến đám khán giả chọn lọc bên dưới thấy buồn cười. Hay tính trào phúng trong văn tôi bị dịch thẳng thành bi kịch? Hay chất hóm của Hershey đã bị bắt giam ngay tại hàng rào ngôn ngữ? Sau khi đọc xong, tôi chịu đựng âm thanh của mười bốn bàn tay vỗ, ngồi xuống và uống nước lọc có ga. Tôi khát cháy cổ. Nước ở đây lờ lợ, chua như men. Tôi hi vọng là nước không lấy trực tiếp từ vòi ở Thượng Hải. Người phỏng vấn mỉm cười, cảm ơn tôi bằng tiếng Anh rồi hỏi lại những câu tôi đã được hỏi từ khi đến Bắc Kinh mấy ngày trước đó: “Người cha nổi tiếng của anh đã có ảnh hưởng thế nào đến tiểu thuyết anh viết?”; “Tại sao Phôi Thai Tan Tác có bố cục bất đối xứng?”; “Độc giả Trung quốc sẽ tìm thấy chân lý nào trong tiểu thuyết của anh?” Tôi trả lời y như đã trả lời từ khi đến Bắc Kinh mấy ngày trước đó, người phiên dịch mặt lạnh, trông như nhện, hôm qua đã dịch những câu trả lời ấy vài lần, nay dịch lại trơn tru không vấp váp. Gái Điện Giật, tôi để ý, còn lấy giấy bút ghi chép. Rồi người phỏng vấn hỏi, “Vậy anh có đọc những bài bình sách mình không?”, khiến dòng suy nghĩ của tôi như con tàu đổi hướng về Richard Cheeseman, đâm sầm vào ký ức cuộc gặp gỡ khốn khổ tuần trước ở Bogotá và trật khỏi đường ray …

Thật khốn khổ khốn nạn, một cuộc thăm viếng nẫu cả mề, thưa độc giả quý mến. Dominic Fitzsimmons đã phải móc nối chạy vạy hàng tháng trời để tôi và em gái Maggie của Richard có thể gặp người đồng nhiệm ở Bộ Tư Pháp Colombia, hòng thương lượng điều khoản hồi hương - thế mà tay chức sắc ấy bỗng “bận việc” ngay phút cuối. Một đứa tôi tớ trẻ người được cử đến thay thế - thằng nhãi gần như đi đứng còn vấp dây rốn. Nó cứ liên tục nghe điện thoại trong suốt hai mươi bảy phút tiếp chúng tôi, và đến hai lần hắn gọi tôi là Ooong Cheeseman còn gọi tù nhân là “Earshey”. Thật mất thời giờ vô ích. Ngày hôm sau chúng tôi đến thăm Richard tội nghiệp tại nhà tù Penitenciaría Central. Hắn sụt cân, bị zona, bị trĩ, trầm cảm, và rụng tóc, nhưng chỉ có một bác sĩ cho hai nghìn tù nhân, và với trường hợp tù nhân người châu Âu trung lưu, bác sĩ đáng kính đòi chi năm trăm đô la mỗi lần khám bệnh. Richard đã nhờ chúng tôi mang sách, giấy và bút chì, nhưng từ chối máy tính xách tay hay iPad như tôi gợi ý vì bọn cai tù sẽ thó mất. “Có của đấy thì bị coi là giàu có,” hắn dặn, bằng giọng khàn khàn, “nếu tụi nó biết mình giàu có, tụi nó sẽ bắt mình mua bảo hiểm.” Chỗ hắn bị giam nằm dưới quyền kiểm soát của các băng nhóm ma túy tại chỗ. “Đừng lo, Maggie,” Richard nói với em gái. “Anh không hề đụng vào. Chúng dùng chung kim tiêm, trộn ma túy với bột, mà một khi đã nợ chúng thì coi như chúng giữ hồn mình. Dính vào thì không có cơ được cứu xét sớm.” Maggie cố cứng rắn trước mặt anh trai, nhưng ngay sau khi chúng tôi vừa ra khỏi cánh cổng nhà tù, cô ta khóc hoài khóc mãi không thôi. Lương tâm tôi như bị túm cổ, bị quất roi điện. Đến giờ vẫn thế.

Nhưng tôi không thể đổi chỗ với hắn. Tôi sẽ chết mất.

“Ông Hershey?” Cô Li mặt mày lo lắng. “Ông ổn chứ?”

Tôi chớp mắt. Thượng Hải. Hội sách. “À vâng, tôi chỉ… xin lỗi, ừm, vâng… Tôi có đọc bài bình sách của mình không? Không. Đã thôi từ lâu. Các bài bình sách thường đưa tôi đến những nơi tôi không hề muốn đến.” Khi phiên dịch làm việc, tôi để ý khán giả chỉ còn sáu người. Gái Điện Giật đã lẻn ra.

Bến Thượng Hải gồm nhiều món trong một: một dải kiến trúc ven sông kiểu những năm 1930 với vài công trình kiểu mẫu cảnh vẻ nằm dọc theo đó; một biểu tượng của tính kiêu ngạo thực dân Tây phương; một biểu tượng của sự tiến lên của nhà nước Trung Quốc hiện đại; bốn làn xe chạy chậm, hoặc đứng yên; và một con đường bách bộ dọc bờ sông Hoàng Phố nơi có đám đông đậm chất Walt Whitman, gồm khách du lịch, gia đình, cặp đôi, người bán hàng rong, bọn móc túi, những nhà văn không có bạn bè, đám buôn ma túy và ma cô miệng lầm rầm: “Ê Mít-xtờ, thuốc không, gái không? Gần lắm, gái đẹp.” Crispin Hershey đáp, “Không.” Nhân vật chính không chỉ chung tình, chàng còn e rằng hậu quả của một cú lừa kiểu Thượng Hải trong một nhà thổ Thượng Hải sẽ vô cùng kịch tính hoành tráng, mà không phải theo nghĩa tốt.

Mặt trời tan vào màn đêm, những tòa nhà chọc trời cạnh sông bắt đầu sáng lên: một cái khui nắp chai khổng lồ; một quả tên lửa xuyên hành tinh ngoại cỡ kiểu thập niên 20; một siêu tháp obelisk Ozymandias hoành tráng, cộng thêm một lớp nhân vật phụ là các tòa nhà bốn mươi, năm mươi, sáu mươi tầng, co cụm vào nhau hướng lên trời như một trò xếp gạch Tetris sắp tèo. Thời của Mao, Phố Đông là một bãi đầm lầy ngập mặn, Nick Greek có kể với tôi, nhưng giờ đây nhìn đâu cũng thấy siêu xe cất cánh. Khi tôi còn là một cậu bé, Mỹ đồng nghĩa với hiện đại: ngày nay hiện đại là ở đây. Vậy là tôi bước tiếp, mường tượng cảnh xưa: ghe mành treo đèn lồng lắc lư theo con nước lên xuống; cột buồm và dây thừng chằng chéo ma mị, tiếng rên của những thân tàu hạ thủy ở Glasgow, Hamburg và Marseille, đám cu li chai sạn oằn lưng cõng nha phiến, cõng trà; từng hàng đứt đoạn máy bay Zero, thả bom biến thành phố thành gạch vụn; đạn, hàng triệu viên đạn, đạn từ Chicago, đạn từ Fukuoka, đạn từ Stalingrad, tạch-tạch-tạch-tạch. Nếu thành phố cũng có khí chất, tướng số, như Zoë vẫn khăng khăng rằng ai cũng có, nếu ta mở được “luân xa” thì khí chất của Thượng Hải là màu của tiền bạc và quyền lực. Nó chỉ cần gởi email là có thể đóng cửa nhà máy ở Detroit, tước sạch quặng sắt của Australia, tịch thu hết sừng tê giác ở Zimbabwe, bơm steroid cho chỉ số Dow Jones hay nhồi vào đó những món rác rưởi tài chính…

Điện thoại đổ chuông. Hoàn hảo. Người tôi cưng nhất.

“Xin chào, giai nhân nghiêng thành đổ nước của lòng tôi.”

“A lô, ngốc ạ. Phương Đông Huyền Bí sao rồi?”

“Thượng Hải rất ấn tượng, nhưng thiếu đi một Carmen Salvat.”

“Còn Hội Sách Quốc Tế Thượng Hải thì sao?”

“À, vũ-như-cẫn. Tiết mục của anh cũng kha khá người xem.”

“Tuyệt! Anh cho Nick biết mùi lễ độ chứ?”

“Cô phải gọi là Nick Greek chứ,” con quỷ mắt xanh ghen tuông trong tôi gầm gừ. “Có phải là thi xem ai được ưa thích hơn đâu.”

“Anh biết thế thì tốt. Gặp Holly chưa?”

“Chưa, chuyến bay của cô ấy mãi tối nay mới đến, với cả, anh vừa trốn khỏi khách sạn ra Bến. Anh đang ở đây, ngắm phố.”

“Đẹp thật nhỉ? Đã lên đèn chưa?”

“Rồi. Long lanh lóng lánh ánh sao đêm, như đang chơi LSD. Hôm nay chỉ có thế, còn em thì sao?”

“Họp kinh doanh với phòng kinh doanh đang nóng ruột, họp thiết kế với một nhà in điên rồ, rồi bây giờ chuẩn bị họp ăn trưa với dân bán sách rầu rĩ, sau đó là họp xử lý khủng hoảng đến năm giờ.”

“Vui thế. Bên chỗ môi giới thuê nhà có nói gì chưa?”

“Vâ… âng. Nói là, căn hộ sẽ là của mình nếu mình…”

“Ôi, tuyệt vời, em yêu! Anh sẽ gọi cho…”

“Nhưng, khoan đã Crisp. Giờ em thấy không chắc như hồi trước.”

Tôi bước qua nhường đường cho một đám nhóc người Trung Quốc chơi punk, mặt mày hớn hở, đủ lệ bộ áo xống phụ kiện. “Căn hộ ở quảng trường Plaza de la Villa? Đó là căn tốt nhất mình từng xem mà, rất tốt. Sáng sủa, có chỗ làm thư phòng cho anh, giá vừa suýt soát, mà nữa… khi mình kéo rèm cửa mỗi sáng, sẽ có cảm giác như sống trên quang cảnh tiểu thuyết của Pérez-Reverte. Anh không hiểu: có gì không đạt nữa?” Bạn gái - biên tập viên của tôi cẩn thận lựa lời. “Ban đầu em không nhận ra mình gắn bó với chỗ riêng như thế nào, mãi đến giờ. Chỗ của em giống như một cái lâu đài nhỏ của riêng em vậy. Em thích khu quanh đó, hàng xóm của em…”

“Nhưng, Carmen, lâu đài nhỏ của em rất nhỏ. Nếu anh đi đi về về giữa London và Madrid, mình cần chỗ nào đó rộng hơn.”

“Em biết… Em chỉ cảm thấy mình hơi vội một chút.”

À, cái cảm giác chùng lòng ấy. “Đã mười tám tháng từ hồi ở Perth rồi.”

“Em không có ý đẩy anh ra, Crispin, nói thật lòng. Em chỉ…” Buổi tối ở Thượng Hải tự dưng lạnh hẳn.

“Em chỉ… chỉ muốn cứ tiếp tục như bây giờ một thời gian nữa, có thế thôi.”

Trước mắt tôi, mỗi người đi qua đều là một nửa của ai đó. Tôi còn nhớ cái câu Em không có ý đẩy anh ra, Crispin từ thời tiền-Zoë, câu nói mào đầu cho những cuộc chia tay. Cơn tức tối lồng lộn gan ruột tôi, mớm lời cho tôi: “Carmen, vậy cô quyết dứt mẹ nó đi!”

“Cô có biết hiện giờ ta tốn bao nhiêu tiền máy bay không?” và cả, “Hay cô đã có ai khác rồi? Dân Tây Ban Nha? Gần với tuổi cô hơn?”

Nhưng tôi chỉ nói với nàng, “Được thôi.”

Nàng lắng nghe khoảng im lặng kéo dài. “Thật sao?”

“Anh thấy thất vọng, nhưng chỉ vì anh không đủ tiền để mua một chỗ gần nhà em, để mà mình lập ra một kiểu Liên Minh Hanse Các Lâu Đài Nhỏ. Biết đâu đấy, Tiếng Vọng Phải Chết sẽ được mua bản quyền làm phim. Mà thôi, điện thoại đường dài tốn lắm. Em đi an ủi mấy tay bán sách đi.”

“Vậy tuần tới em có còn được chào đón ở Hampstead nữa không?”

“Em luôn được chào đón ở Hampstead. Bất cứ tuần nào.”

Nàng mỉm cười trong văn phòng ở Madrid, và tôi mừng là mình đã không giận quá mất khôn. “Cảm ơn anh, Crispin. Gởi lời thăm Holly, nếu anh gặp cô ấy. Cô ấy mong gặp anh lắm. Và nếu có ai mời ăn món sầu riêng chiên xù, thì từ chối thẳng. Vậy được rồi, tạm biệt nhé, yêu anh nhiều.”

“Anh cũng yêu em.” Và ngắt cuộc gọi. Hai ta nói ra tiếng ấy, vì ta thực sự nghĩ thế, hay vì ta muốn tự gạt mình để nghĩ rằng ta vẫn còn ở quãng lâng lâng hạnh phúc?

Về lại phòng của chàng ở khách sạn trên tầng mười tám, Crispin Hershey đi tắm, gột trôi bụi đường nhớp nháp trong ngày rồi đổ người xuống giường trắng như tuyết, mặc độc quần đùi và một chiếc áo phông in câu trích dẫn Fail Better của Beckett được tặng ở Santa Fe. Bữa tối trước đó đủ mặt nhà văn, biên tập viên, chủ hiệu sách ngoại văn và người của Hội đồng Anh tại nhà hàng có bàn xoay. Nick Greek bặt thiệp khéo léo, trong khi đó tôi tưởng tượng ra hắn chết một cách ngoạn mục, mặt úp xuống đĩa bàn đựng vịt quay bóng nhẫy, củ sen và măng. Hercule Poirot sẽ hiện ra từ bóng tối để phán ai là người đầu độc ngôi sao văn chương đang lên, và tại sao. Gã nhà văn lớn tuổi hơn là nghi phạm hàng đầu, với động cơ là ghen tị nghề nghiệp, cũng chính là lý do tại sao thủ phạm không thể là gã. Tôi nhìn chiếc đồng hồ số trên mặt TV: 22:17. Nghĩ về Carmen, tôi chẳng nên ngạc nhiên khi nàng kiệm lời về Căn Hộ của Hai Ta. Các tín hiệu “Kỳ trăng mật đã hết” đã nhan nhản sẵn đó. Nàng từ chối đến London khi Juno và Anaïs về thăm tháng rồi. Chuyến thăm của hai đứa con gái không hẳn là thành công trọn vẹn. Trên đường về từ sân bay, Juno tuyên bố không thích ngựa nữa, vậy là, tất nhiên, Anaïs cũng quyết định là nó quá lớn để đi trại cưỡi ngựa, mà tiền cọc thì không hoàn lại được. Tôi thể hiện sự bực bội có lẽ là hơi giống ông cụ ngày trước một tí. Năm phút sau Anaïs khóc muốn sưng mắt và Juno nhìn móng tay, nói với tôi, “Không được đâu, bố à, không thể dùng phương pháp thế kỷ hai mươi để dạy trẻ con thế kỷ hai mốt.” Tôi tốn năm trăm bảng và ba tiếng đồng hồ ở các cửa hiệu trên phố Carnaby chỉ để ngăn chúng gọi điện cho mẹ đòi đổi vé quay về Montreal ngay ngày sau đó. Zoë chiều con, không bao giờ phạt khi nó cãi bướng “Thôi quên đi” mỗi lúc bị la mắng, dù là vô cùng nhẹ nhàng; còn tâm trí Anaïs càng ngày càng giống loài hải quỳ, nước chảy chiều nào thì ngả theo chiều đó. Chuyến thăm có thể đã tốt hơn nếu có Carmen, nhưng nàng dứt khoát không chịu: “Chúng đâu cần một bà mẹ kế đặt thêm luật lệ khi đang đi nghỉ ở London với bố.” Tôi nói rằng tôi rất quý mẹ kế của mình. Carmen đáp sau khi đọc hồi ký của tôi về ông cụ, nàng cũng hiểu tại sao. Chủ đề được khéo léo thay đổi.

Đúng là chiêu kinh điển của Carmen Salvat.

22:47. Tôi chơi cờ trên iPhone, vừa chơi vừa tưởng tượng ra đối thủ của mình không phải là một bộ não số mà chính là bố: những đợt tấn công của bố bị tôi đẩy lùi, hàng thủ của bố bị tôi triệt phá, con vua của bố chạy loay hoay khắp bàn cờ, cố né kết cục không thể tránh nổi. Nhưng tôi bị căng thẳng: thông thường đến đoạn này tôi đã thắng, nhưng hôm nay tôi cứ phạm lỗi liên tục. Tệ hơn, lão khọm già bắt đầu giễu: “Chiến lược xuất sắc, Crisp: đúng rồi, anh đẩy xe ra đó; tôi đẩy mã ra đây; kẹp chặt quân xe ngủ gật trước quân hậu ngớ ngẩn của anh, giờ cho anh hết đường luôn nhé!” Khi tôi dùng chức năng thối lui để lấy lại quân xe, bố gào: “Đúng rồi - nhờ một cái máy vớ vẩn mở đường thoát. Tại sao anh không tải app giúp viết luôn tiểu thuyết tiếp theo?”

“Biến đi!” tôi nói với ông cụ, và tắt điện thoại. Tôi bật tivi lên, chuyển kênh liên tục cho đến khi nhận ra một cảnh trong bộ phim Một năm nữa của Mike Leigh. Hay khủng khiếp. Phần thoại trong sách của tôi chỉ là rác rưởi nếu đem so với cảnh đấy. Giờ đi ngủ thì tốt, nhưng tôi vẫn bị lệch múi giờ, tỉnh như sáo. Dạ dày không chịu yên với mấy miếng sầu riêng chiên xù đó: Nick Greek thú thật với ngài lãnh sự rằng hắn ta vẫn chưa ăn nổi món đấy, vậy là tôi làm luôn ba miếng. Tôi muốn hút thuốc nhưng Carmen đã uy hiếp tôi bỏ thuốc, vậy nên, chậc chậc, đành làm một phát Nicorette. Richard Cheeseman đã hút thuốc trở lại. Mà hắn còn làm gì khác được, bị kẹt ngay tại đó, gã khốn khổ tội nghiệp? Răng cửa hắn xỉn màu như trà đen. Tôi chuyển thêm vài kênh nữa, tìm được một chương trình nhập từ Mỹ, có phụ đề, tựa là Người Luyện Chó, nói về một chuyên gia huấn luyện động vật chuyên trị thú cưng bị điên ở California. 23:10. Tôi nghĩ, hay tự xử thêm phát nữa, hoàn toàn vì lý do sức khỏe, và bắt đầu lục lọi bộ đĩa Blu-ray trong trí nhớ, chọn ra cô gái từ cái công xã Rivendell đâu đó ở phía tây London - nhưng rồi tự dưng thấy chẳng thiết nữa. Vậy là tôi mở cuốn sổ Moleskine mới, lật trang thứ nhất rồi viết “Tiểu thuyết Rottnest” ở dòng đầu…

…rồi nhận ra đã quên bẵng tên của nhân vật chính, lại quên. Bỏ mẹ. Có một dạo hắn là Duncan Frye, nhưng Carmen nói rằng tên gì nghe như chủ hàng khoai rán người Scotland. Vậy là tôi chuyển thành Duncan McTeague nhưng chỗ “Mc” thì quá rõ là dân Scot. Thôi thì tạm gọi là Duncan Drummond. DD. Duncan Drummond, một thợ gia công đá thời những năm 1840, dọn đến Khu định cư sông Swan, thiết kế một hải đăng trên đảo Rottnest. Hal Linh cẩu không chắc lắm về cuốn sách này - “Rõ là một hướng mới mẻ, Crisp” - nhưng một sáng nọ tôi thức dậy, nhận ra rằng hết thảy tiểu thuyết của tôi đều xoay quanh người London đương đại có cuộc sống trung thượng lưu, đến một ngày tan nát cả bởi một thứ thảm họa hay xì-căng đan nào đó. Một chủ đề đào mãi cũng bắt đầu mòn, ngay cả trước khi có bài bình của Richard Cheeseman, thực lòng mà nói. Tuy vậy, chưa gì, những hạt sạn trong tiểu thuyết Rottnest đã bắt đầu chổng phao câu về phía tôi: cụ thể là, tôi chỉ mới viết được ba nghìn từ; ba nghìn từ đó không phải là đỉnh cao sự nghiệp của tôi; hạn nộp bản thảo cuối cùng mới nhất là ngày 31 tháng Mười Hai năm nay; biên tập viên Oliver đã bị sa thải vì “hiệu quả công việc kém” và Curt, người kế nhiệm của hắn, cộc lốc như chính cái tên đó, đã bắt đầu nói lời khó nghe về vụ trả lại tiền ứng trước.

Hay cho thêm vài con quokka, để sinh động hơn chăng? Tôi tự hỏi. Dẹp. Kiểu gì cũng có một quán bar còn mở cửa.

Hallelujah! Tôi bước vào bar Sky High trên tầng bốn mươi ba, quán vẫn còn mở. Tôi thả cái xác mệt mỏi xuống ghế bành cạnh cửa sổ, gọi một shot cognac hai mươi lăm đô la. Quang cảnh nhìn từ đây tuyệt vời. Thượng Hải về đêm sáng triệu ánh đèn: những chấm cam dọc theo xa lộ, chấm trắng như pixel trước xe, chấm đỏ sau xe; ánh xanh lá trên cần cẩu; xanh dương nhấp nháy trên máy bay; trên những tòa nhà văn phòng phía bên kia đường, và từm cụm đốm sáng cách hàng dặm, mỗi đốm li ti là một cuộc sống, một gia đình, một gã cô đơn, một bộ phim truyện dài tập; ánh đèn pha trên những tòa nhà chọc trời bên Phố Đông; gần hơn, những màn hình quảng cáo sinh động cho Omega, Burberry, Người Sắt 5, sáng rực rỡ hàng gigawatt, lướt qua màn đêm không hề tăm tối. Mọi thứ ánh sáng trên đời hiện diện, chỉ trừ trăng và sao. “Trong tù không có khoảng cách,” Richard Cheeseman viết, trong thư gởi Ban Chấp Hành Nhóm Những Người Bạn. “Không có cửa sổ bên ngoài, vậy nên chỗ xa nhất mà tôi từng thấy là đỉnh của bức tường bao quanh sân. Tôi muốn đánh đổi rất nhiều, chỉ để được nhìn xa vài dặm. Không cần cảnh đẹp gì - phố xá xập xệ cũng được - chỉ cần nhìn được vài dặm.”

Và chính Crispin Hershey đã đẩy hắn vào đó.

Cũng chính Crispin Hershey giữ hắn ở đó.

“Chào ông Hershey,” một phụ nữ lên tiếng. “Thật là hay quá.”

Tôi bật người dậy, mạnh mẽ bất ngờ. “Holly! Chào cô! Tôi chỉ đang…” Tôi không biết nói sao cho hết câu, vậy là hai người hôn nhau, má chạm má, như những người bạn tốt. Trông Holly mệt mỏi, cũng chẳng ngạc nhiên gì nếu cứ phải di chuyển liên tục như thế, nhưng bộ đồ nhung rất hợp dáng - Carmen từng dẫn Holly đi mua sắm vài lần. Tôi chỉ tay vào một người bạn đồng hành tưởng tượng trong chiếc ghế thứ ba. “Cô với thuyền trưởng Mất Ngủ Lệch Giờ đây có quen biết nhau không?”

Holly liếc nhìn cái ghế. “Cũng được vài năm.”

“Cô hạ cánh khi nào, bay từ… Singapore à?”

“Ừm… tôi phải suy nghĩ. Không, từ Jakarta kia. Hôm nay thứ Hai, đúng không?”

“Đời nhà văn thật sôi động, nhỉ. Aoife sao rồi?”

“Chính thức là đang yêu.” Nụ cười của Holly có nhiều ẩn ý. “Một anh chàng tên là Övrar.”

“Övrar? Chẳng hay chàng đến từ thiên hà nào?”

“Iceland. Aoife đến đấy một tuần trước, để gặp gia đình bên kia.”

“May thay Aoife. May thay Övrar. Thế cô có duyệt chàng ta không?”

“À, thực tình là có. Aoife từng rủ anh chàng xuống Rye vài lần. Đang học di truyền học ở Oxford, mặc dù mắc chứng loạn chữ, đừng hỏi tôi tại sao. Anh chàng cứ loay hoay sửa sang nọ kia. Kệ sách, cửa phòng tắm, rèm cửa bị kẹt.” Holly gọi một ly vang trắng từ cô nhân viên mang cognac ra cho tôi. “Còn Juno thì sao?”

“Juno? Chẳng bao giờ sửa cái gì cả.”

“Không, ngốc à! Juno có bạn trai chưa?”

“À. Vụ đó. Không đâu, để nó còn lớn chứ, mới mười bốn tuổi mà. Mmmm. Hồi bằng tuổi nó cô có hay tâm sự chuyện bạn trai với cha không?”

Điện thoại của Holly có tín hiệu. Cô nhìn lướt qua. “Tin nhắn gởi anh, từ Carmen: ‘Nói với Crispin tôi đã bảo anh ấy đứng ăn sầu riêng kia mà.’ Anh có hiểu gì không?”

“Hiểu, than ôi.”

“Anh sẽ dọn vào chỗ mới ở Madrid chứ?”

“Không. Chuyện hơi dài.”

“Rottnest?” Holly dùng ngón tay búng ly rượu, như thể đang thử âm của đàn. “À, chắc Carmen cũng có nói, ở nhiều thời điểm trong đời, tôi từng nghe được tiếng nói mà người khác không nghe được. Hoặc tôi có linh cảm về những thứ tôi không cách gì biết trước được. Hoặc, thi thoảng, tôi thành kẻ phát ngôn của… những chủ thể khác. Xin phép anh, ý cuối cùng nghe như trò lên đồng, nhưng tôi không thể nói khác được. Khác với lên đồng, tôi không tự gọi ai cả. Những giọng nói ở đâu cứ… tóm lấy tôi. Tôi ước họ đừng làm vậy. Tôi ước cả trăm nghìn lần. Nhưng chịu.”

Tôi biết tỏng tạng này. “Cô có bằng tâm lý học, đúng không?” Holly nhìn ra ẩn ý, gỡ kính và đưa tay bóp vết hằn trên mũi. “Được thôi, Hershey, anh đã đoán đúng. Mùa hè năm 1985. Tôi mười sáu tuổi. Jacko mất tích đã mười hai tháng. Tôi và Sharon đang ở Bantry, Tỉnh Cork, với họ hàng. Một ngày mưa hai chị em chơi cờ Rắn và Thang với mấy đứa em nhỏ, rồi tự dưng…” cũng phải đến ba thập kỷ sau, Holly mới ngập ngừng tiếp “…tôi biết, hoặc nghe thấy, hoặc ‘có linh cảm mạnh mẽ’, hoặc đại để gì nữa, rằng xúc xắc sẽ đổ bao nhiêu điểm. Em họ tôi lắc chiếc tách ăn trứng và tôi nghĩ, Năm. Và, hay chưa kìa, con xúc xắc nằm ở số năm. Một. Năm. Ba. Cứ thế. May mắn, đúng không? Lúc nào chẳng có chuyện như thế. Nhưng cứ vậy mãi. Hơn năm mươi lượt, lạy Chúa. Tôi muốn dừng lại. Mỗi lần tôi cứ nghĩ, lần này mình sẽ sai, tất cả chỉ là tình cờ… nhưng cứ mãi thế, cho đến khi Sharon cần đổ sáu điểm để thắng, mà tôi biết nó sẽ đổ ra đúng thế. Và đúng vậy thật. Đến khi đó, đầu tôi đau kinh khủng, vậy là tôi bò lên giường. Khi tôi tỉnh dậy, Sharon và các em họ đang chơi Cluedo, mọi thứ trở lại bình thường. Ngay lập tức tôi tự thuyết phục mình rằng tôi chỉ tưởng tượng ra chuyện mình biết trước những con số. Đến lúc về lại Gravesend buồn tẻ, tôi gần như đã thuyết phục được mình rằng chuyện đó chỉ là… là một chuyện quái đản tình cờ mà tôi nhớ nhầm.” Tôi nghĩ tôi say hơn mình tưởng. “Nhưng không phải thế.”

Holly mân mê chiếc nhẫn. “Mùa thu năm đó, mẹ tôi đăng ký cho tôi theo học khóa kỹ năng văn phòng tại trường dạy nghề Gravesend, để ít ra tôi có thể tìm chút việc thời vụ. Tôi học cũng ổn, nhưng một hôm trong căn-tin, tôi đang ngồi một mình, như thường lệ, thì… Thì, tự dưng, tôi biết chắc rằng cô gái này, Rebecca Jones, người đang ngồi nói chuyện với bạn ở bàn đối diện, sẽ đánh đổ cà phê ra sàn nhà, trong mấy giây tới. Tôi chỉ biết thế thôi, Crispin, như tôi biết… tên anh, hoặc biết lát nữa tôi sẽ đi ngủ. Tôi chưa bao giờ tin vào Chúa, nói thật lòng, nhưng tôi cứ cầu nguyện, Đừng mà, đừng mà, đừng mà. Rồi Rebecca Jones vung tay mô tả câu chuyện; tay va vào tách cà phê, tách vỡ tan dưới sàn nhà. Cà phê chảy thành dòng, thành vũng khắp nơi.”

“Rồi cô làm gì?”

“À, thì tôi chuồn ra, nhưng… cảm giác chắc chắn đó cứ đuổi theo tôi. Tôi biết rằng đến góc đường tiếp theo, tôi sẽ thấy một con chó đốm đứng ba chân áp vào cột đèn. Như thể tôi đã thấy rồi, nhưng thực sự là chưa. Đến góc đường tiếp theo, hay chưa kìa, một con chó đốm, một cái cột đèn, con chó đưa một chân sau lên. Cách cây cầu đường sắt chừng chín chục mét, tôi biết rằng khi tôi băng qua cầu, chuyến tàu đi London sẽ chạy qua bên dưới. Lại đúng nữa. Cứ thế, mãi cho tới khi về đến quán. Rồi, khi tôi đi ngang qua quầy bar, một người khách quen, Frank Sharkey, đang chơi phóng phi tiêu và…” Holly dừng lại, nhìn cánh tay nổi da gà của mình “…tôi biết là sẽ không bao giờ thấy ông ấy nữa. Tôi chỉ biết thế, Crispin. Đương nhiên,” Holly co người lại, “tôi cố tình lờ đi, cảm giác ấy thật tồi tệ, thật bệnh hoạn. Ông già Sharkey thân thuộc như bạn của gia đình, chứ không chỉ là khách quen. Ông chứng kiến anh em tụi tôi lớn lên. Tôi nói với ba rằng phải nghỉ học giữa buổi vì bị đau đầu, đến lúc đó tôi cũng đau đầu thật. Tôi đi nằm, rồi thức dậy, cảm thấy đỡ hơn rất nhiều. Cảm giác đó cũng biến mất. Tôi thấy khó phủ nhận những chuyện vừa xảy ra, tôi không thể lờ được tất. Nhưng tôi chỉ mừng là nó đã hết và cố không nghĩ đến ông Sharkey. Nhưng ngày hôm sau, ông ấy không đến quán, và ngay cả khi đó, tôi đã biết. Tôi nằng nặc đòi ba phải gọi cho hàng xóm có chìa khóa. Frank Sharkey được người ta tìm thấy trong nhà kho ngoài vườn. Ông ấy lên cơn đau tim dữ dội. Bác sĩ nói rằng ông ấy đã chết trước khi rơi xuống đất.”

Cô ta nói rất thuyết phục, và đã thuyết phục được chính mình, tôi cũng hiểu thế. Nhưng những chuyện huyền bí xưa nay vẫn hết sức thuyết phục: chứ không thì tôn giáo làm sao mà tồn tại?

Holly chong mắt nhìn ly rượu, buồn buồn. “Nhiều người cần được tin vào sức mạnh tâm linh. Nhiều người lấy sách của tôi làm chỗ dựa, vậy là người ta nói tôi lợi dụng những người nhẹ dạ cả tin. Thậm chí đến những người tôi quý cũng nghĩ vậy. Nhưng giả sử chuyện đó có thật, Crispin à, giả sử anh có những linh cảm ấy, không thể thay đổi, không thể đoán được, về Juno hay Anaïs chẳng hạn. Nếu vậy, liệu anh có thấy mừng là mình có khả năng ngoại cảm không?”

“À, cũng còn tùy…” tôi nghĩ kỹ. “Không. Nói thế này nghe giống bác sĩ, nhưng cho tôi hỏi, cô bị như vậy bao lâu?”

Holly bặm miệng, lắc đầu. “Ừm… những cảm giác đó không bao giờ dứt hẳn. Hồi mười sáu, mười bảy tuổi, tôi cứ bị choáng bởi những chuyện chưa xảy đến, cứ vài tuần là bị vậy, tôi chạy về nhà, trốn trong giường, vùi đầu trong túi thể thao. Không kể ai hết, trừ bà trẻ Eilísh. Mà tôi nói gì mới được chứ? Người ta sẽ nghĩ tôi chỉ muốn gây sự chú ý. Mười tám tuổi, tôi đi hái nho mùa hè ở Bordeaux, rồi mùa đông làm việc ở Alps. Ít ra nếu tôi ở nước ngoài, tôi sẽ không phải biết những chuyện như Brendan bị ngã cầu thang hay Sharon bị xe cán.”

“Vậy khả năng tiền thức này không có tác dụng từ xa sao?”

“Thường thì không.”

“Vậy cô có thấy tương lai của chính mình không?”

“Tạ ơn Chúa, không có.”

Tôi ngài ngại không muốn lặp lại câu hỏi, nhưng tôi bật ra. “Rottnest?”

Holly dụi một bên mắt. “Lần đó rất mạnh. Thỉnh thoảng tôi có cảm giác về quá khứ. Tôi bị choáng hoàn toàn, như thể… Ôi lạy Chúa, tôi không thể dùng từ khác được, mặc dù nghe thật ngớ ngẩn: như thể tôi đang tiếp dẫn một tri giác vẫn còn vương vấn đâu đó ở nơi ấy.”

Nhân viên pha chế đang lắc bình cocktail. Bạn tôi ngắm anh ta, vẻ chăm chú. “Anh chàng biết việc đấy.”

Lần nữa, tôi ngập ngừng. “Cô có biết gì về chứng Rối Loạn Đa Nhân Cách không?”

“Có. Tôi học bằng tâm lý tại chức, từng viết luận án về nó. Những năm 1990 người ta đổi tên gọi thành Rối Loạn Nhận Dạng Phân Ly, nhưng thậm chí nếu áp dụng các tiêu chuẩn thần kinh lâm sàng, thì vẫn vô cùng mơ hồ.” Holly mân mê một bên hoa tai. “Nó có thể giải thích những chuyện như vụ Rottnest, nhưng còn khả năng tiền thức? Ông già Sharkey? Hoặc là lần nọ khi Aoife còn nhỏ thì sao - lần ấy chúng tôi đi ăn cưới Sharon dưới Brighton, con bé hứng lên bỏ đi, rồi tự dưng một cảm giác chắc chắn buộc tôi nói ra chính số của căn phòng mà con bé bị kẹt bên trong? Làm sao tôi biết được những chuyện như thế, hả

Crispin? Làm sao? Làm sao tôi có thể bịa ra con số đó?” Một đám doanh nhân người Đông Á gần đó bật cười sang sảng.

“Vậy nếu trí nhớ của cô đảo ngược nhân quả thì sao?”

Holly có vẻ bàng hoàng, cô uống rượu, vẫn bàng hoàng ngơ ngác.

“Chẳng hạn như vụ tách cà phê của Rebecca Gì-đó. Thông thường, não bộ của cô sẽ thấy cái tách bị đánh đổ trước, rồi sau đó mới lưu lại ký ức. Giả dụ một sự cố thần kinh nào đó khiến não cô đảo ngược trình tự - vậy là ký ức về cái tách bị vỡ trên sàn nhà được lưu lại đầu tiên, trước cả ký ức về cái tách ở cạnh bàn. Như thế, cô sẽ thực sự tin rằng hành động B có trước hành động A.”

Holly nhìn tôi như thể tôi vẫn không chịu hiểu. “Cho tôi mượn một đồng xu.”

Tôi lấy ra một đồng hai bảng từ bộ sưu tập tiền xu quốc tế trong ví.

Holly cầm đồng xu trong lòng tay trái, rồi, dùng ngón giữa tay phải, chạm vào một điểm trên trán. Tôi hỏi, “Làm thế để làm gì?”

“Không biết, chỉ là làm vậy thì có hiệu quả hơn thôi. Phật giáo có dạy về con mắt thứ ba ở giữa trán, nhưng… yên nào.” Cô ta nhắm mắt lại, nghiêng đầu. Như một chú chó lắng nghe sự im lặng. Những tiếng động nền trong quán - tiếng thì thầm trò chuyện, tiếng đá viên trong ly, tiếng đàn dương cầm bản “My Wild Irish Rose” của Keith Jarrett - lúc nổi lúc chìm. Holly đưa trả tôi đồng xu. “Anh tung đi. Sẽ là ngửa.” Tôi tung đồng xu. “Ngửa.” Năm mươi-năm mươi.

“Tiếp tục ngửa,” Holly nói, tập trung.

Tôi tung đồng xu. “Đúng thế.” Xác suất còn một phần tư. “Lần này sấp,” Holly nói. Ngón tay giữ trên trán.

Tôi tung đồng xu: là sấp. “Ba trên ba. Không tệ.”

“Trở lại ngửa.”

Tôi tung đồng xu: là ngửa.

“Sấp,” Holly nói.

Tôi tung đồng xu: là sấp. “Cô làm kiểu gì hay vậy?”

“Thử một chuỗi nhé,” Holly nói. “Ngửa; ngửa; ngửa; sấp và… sấp nữa, nhưng… quỳ gối? Crispin, tại sao anh lại quỳ gối?”

“Như cô thấy đó, tôi đang ngồi đây mà, đâu có quỳ.”

“Mà thôi. Ba ngửa, hai sấp, theo thứ tự đó.”

Vậy là tôi tung đồng xu: ngửa. Rồi lần nữa: ngửa. Cô ta làm thế nào vậy? Tôi chà đồng xu lên áo sơ mi, như chà đĩa hát bị xước rồi tung tiếp: ngửa, như dự đoán. “Hay đấy,” tôi nói, nhưng tôi bắt đầu thấy khó chịu. Cô ta có vẻ bực mình. “Hai sấp, ngay bây giờ.”

Tôi tung đồng xu: sấp. Chín trên chín. Lần thứ mười, tôi lóng ngóng chụp lại, đồng xu lăn ra xa, rồi cho đến khi tôi nhặt nó ra từ dưới ghế, đúng là sấp thật, tôi cũng nhận ra mình đang quỳ gối. Holly trông như vừa tìm ra câu trả lời cho một câu đố đơn giản. “À đúng rồi. Đồng xu bị lăn ra xa, nên anh phải cúi nhặt.”

Khi ngồi xuống trở lại, tôi không còn tin tưởng chính mình, không nói năng gì nổi.

“Xác suất 1/1024 cho chuỗi mười kết quả, nếu anh đang tự tính. Ta có thể tăng lên 4096 với hai lần tung đồng xu nữa?”

“Không cần.” Giọng tôi nghẹn lại. Tôi nhìn Holly Sykes: cô ta là ai? “Vụ quỳ gối đó. Làm sao…”

“Có lẽ não của anh cũng nhầm lẫn giữa ký ức và dự đoán.” Holly Sykes không hề giống một ảo thuật gia vừa biểu diễn trơn tru một trò khó khăn, mà giống một phụ nữ mệt mỏi, có lẽ cần tăng vài cân. “Ôi lạy Chúa, đúng là sai lầm. Giờ anh cứ nhìn tôi kiểu đó.”

“Kiểu gì kia?”

“Thôi, Crispin, mình quên hết chuyện đó được không? Tôi phải đi ngủ.”

Cả hai ra sảnh đợi thang máy, không nói năng gì. Một đôi lính bằng đất nung nhìn tôi khinh khỉnh, cứ nhìn mặt các chú là rõ.

“Cô có đến ti tỉ người tin mình, sẵn lòng đánh đổi một năm tuổi thọ chỉ để thấy thứ cô vừa cho tôi thấy,” tôi nói với Holly. “Tôi là một gã khốn đa nghi, hẳn cô cũng đã biết. Vậy tại sao lại cho tôi xem?”

Holly trông rất khó chịu. “Tôi đã hi vọng là anh sẽ tin tôi.”

“Tin chuyện gì? Người Trên Đài? Rottnest? Hay…”

“Buổi tối hôm đó ở Hay-on-Wye, trong lều ký sách. Ta ngồi cách nhau vài mét. Tôi có một linh cảm rất mạnh mẽ. Về anh.”

Cửa thang máy đóng lại, rồi tôi nhớ có một đợt Zoë mê phong thủy, tin rằng thang máy như những bộ hàm ăn hết may mắn. “Tôi?”

“Anh. Lạ lùng lắm. Mà không bao giờ thay đổi.”

“Vậy là chuyện gì, còn úp mở gì nữa?”

Cô ta nuốt khan. “Con nhện, xoắn ốc, gã chột mắt.”

Tôi đợi một lời giải thích. Không có gì cả. “Nghĩa là?”

Holly trông như bị dồn vào chân tường. “Tôi không biết gì hết.”

“Nhưng thường sau khi việc xảy ra, cô sẽ biết ý nghĩa của nó, đúng không?”

“Thường vậy. Cuối cùng thì biết. Nhưng linh cảm này… cứ nung nấu ở đó.”

“‘Con nhện, xoắn ốc, gã chột mắt’? Là gì mới được chứ? Một danh sách mua hàng? Một bản nhạc dance? Một dòng thơ haiku nào đó?”

“Crispin, nếu tôi biết, tôi đã nói cho anh nghe, tôi thề đấy.”

“Vậy chắc là chuyện ngẫu nhiên vớ va vớ vẩn gì đó thôi.”

Holly đồng ý, quá dễ dàng. “Có lẽ thế. Ừ. Thôi quên đi.”

Một ông già người Hoa mặc áo thun Lacoste màu hồng, quần Âu thụng màu nâu kẹo bơ, mang giày đánh golf bước ra khỏi thang máy. Kẹp cánh tay ông già là một người mẫu tóc vàng mặc đầm ngủ xuyên thấu bằng lưới như tơ nhện, có kết đồng xu vàng, cô ta trang điểm như người ngoài hành tinh, ngoài ra không mặc gì khác. Hai người đi vòng qua góc rẽ.

“Có lẽ là con gái ông ấy,” Holly nói.

“Ý cô là sao, lúc nãy ấy, ‘Mà không bao giờ thay đổi’?”

Tôi đoán Holly hẳn đang ân hận đã bắt đầu câu chuyện. “Ở Cartagena, chỗ dinh thự tổng thống, tôi đã nghe thế. Những từ đó. Ở Rottnest nữa, trước khi tôi bị choáng. Và bây giờ, nếu tôi tập trung cũng sẽ nghe được. Tôi làm trò đồng xu, để biết đâu anh sẽ tin chuyện xoắn ốc-con-nhện-gã chột mắt, phòng khi nó…” cô ta nhún vai, “…có liên hệ gì đó.”

Thang máy kêu u u trong tuốc bin trục. “Linh cảm mạnh mẽ thì có ích gì,” tôi hỏi, “nếu nó mập mờ như thế?”

“Ôi, tôi không biết, Crispin. Tôi có phải thánh cô gì đâu. Nếu tôi có thể dừng cảm giác ấy, tôi sẽ làm thế ngay!”

Những lời ngu ngốc không kiểm duyệt ấy bật ra: “Thì nhờ đó mà cô cũng được kha khá rồi còn gì.”

Holly sốc, bị tổn thương, rồi tức giận, cả ba trạng thái trong chưa đầy năm giây. “Đúng thế, tôi đã viết Người Trên Đài vì tôi đã ngu ngốc, ngu ngốc mà nghĩ rằng nếu Jacko còn sống, còn ở đâu đó…” cô ta quạt tay giận dữ về phía thành phố không ranh giới bên ngoài cửa sổ “…nó sẽ đọc được, hoặc ai đó quen biết nó sẽ nhận ra và tìm cách liên lạc. Dễ gì có chuyện đó vì có lẽ nó đã chết rồi nhưng tôi VẪN phải thử. Tôi chịu đựng những linh cảm ấy. Tôi bất chấp chúng mà sống. Đừng nói rằng tôi trục lợi từ chúng. Anh đừng hòng nói năng khốn nạn như thế, đừng hòng, Crispin à.”

“Vâng.” Tôi nhắm mắt lại. “Nghe này, tôi lỡ lời. Tôi…”

Tội ác của tôi, lỗi lầm của tôi. Tôi phải bắt đầu từ đâu?

Rồi tôi nghe tiếng cửa thang máy đóng lại. Rõ tuyệt. Cô ta đã đi khỏi.

Khi lóng ngóng về lại phòng, tôi gởi tin nhắn cho Holly để xin lỗi. Tôi sẽ gọi điện sáng mai, sau khi cả hai đã ngủ được một giấc tử tế, rồi sẽ hẹn ăn sáng. Tôi về đến phòng 2929, thấy trên nắm cửa có treo một cái túi đen. Túi thêu chữ bí hiểm bằng chỉ vàng: kỳ công thật. Bên trong là một cuốn sách tựa đề Cơ Hội Cuối Cùng Của Ngươi, tác giả Soleil Moore. Chưa bao giờ nghe tên cô ta. Hay anh ta. Chưa gì tôi đã biết là thơ khắm. Không nhà thơ chân chính nào lại đần đến mức tưởng tượng ra chuyện tôi đọc thơ thẩn không công, chỉ vì một cái túi thêu tay. Cô ta làm sao biết được số phòng của tôi. Ta đang ở Trung Quốc. Đút lót, rõ rồi. Nhưng không lẽ cũng có chuyện đó ở khách sạn Shanghai Mandarin? À, mà ai thèm quan tâm? Tôi thấy mệt mỏi rã rời, bã cả người. Tôi đi vào phòng, vứt cuốn sách vẫn còn nằm trong cái túi xinh vào thùng rác sâu, cùng với rác rưởi của ngày, tháo cạn bàng quang, nhẹ cả người, rồi bò lên giường, giấc ngủ choàng tới, mở ra như hố tử thần…