20 Tháng Chín 2019
Nửa đoạn đường đời tôi đã thấm, bỗng thấy mình lạc chốn rừng thâm.[49] Ngã ba giữa đường đi này, những cây bạch dương thân mảnh này, rồi tảng đá bám rêu nghiêng thẳng đứng, như đầu con quỷ. Chẳng dễ gì mà lạc chốn rừng thâm ở Iceland được, nơi đây đến cả những bãi cây xơ xác nhất cũng hiếm thấy. Zoë chẳng bao giờ để tôi chỉ đường thời tiền-máy định vị: nàng nói rằng nàng vừa lái xe vừa đọc bản đồ đặt trên đùi còn an toàn hơn. Bản đồ du lịch Ásbyrgi của tôi cũng chẳng ích gì: hẻm núi hình móng ngựa, rộng một dặm, có cây mọc, nằm thấp hơn khu đất xung quanh, chạy đến mặt phiến đá trăm mét, nơi có con sông thẩn thơ đổ vào những vũng nhỏ… Nhưng tôi ở đâu trong đó mới được chứ? Những nguyên âm của dòng sông và phụ âm của cây cối như đang nói một thứ ngôn ngữ là lạ.
Nhiều phút nhẹ nhàng trôi qua khi tôi chăm chú, mê mải nhìn kiến bò ra bò vào trên cành cây. Richard Cheeseman đang ngồi giữa một cảnh sát và một nhân viên lãnh sự, đâu đó phía trên Đại Tây Dương. Tôi nhớ hồi hội sách Cartagena hắn cứ ca cẩm rằng người ta không chịu đặt vé hạng thương gia cho hắn, nhưng sau ba năm thụ án ở nhà tù Penitenciaría Central, một cuốc xe tải của công ty an ninh Group 4 từ Heathrow về Yorkshire cũng sẽ chẳng khác gì ngồi Rolls-Royce Silver Shadow.
Một cơn gió vụng về rải tung đám lá ngả vàng…
… rồi tôi thấy một chiếc, thưa độc giả quý mến, nằm giữa lưỡi và vòm miệng. Nhìn này. Một chiếc lá bạch dương nho nhỏ. Kỳ diệu khốn kiếp không. Những ngón tay sắc lẻm của ngọn gió giật lấy ngay bằng chứng ấy. Đám cây liễu đứng qua một bên, chừa chỗ cho phiến đá lồ lộ lừng lững ngay giữa Ásbyrgi… Một nơi hoàn hảo để hạ neo con tàu lướt mây, một bến dừng cho phi thuyền từ Epsilon Eridani. Mặt trời như ánh đèn pin chiếu qua lằn vải. Hal linh cảm rằng tiểu thuyết Trung Quốc của tôi chẳng ra gì, và hắn đúng. Chỉ với một chuyến đi sáu ngày đến Thượng Hải và Bắc Kinh, mà tôi dám nghĩ rằng mình có thể đọ lại kiến thức địa phương của Nick Greek - lúc đấy tôi nghĩ cái quái gì thế nhỉ? Để tôi viết về một chuyến đi xe ở Iceland; một người đàn ông bỏ trốn; hồi tưởng liên miên; rồi dần dần hé lộ gã đang chạy trốn điều gì. Đưa gã đến Ásbyrgi; tả rằng hẻm núi là chỗ ngày xưa vó ngựa của thần Odin đạp xuống mà thành. Tả rằng hẻm núi chính là Nghị Viện của Những Kẻ Giấu Mặt. Để gã nhìn chằm chằm vào những mặt đá cho đến khi mặt đá nhìn lại. Hít một hơi thật sâu, đượm vị nhừa nhựa cây vân sam. Để gã gặp một bóng ma từ quá khứ của chính mình. Nghe như có tiếng con chim ấy, đang dụ dỗ tôi vào những vòng tròn sâu hơn, siết chặt hơn. Mày ở đâu? Đằng kia. Trên gốc cây đầy mũ nấm độc. “Chim hồng tước,” mẹ nói, rồi quay bước đi.
• • •
Tiệc sinh nhật lần thứ mười của tôi, trò chơi chuyền món quà dần chuyển thành trận chiến ác liệt, vừa vật nhau vừa bẻ tay. Bố đã chuồn sớm, để mẹ và cô Nina người giúp việc ra tay dẹp loạn, cho đến khi lão Chimes - Nhà Ảo thuật xuất hiện. Lão Chimes là một kịch sĩ hết thời, tên thật là Arthur Hoare, được bố rủ lòng thương. Bệnh hôi miệng của lão dễ chừng làm chảy được cả nhựa. Từ trong chiếc mũ thần kì, đếm đến ba, lão lấy ra Hermes - con chuột lang thần kì, nhưng Hermes đã bị bẹp dí, chỉ còn xác chết, máu me, cứt kiếc và ruột gan phèo phổi. Các bạn học của tôi rít lên, vừa kinh hãi vừa sung sướng. Lão Chimes đặt xác con chuột tơi tả lên gạt tàn thuốc, rồi nói: “‘Những kẻ mà ngươi tưởng đã hạ sát, Vẫn không chết, hỡi Tử Thần đáng thương; ngươi nào giết nổi ta.’[50] Các cậu à,” lão Chimes thu dọn đồ nghề. “John Donne đã nói dối, đồ khốn nạn.” Kells Tufton sau đó tuyên bố đã nuốt vào bụng một thằng người đồ chơi bằng chì của tôi, vậy là mẹ phải lái xe đưa hắn đi bệnh viện. Nina một mình chịu trận, một tình thế không hề lý tưởng vì cô ấy hầu như không nói được tiếng Anh, từng bị trầm cảm nhiều đợt sau khi quân cách mạng Argentina ném anh em ruột từ trực thăng xuống nam Đại Tây Dương. Các bạn tôi không hề biết điều đó, cũng không quan tâm gì, cứ thế chơi trò cô-nói-gì-cháu-lặp-lại cho đến khi Nina tự nhốt mình trong căn hộ ở tầng ba, chỗ bố thường viết kịch bản. Đến khi đó triều dâng máu đẫm, bao thơ ngây chìm đắm giữa đêm tàn[51] - rồi thằng nhóc tên Mervyn trèo lên kệ sách mười hai tầng, khiến cái kệ đổ đè lên nó. Nina gọi cấp cứu 999. Nhân viên y tế nói rằng phải đưa Mervyn vào viện ngay, vậy là Nina ngồi luôn vào xe cấp cứu, để lại tôi một mình giải thích với cha mẹ các bạn cùng lớp rằng căn nhà ở Pembridge Place của gia đình tôi không hẳn là sạch bóng người lớn như trong truyện Chúa ruồi (trừ hai trang cuối). Mẹ và Nina về đến nhà sau tám giờ tối. Bố về còn trễ hơn nhiều. Lời qua tiếng lại. Cửa đóng chan chát. Sáng hôm sau tôi bị đánh thức bởi tiếng con Jaguar XJ-S của bố gào rú trong garage dưới phòng tôi. Bố đi thẳng đến trường quay Shepperton - lúc đấy bố đang làm hậu kỳ cho Ganymede 5. Tôi đang ngồi ăn ngũ cốc Shredded Wheat, đọc truyện tranh 2000 AD thì nghe tiếng mẹ đang kéo vali xuống cầu thang. Mẹ nói rằng mẹ vẫn yêu tôi và Phoebe, nhưng bố đã thất hứa quá nhiều lần, mẹ phải đi xa một thời gian. Mẹ nói, “Lần này có thể là đi luôn.” Khi ngũ cốc Shredded Wheat nhão dần đi, mẹ kể chuyện thập kỷ sáu mươi sôi động với mẹ chỉ là những trận ốm nghén, giặt tã, vò mùi soa của bố cho sạch cứt mũi và làm thân trâu ngựa không công cho hãng phim Hershey Pictures; kể rằng mẹ từng nhắm mắt bỏ qua những “chuyện vướng víu” của bố với các cô diễn viên, nhân viên trang điểm và thư ký; rồi nữa, khi mẹ có thai Phoebe, bố đã hứa sẽ viết và quay một bộ phim cho riêng mẹ. Vai của mẹ sẽ phức tạp và tinh tế, có nhiều đất diễn để mẹ thể hiện tài năng. Bố và đồng tác giả đã hoàn thành xong kịch bản; Domenica và Nữ hoàng Tây Ban Nha, chỉ vài tuần trước. Kế hoạch là mẹ sẽ đóng vai Công chúa Maria Barbara, người sau này sẽ thành Nữ hoàng Tây Ban Nha. Chuyện đến đây thì cả nhà đều đã biết. Nhưng tôi không biết rằng ngày hôm trước, khi bạo loạn nổ ra ở nhà Pembridge Place, chủ tịch hãng phim Transcontinental Pictures đã điện cho bố và nối máy cho Raquel Welch. Cô Welch nói đã đọc kịch bản, cô khen kịch bản đúng là tuyệt tác và tỏ ý muốn đóng vai Maria Barbara. Vậy lúc đó bố có giải thích rằng vai ấy vốn dành cho vợ ông ấy, người từng hi sinh sự nghiệp diễn xuất để chăm sóc gia đình? Không. Bố nói. “Raquel, vai đó là của cô.” Chuông cửa reo, là anh của mẹ, cậu Bob đến đón mẹ đi. Mẹ nói rằng rồi tôi sẽ biết, sự phản bội ở đời muôn màu muôn vẻ, nhưng phản bội ước mơ của người khác thì không thể tha thứ được. Một con chim nhảy lên cây tử đinh hương rộ hoa bên ngoài. Cần cổ nó rung rung: những nốt nhạc bay lên rồi rơi xuống. Nếu nó cứ tiếp tục hót và tôi cứ nhìn nó - tôi tự dặn mình, thì tôi sẽ không òa khóc.
“Chim hồng tước,” mẹ nói, rồi quay bước đi.
Mặt trời đã lặn sau mép núi cao của Ásbyrgi, màu xanh cây cỏ dần nung nấu thành xám và nâu. Lá và cành đã bắt đầu mất đi tính chất ba chiều. Khi tôi nhớ đến mẹ, là tôi đang nhớ mẹ, hay chỉ nhớ ký ức về mẹ? Tôi ngờ rằng ý sau mới là câu trả lời. Ly bóng đêm mỗi lúc một dâng đầy, và tôi không biết đã đậu chiếc Mitsubishi ở đâu. Tôi cảm thấy như mình người du hành vừa lạc mất cỗ máy thời gian trong truyện của Wells. Khả năng xấu nhất bây giờ là gì? À, thì tôi có thể sẽ không bao giờ tìm được đường ra, rồi chết vì lạnh. Ewan Rice sẽ viết điếu văn cho tôi, đăng trên Guardian. Liệu lão sẽ viết chăng? Tại tiệc tân gia/ra mắt Carmen tôi tổ chức mùa thu năm ngoái Ewan gần như đã rướn gân rướn cổ để nhấn mạnh cái vị trí độc tôn trong văn chương của lão: nào tiệc tối với Steven Spielberg lần đi LA gần đây; năm mươi ngàn đô la cho một buổi giảng bài ở Colombia; lời mời chấm giải Pulitzer - “Tôi phải xem có làm được không, tôi bận chết được.” Vậy chắc lão sẽ không viết. Em gái Phoebe sẽ nhớ tôi, mặc dù chỉ cần gặp nhau hai mươi phút là huynh đệ tương tàn, thù xưa xáo lại. Carmen sẽ đau đớn tột cùng, tôi nghĩ. Nàng có khi sẽ đổ lỗi cho chính mình. Holly, Chúa phù hộ cô ấy, sẽ đứng ra liệu việc từ đây. Cô ấy và Aoife sẽ tỏa sáng trong đám tang của tôi. Linh cẩu Hal sẽ biết chuyện tôi chết trước khi tôi biết, nhưng liệu hắn có nhớ tôi không? Tôi nhà văn do hắn đại diện, giờ đây ì ạch sách ế. Zoë? Zoë sẽ còn không để ý cho đến khi tài khoản cấp dưỡng cạn kiệt; còn hai đứa con gái sẽ khóc sưng mắt. Ít ra có lẽ Anaïs sẽ khóc.
Thật là nực cười! Chỉ là một cánh rừng tầm tầm, chứ có phải rừng rậm bạt ngàn gì. Cạnh bãi đỗ xe có mấy chiếc xe cắm trại. Tại sao không hét lên, “Cứu tôi!” Vì tôi là đàn ông, vì tôi là Crispin Hershey, Kẻ Nổi Loạn Trên Văn Đàn Anh Ngữ. Tôi nào làm thế được. Một tảng đá bám rêu trông như đầu quỷ, trồi lên qua mặt đất mỏng manh…
… ánh sáng phương bắc như đang làm trò, một góc hẹp trong ba trăm sáu mươi độ bao quát khu rừng, nơi có tảng đá rêu bám và chữ X được tạo thành từ hai thân cây nghiêng phía sau - góc hẹp ấy bỗng dưng chập chờn, lấp lánh, như tấm vải bay trong gió, mà đâu có cơn gió nào…
Không: nhìn kìa! Một bàn tay hiện ra, kéo tấm vải qua một bên, chủ nhân của bàn tay bước ra khỏi không khí vừa được bị rạch một đường. Như một màn ảo thuật - một màn ảo thuật đáng kinh ngạc. Một thanh niên tóc vàng, mặc áo vét và quần jean vừa hiện ra ngay đây, giữa khu rừng này. Chừng hai lăm, bảnh như người mẫu. Tôi quan sát, kinh ngạc: có phải tôi đang… nhìn thấy ma chăng? Một cành cây gãy dưới gót giày da lộn của hắn. Không phải ma, không hiện hình gì cả, ngốc ạ: “con ma” tôi thấy chỉ là một khách du lịch, như tôi. Chắc là từ xe cắm trại đằng kia. Có lẽ hắn vào đây ị một bãi. Chắc tại buổi chập choạng; tại một ngày nữa trong cảnh đơn chiếc. Tôi lên tiếng “Xin chào.”
“Xin chào ông Hershey.” Giọng hắn nghe giống kiểu dân trường con nhà giàu Anh quốc, hơn là giọng Iceland nhiều âm gió.
Tôi thấy cảm kích, thật đấy. “Quý hóa quá. Ở đây mà cũng có người biết tôi.”
Hắn bước đến vài bước, dừng lại khi cách tôi một cách tay. Trông hắn có vẻ hài lòng. “Tôi là một người hâm mộ ông. Tên tôi là Hugo Lamb.” Rồi hắn mỉm cười, lôi cuốn, thân thiện, như thể tôi là một người bạn đáng tin cậy mà hắn biết đã nhiều năm. Về phần mình, tự dưng tôi có cảm giác thèm được làm vừa lòng hắn.
“À, rất vui được gặp anh ở đây, Hugo. À, thật là xấu hổ, nhưng tôi bị lạc khỏi bãi đỗ xe…”
Hắn gật đầu, gương mặt trở nên ngẫm ngợi. “Ásbyrgi hay trêu người ta như thế, ông Hershey ạ.”
“Anh chỉ đường cho tôi được không?”
“Được. Tôi sẽ chỉ. Nhưng trước hết, tôi có vài câu hỏi.”
Tôi lùi lại một bước. “Ý anh là… hỏi về sách của tôi?”
“Không, về Holly Sykes. Hai người đã thành thân thiết, như chúng tôi biết.”
Tôi tiu nghỉu nhận ra tên Hugo này là một trong những kẻ quái đản hâm mộ Holly. Rồi tôi giận dữ, nhận ra không phải thế, mà thực ra hắn là một “phóng viên” báo lá cải: cô ấy từng gặp rắc rối với bọn dùng ống kính chụp xa lảng vảng quanh nhà mới ở Rye. “Tôi cũng muốn kể lể tường tận cho anh nghe chuyện tôi và Hol,” tôi nhếch mép nhìn Công Tử Đẹp Mã, “thế nhưng, anh nghe đây: chuyện đó không phải việc của anh, đồ rác rưởi.”
Hugo Lamb không mảy may suy suyển. “À, nhưng ông nói sai rồi. Chuyện Holly Sykes lại là thứ chúng tôi rất quan tâm.”
Tôi bắt đầu cất bước, lùi lại, cẩn thận quan sát. “Kệ mày. Tạm biệt.”
“Ông sẽ cần tôi giúp nếu muốn ra khỏi Ásbyrgi,” gã trai trẻ lên tiếng. “Anh đi mà giúp chính anh ấy. Holly là một người kín đáo, tôi cũng thế, và rồi sẽ tự tìm đường trở…”
Hugo Lamb làm một động tác lạ lùng bằng bàn tay, rồi cơ thể tôi bị nhấc bổng lên ba mét trong không khí, bị thít chặt trong nắm đấm của một tên khổng lồ vô hình: sườn tôi răng rắc; dây thần kinh trong cột sống nứt nẻ và tôi thấy đau đớn không thể tả: tôi không thể van xin hay la hét, và phải chịu màn tra tấn đó thêm một giây nữa, nhưng nhiều giây trôi qua, tôi nghĩ chỉ là giây thôi, nhưng có thể đã là nhiều ngày, cho đến khi tôi bị ném, chứ không phải bị thả, xuống mặt đất khu rừng.
Mặt tôi ép vào đất mùn. Tôi lầm rầm, run rẩy, rên ư ử, ngay cả lúc đang dần hết đau. Tôi nhìn lên. Gương mặt Hugo Lamb giống như mặt một chú bé đang bẻ chân con nhện chân dài: hơi tò mò, sung sướng độc ác. Một cái roi điện có thể giải thích cơn đau kinh hoàng, nhưng còn vụ cách-mặt-đất-ba-mét thì sao? Nhưng có gì đó rờn rợn khiến tôi không thấy tò mò nữa: tôi cần phải tránh xa hắn. Tôi đã tè ra quần nhưng tôi không quan tâm. Chân tôi tê cứng, một giọng văng vẳng xa xa đang gào bài hát ấy vào mặt tôi, “Bạn sẽ không bao giờ bước đi một mình nữa,” nhưng tôi không thèm nghe, tôi không thể, tôi không dám. Tôi bò lui lại, rồi kéo người dậy, dựa vào một gốc cây lớn. Hugo Lamb làm một động tác nữa và hai chân tôi xếp lại bên dưới cơ thể. Lần này không đau đớn. Tôi thấy còn tệ hơn, không có cảm giác gì cả. Từ thắt lưng trở xuống, mọi cảm giác đã biến mất. Tôi chạm lên đùi. Ngón tay tôi cảm giác được đùi nhưng đùi thì không có cảm giác gì cả. Hugo Lamb bước lại - tôi rúm ró - hắn ngồi lên gốc cây. “Có chân cũng tiện nhỉ,” hắn nói,
“Ông có muốn nhận lại chân không?”
Giọng tôi run rẩy kinh khiếp: “Anh là cái gì?”
“Nguy hiểm, như ông thấy đó. Ông sẽ nhận ra hai bé cưng này.” Hắn rút ra một hình vuông nhỏ từ túi áo và đưa tôi xem tấm ảnh thẻ chụp tôi, Anaïs và Juno mà tôi đánh mất vài hôm trước. “Thành thật trả lời câu hỏi, và các bé cũng sẽ có cơ sống thọ, hạnh phúc như bất kỳ đứa trẻ nào học ở Outremont Lycée.”
Gã trai đẹp mã này hẳn vừa chơi thuốc. Rõ là hắn thó tấm hình, nhưng thó khi nào và như thế nào, tôi không thể đoán. Tôi gật đầu. “Bắt đầu nhé. Ai là người quan trọng nhất với Holly Sykes?”
“Con gái cô ấy,” tôi đáp, khàn giọng. “Aoife. Đó đâu phải bí mật gì.”
“Tốt. Ông và Holly đang yêu nhau à?”
“Không. Không. Tụi tôi chỉ là bạn. Thật thế.”
“Bạn với phụ nữ? Nghe không giống ông gì cả, ông Hershey nhỉ?”
“Thì không, nhưng với Holly chỉ có thế.”
“Holly có bao giờ nhắc đến Esther Little không?”
Tôi nuốt khan rồi lắc đầu. “Không.”
“Nghĩ thật kỹ vào: Esther Little.”
Tôi nghĩ, hoặc cố nghĩ. “Tôi không biết cái tên đó, tôi thề.” Tôi nghe giọng mình hoảng sợ khiếp vía.
“Holly đã kể gì với ông về năng lực đặc biệt của cô ấy?”
“Chỉ là những chuyện trong sách cô ấy viết. Trong cuốn Người Trên Đài.”
“À, một cuốn sách hấp dẫn. Ông đã bao giờ chứng kiến cô ấy tiếp dẫn một giọng nói khác chưa?” Hugo Lamb thấy tôi đang ngập ngừng. “Đừng bắt tôi phải đếm ngược từ năm, như thể loại thanh tra sến trong phim hạng ba, trước khi tôi rán chín ông. Fan của ông biết ông vốn căm ghét những thứ sáo mòn kia mà.”
Hẻm núi như càng sâu hun hút, các thân cây như đổ về trước. “Hai năm trước, trên đảo Rottnest, gần Perth, Holly bị ngất, và một giọng kỳ quái phát ra từ miệng cô ấy. Tôi tưởng cô ấy bị động kinh, nhưng cô ấy nói chuyện tù nhân phải chịu khổ sở, và rồi… cô ấy nói bằng tiếng thổ dân… và… chỉ có thế. Cô ấy ngã đập đầu. Rồi tỉnh lại.”
Hugo Lamb gõ tách-tách-tách lên tấm ảnh. Một phần nào đó trong tôi vẫn có thể mổ xẻ chi tiết rằng mặc dù gương mặt của hắn còn trẻ, ở đôi mắt và cái nhìn chăm chú có gì đó già dặn hơn nhiều. “Còn về Nhà Nguyện Bụi Tối thì sao?”
“Nhà nguyện gì kia?”
“Hay về các Ẩn Sĩ? Thầy Cathar mù? Hắc Tửu?”
“Tôi chưa từng nghe thấy bất cứ thứ gì trong danh sách đó. Tôi thề.” Tách-tách-tách ngón tay Hugo gõ lên tấm ảnh tôi và hai đứa con gái. “Trắc Thời với ông có ý nghĩa gì?”
Nghe như một trò đố vui quỉ quái trong quán rượu: “Trắc thời? Ngành học về phép đo thời gian. Hoặc nghiên cứu các loại đồng hồ cũ.”
Hắn chồm về phía tôi. Tôi cảm giác mình như một con vi khuẩn dưới kính hiển vi. “Nói tôi nghe ông biết gì về Marinus.”
Khốn nạn như một tên chỉ điểm, và thầm mong sẽ cứu được con gái, tôi nói với kẻ tra hỏi kỳ quái của mình rằng Marinus là một bác sĩ tâm thần nhi khoa ở bệnh viện Great Ormond Street. “Trong sách của Holly cũng có nhắc đến ông ấy.”
“Trong thời gian quen biết ông, cô ấy có bao giờ gặp Marinus không?” Tôi lắc đầu. “Chắc giờ ông ấy già lụ khụ rồi. Nếu còn sống.” Có tiếng đàn bà cười khanh khách văng vẳng bên tai tôi?
“Thế,” Hugo Lamb nhìn tôi chăm chú, “Ngôi Sao Riga là gì?”
“Thủ đô của Estonia. Không. Latvia chứ. Hay Lithuania. Tôi không chắc. Một trong những quốc gia vùng Baltic, chắc vậy. Tôi xin lỗi.”
Hugo Lamb soi tôi. “Ta xong việc rồi.”
“Tôi… tôi đã nói sự thật. Hoàn toàn. Đừng hại con tôi.”
Hắn nhảy xuống từ tảng đá rêu và bước đi, vừa đi vừa nói, “Nếu bố của chúng là một người thành thật, Juno và Anaïs không có gì phải sợ cả.”
“Anh… anh… anh để tôi đi à?” Tôi chạm tay xuống chân. Chân tôi vẫn còn chết cứng. “Ê! Chân tôi! Làm ơn!”
“Hèn gì, thấy ngờ ngợ đã quên gì đó,” Hugo Lamb quay lại. “Tiện thể, ông Hershey này, cách nhà phê bình xử Tiếng Vọng Phải Chết đúng là quá tệ. Nhưng mà, ông cũng tẩn Richard Cheeseman tơi bời còn gì, phải không?” Nụ cười của tên Lamb này tinh quái, mưu mô. “Hắn sẽ không bao giờ đoán ra, trừ khi có người gieo rắc ý nghĩ ấy trong đầu hắn. Xin lỗi về vụ quần áo của ông; bãi đỗ xe ở bên trái ngã ba lúc nãy. Ông sẽ nhớ chừng đó. Mọi thứ khác tôi sẽ xóa sạch. Sẵn sàng?” Hắn nhìn thẳng vào mắt tôi, Hugo Lamb kéo sợi không khí giữa hai ngón trỏ và hai ngón cái, rồi thít chặt…
… một tảng đá rêu bám, to như đầu quỷ, nằm nghiêng một bên, như đang nghiền ngẫm oan tình xưa xăm. Tôi vẫn còn ngồi trên mặt đất, không nhớ là đã ngã ra sao, mặc dù chắc chắn tôi đã ngã: khắp người tôi đau đớn. Làm thế nào mà tôi lại nằm ra đây? Một cơn đột quỵ nhỏ? Phép thuật của yêu tinh xứ Ásbyrgi? Tôi hẳn là đã… đã gì kia? Ngồi nghỉ mệt, rồi ngủ gật. Một cơn gió thổi qua, cây cối rùng mình, chiếc lá vàng rơi vòng vèo, tình cờ nương theo không khí đậu lên lòng tay tôi. Nhìn này. Lần thứ hai trong ngày, tôi nghĩ đến lão Chimes nhà ảo thuật. Cách đó không xa, một người đàn bà đang cười. Khu cắm trại ở gần đây. Tôi đứng dậy, để ý có mảng ướt lạnh ở đùi. Ô. Ô kê. Kẻ Nổi Loạn Trên Văn Đàn Anh Ngữ vừa bị sự cố đường tiết niệu mộng du… May là không có phóng viên nào của Tạp Chí Piccadilly quanh đó. Tôi chỉ mới năm mươi ba - vẫn còn quá trẻ để dùng miếng lót thấm tiểu chứ? Vẫn còn lạnh và âm ẩm, như thể sự cố chỉ mới vừa xảy ra cách đây ít phút. Ơn Chúa tôi đang ở rất gần bãi đỗ xe, đồ lót và quần sạch. Trở lại ngã ba, rồi rẽ trái.
Nhanh lên, thưa độc giả quý mến. Khéo mà sập tối.