← Quay lại trang sách

23 Tháng Chín 2019

Có vẻ như Halldór Laxness tiêu tốn gần hết tiền thưởng Nobel vào Gljúfrasteinn, ngôi nhà sơn trắng, vuông vắn nằm nửa chừng thung lũng mờ sương ở rìa Reykjavik. Bên ngoài ngôi nhà gợi tôi nhớ đến kiểu câu lạc bộ quần vợt trong nhà ở các tỉnh quanh London. Dòng sông lững lờ chảy qua, trong một mùa thu gần như trơ trọi. Dưới lối vào đỗ một chiếc Jag màu kem, giống hệt chiếc của bố. Tôi mua vé từ người bán vui tính, vừa đan len vừa làm việc công việc nhẹ nhàng ấy, rồi bước về phía gian nhà chính, đeo tai nghe như đã được chỉ dẫn. Hướng dẫn viên trong máy kể cho tôi nghe về những bức họa, đèn đóm và đồng hồ kiểu hiện đại, bàn ghế thấp kiểu Thụy Điển, chiếc dương cầm Đức, sàn lát gỗ, chi tiết nội thất bằng gỗ anh đào, vải da bọc ghế. Gljúfrasteinn như miễn nhiễm với thời gian, rất phù hợp làm bảo tàng cho một nhà văn. Bước lên cầu thang, tôi nghĩ đến khả năng của một bảo tàng Crispin Hershey. Địa điểm lý tưởng nhất là ngôi nhà cũ của gia đình ở Pembridge Place, nơi tôi sống hồi bé và khi đã có con. Vấn đề là, chốn xưa yêu dấu ấy đã bị thợ xây đục khoét tơi bời, ngay tuần sau khi tôi đưa chìa khóa, để mà chia thành sáu căn hộ và bán cho dân đầu tư Nga, Trung Quốc và Saudi. Mua lại, tái thống nhất và phục chế là một viễn cảnh đa ngôn ngữ, cực kỳ tốn kém, vậy nên địa chỉ hiện tại của tôi tại East Heath Lane, Hampstead có lẽ khả thi hơn - giả định rằng Linh cẩu Hal có thể thuyết phục được luật sư của Bleecker Yard và Erebus đừng hốt nó luôn, đương nhiên rồi. Tôi tưởng tượng ra khách tham quan mặt mày kính cẩn, ve vuốt thanh vịn đánh véc-ni và thầm thì, giọng đầy ngưỡng mộ, “Lạy Chúa, đấy là chiếc máy tính xách tay nhà văn dùng để viết tiểu thuyết về Iceland lẫy lừng ấy!” Nhà vệ sinh tầng trệt có thể sửa lại làm quầy bán đồ lưu niệm: móc khóa Crispin Hershey, tấm lót chuột máy tính Phôi Thai Tan Tác, hình nhân dạ quang. Người ta thường mua những thứ rác rưởi như thế ở bảo tàng. Thường đến nơi rồi người ta chẳng biết phải làm gì nữa.

Ở trên lầu, hướng dẫn viên trong máy nói qua chuyện ông bà Laxness có phòng ngủ riêng. À ra thế. Nghe quen quá. Máy đánh chữ của Laxness đặt trên bàn làm việc - hoặc, nói chính xác hơn, là máy đánh chữ của vợ ông ấy, vì bà Laxness mới là người đánh máy lại bản thảo viết tay của nhà văn. Tôi viết tiểu thuyết đầu tay trên máy đánh chữ, nhưng Wanda bằng sơn dầu được sáng tác trên chiếc máy tính Brittan đồ cũ của bố tặng tôi nhân dịp sinh nhật, từ đó trở đi thì toàn là laptop, càng lúc càng mạnh hơn, nhẹ hơn. Với nhà văn thời kỹ thuật số, viết đồng nghĩa với viết lại. Ta mò mẫm, cắt, lọc, dán và đổi qua lại, đãi vàng trên màn hình bằng cách xóa đi hàng đống rác rưởi. Đồng nghiệp thời xa xưa của ta phải trau chuốt từng câu chữ trong đầu trước khi gõ lên phím. Viết lại với họ sẽ mất hàng tháng, nhiều mét ruy-băng và hàng lít mực bút xóa. Thật tội nghiệp.

Mặt khác, nếu kỹ thuật số là bà đỡ mát tay hơn của tiểu thuyết, thì các kiệt tác thế kỷ này ở đâu? Tôi bước vào một thư phòng nhỏ, có lẽ là nơi Laxness cất sách thừa, rồi ngoẹo cổ đọc tựa sách. Nhiều cuốn bìa cứng bằng tiếng Iceland, tiếng Đan Mạch, tôi đoán, tiếng Đức, tiếng Anh… Và úi giời - Phôi Thai Tan Tác!

Khoan đã, đây là bản in năm 2001…

…còn Laxness mất năm 1998. Hiểu rồi.

Một nghĩa cử của Những Kẻ Giấu Mặt.

Đi trở xuống cầu thang, tôi dừng lại, nhường đường cho một tá trẻ choai choai đang rầm rập đi lên. Ở Montreal, Juno và Anaïs đi tham quan với trường ở những đâu? Không biết điều đó khiến tôi thấy buồn. Tôi thực là loại ông bố bán thời gian, lại chỉ làm bố từ xa. Đám trẻ con thế kỷ hai mốt của Iceland đeo tai nghe, nhưng vẫn toát ra cái vẻ tự tin Bắc Âu, và một phong thái đủ đầy, hai đứa gốc Phi và một cô bé choàng khăn Hồi giáo cũng thế. Cả đám đều có năm sinh bắt đầu bằng số “2”, chỉ cần kéo chuột xuống chưa đầy một inch trong ô chọn cũng tìm ra được năm khi điền đơn trên mạng. Chúng thoang thoảng mùi dầu xả tóc và nước xả vải. Lương tâm chúng cũng hoàn hảo, không có lấy một chỗ móp méo như xe hơi trong phòng trưng bày. Tất cả đang chuẩn bị lên sân khấu chính của cuộc đời, nơi đấy chúng sẽ phản biện, sẽ ăn thua đủ và làm lép vé bọn già khắm chúng tôi khi chúng tôi về hưu, như cách chúng tôi từng làm khi còn xinh đẹp như chúng. Thầy giáo đi lên sau cùng, mỉm cười cảm ơn tôi; khi anh ta đi khỏi, một cái gương soi khá đẹp lộ ra trên cầu thang nhà Laxness. Từ cái giếng vuông sâu xam xám, một kẻ hốc hác, hao hao Anthony Hershey nhìn ra. Kìa. Quá trình hóa thân của tôi thành ông cụ đã hoàn tất. Phải chăng một thứ quỷ thần nào đó ở Ásbyrgi đã hút hết chút thanh xuân cuối cùng của tôi? Tóc tôi thưa hơn, da dẻ mệt mỏi, mắt đỏ ngầu; cổ tôi xếp nếp nhàu nhĩ như gà tây… Tôi gọi ra một câu thơ Tagore, để an ủi: “Tuổi trẻ là con ngựa, còn sự trưởng thành là người đánh xe.” Cặp môi già nua của bố khẽ giật, mỉa mai: “Tôi thấy chẳng có người đánh xe nào cả. Tôi thấy một giảng viên xã hội học ở một trường đại học hạng ba, vừa mới biết rằng khoa của hắn ta sắp bị xóa sổ vì trừ những giảng viên xã hội học tương lai, không ai muốn học xã hội học nữa. Anh là một trò đùa, con trai ạ. Anh có nghe tôi nói gì không? Một trò đùa.”

Xuân sắc cuộc đời tôi đã trôi qua, trôi đi, trôi đi mãi…

Lê bước xuống chiếc Mitsubishi đang đợi ở bãi đỗ xe nhỏ ở Gljúfrasteinn, tôi mở điện thoại xem giờ, thấy có tin nhắn của Carmen Salvat. Không phải là tin nhắn mà tôi muốn nhận được. Chào anh crispin mình nói chuyện được không? X. bạn anh C.

Tôi thở hắt ra. Tâm hồn tôi vẫn còn đau đớn vì bị đá, nhưng tôi đang cố đối mặt sự thật. Tôi không muốn phải dừng lại, rồi dừng-dừng lại. Ta thường phải tiêu hóa cảm xúc, và nỗi tiếc thương một mối quan hệ đã mất không phải là thứ tôi muốn tiêu hóa. Hai chữ “bạn anh” của Carmen có nghĩa là “Ta sẽ không quay lại nữa” và “chào anh” thay vì “anh à” cũng tương đương với cái hôn gió lạnh lùng, chứ không phải má-chạm-má thân mật:

có lẽ để một thời gian nữa, nếu em thấy không phiền. Vẫn còn đau đớn,

anh đã chán đau đớn lắm rồi. Anh không có ý gì cả, em bảo trọng. C.

Bấm nút gởi xong tôi ước gì mình đã cẩn thận hơn, đã lựa lời sao cho nghe đỡ hờn mát và/hoặc tự ái hơn thế. Đột nhiên tiếng sông chảy thật chát chúa: chẳng hiểu Laxness viết lách kiểu gì nổi? Mây kéo về, xám như chì, chứ không phải màu xám thiền định. Những ý nghĩa đan xen của ngày sắp tàn tạo nên một thứ ô chữ khiến tôi đầu hàng, chứ không gợi cảm hứng cho tôi như trước đây. Tôi viết không hay bằng Halldór Laxness. Tôi thậm chí còn viết không hay bằng Crispin Hershey thời trẻ hơn. Tôi chỉ là một ông bố tồi tệ, vô trách nhiệm như bố tôi, khác ở chỗ phim của bố sẽ sống lâu hơn những cuốn tiểu thuyết được tâng quá mức của tôi. Áo quần tôi nhàu nhĩ. Bài giảng bắt đầu lúc bảy giờ ba mươi. Trái tim tôi vẫn thô tháp vảy vết thương lòng, mà tôi không muốn chúng lại bị người cũ từ Tây Ban Nha bóc ra.

Không. Mình không thể nói chuyện được. Tôi tắt máy.

“Tựa đề bài giảng của tôi là, Về Không bao giờ không nghĩ về Iceland.” Khán giả đến Ngôi Nhà Văn Chương cũng kha khá, nhưng một nửa trong số hai trăm người tham dự đến đây vì nhạc hội Bonny Prince Billy đã cháy vé, và một phần trong đám tóc muối tiêu đến vì họ yêu phim của ông cụ. Những gương mặt duy nhất mà tôi biết là Holly, Aoife và Örvar bạn trai của Aoife, cả ba tươi cười nhìn tôi từ hàng ghế đầu. “Cái tựa kinh hoàng này,” tôi tiếp tục, “lấy ý từ một nhận xét nghe đâu là của W.H.Auden, nói ra ở chính Reykjavik đây, mà biết đâu là đứng ngay bục đây để nói, với bố mẹ hay ông bà quí vị. Auden nói rằng mặc dù trong đời ông ấy không nghĩ đến Iceland mỗi giờ, hoặc thậm chí là mỗi ngày, nhưng “Không bao giờ mà tôi lại không nghĩ về Iceland.” Thật là một phát ngôn hay ho, bí hiểm. “Không bao giờ không nghĩ về Iceland?” Tại sao không nói, “luôn nghĩ về Iceland”? Bởi vì, đương nhiên, phép phủ định kép là kẻ buôn lậu sự thật, là kẻ đánh lừa nhà kiểm duyệt. Tối hôm nay tôi muốn đặt phép phủ định kép của Auden …”- tôi đưa tay trái lên, lòng bàn tay ngửa, “…bên cạnh hiện thực kép về viết văn,” tay phải, lòng bàn tay ngửa. “Ấy là, muốn viết, ta cần một cây bút và một nơi để viết, hay một thư phòng và một máy đánh chữ, hay một laptop và một quán Starbucks… nói sao cũng được, bởi bút và nơi chốn là những biểu tượng. Biểu tượng cho phương tiện và lề lối. Một nhà thơ dùng bút để viết ra, nhưng, đương nhiên, nhà thơ không tự tạo cây bút ấy. Anh ta, hay cô ta mua, mượn, thừa kế, trộm cắp hay bằng cách nào đó có được cây bút từ một nơi khác. Tương tự, nhà thơ chọn một lề lối thi ca để viết, nhưng không nhà thơ nào có thể tự mình tạo ra cái lề lối ấy. Ngay cả khi một nhà thơ quyết định đặt ra một kiểu thơ mới, anh ta hay cô ta cũng chỉ làm được việc là phản ứng lại những thứ đã có sẵn. Không có Bees Gees thì không thể có Johnny Rotten.” Không một mảy may cử động từ phía khán giả Iceland của tôi: có lẽ ban nhạc Sex Pistols chưa bao giờ bắc tiến xa đến đây. Holly mỉm cười cho tôi, và tôi lo lắng thấy cô ấy thật gầy mòn, xanh xao. “Trở lại với Auden,” tôi tiếp, “và món ‘không bao giờ không’ của ông ta. Tôi hiểu nhận xét của ông ta như thế này: nếu anh viết văn hay thơ bằng một ngôn ngữ châu Âu, cây bút trong tay anh, ngày xửa ngày xưa, từng là một chiếc bút lông ngỗng trong tay một người Iceland. Dù muốn hay không, dù biết hay không, cũng chẳng quan trọng. Nếu anh muốn thể hiện cái đẹp, sự thật và nỗi đau của thế giới bằng văn xuôi, nếu anh muốn đào sâu nhân vật thông qua hội thoại và hành động, nếu anh muốn hòa hợp cá nhân, quá khứ và chính trị trong văn chương, thì anh có cùng mục đích với các tác giả Iceland, ở ngay đây, bảy, tám, chín trăm năm trước. Tôi khẳng định rằng tác giả của Sử thi Njal đã dùng cùng những ngón nghề kể chuyện với Dante và Chaucer, Shakespeare và Molière, Victor Hugo và Dickens, Halldór Laxness và Virginia Woolf, Alice Munro và Ewan Rice. Ngón nghề gì mới được chứ? Tính phức tạp về tâm lý, phát triển nhân vật, một câu ‘sát thủ’ để kết một cảnh, nhân vật phản diện cũng có điểm xuyết đức hạnh, nhân vật anh hùng cũng lốm đốm tính cách phản diện, điềm báo tương lai và hồi tưởng quá khứ, những cú đánh lạc hướng đầy tính nghệ thuật. Ở đây, tôi không nói rằng nhà văn thời xa xưa không biết đến những ngón nghề này, nhưng,” đến đoạn này tôi liều mạng đưa bi của mình và của cả Auden lên thớt, “trong sử thi Iceland, lần đầu tiên trong văn hóa Âu châu, ta có tiểu thuyết gia nguyên mẫu. Nửa thiên niên kỷ avant la parole[52], các sử thi là những tiểu thuyết đầu tiên trên thế giới.”

Khán giả hoặc đang lắng nghe chăm chú, hoặc đã ngủ gục mà mở mắt. Tôi lật giấy chi chép.

“Vậy là xong chuyện cây bút. Giờ đến chuyện nơi viết. Từ giác độ của người châu Âu lục địa, đương nhiên, Iceland gần như một phiến đá hình oval lạnh lẽo, gần như không có cây cối, nơi một phần ba triệu người sinh sống qua ngày. Trong đời tôi Iceland lên trang nhất chính xác là bốn lần: tranh chấp quyền đánh cá với Anh quốc hồi năm 1970s; bối cảnh của các đàm phán kiểm soát vũ khí giữa Reagan và Gorbachev; nạn nhân đầu tiên của khủng hoảng năm 2008; và điểm xuất phát của đám mây tro bụi núi lửa từng làm tê liệt hàng không châu Âu năm 2010. Tuy nhiên, mọi hình khối, dù là về mặt hình học hay về chính trị, đều được định nghĩa bằng những đường ranh giới với bên ngoài. Giống như cách Đông phương lôi cuốn trí tưởng tượng của một kiểu người phương Tây nhất định; với một kiểu người phương nam, Iceland có một sức hấp dẫn lớn hơn nhiều so với diện tích và những món nhập khẩu về văn hóa. Pytheas, nhà bản đồ người Hi Lạp sống vào khoảng năm 300 trước Công Nguyên ở vùng đất nắng ấm bên kia xa xôi trong thế giới cổ đại - ông ta cảm nhận được sức hút ấy, và đặt nước quý vị lên bản đồ của ông ấy: Ultima Thule. Các giáo sĩ Thiên Chúa ẩn dật người Ireland từng quăng mình lên thuyền thúng ra biển, họ cũng chịu sức hút ấy. Người tị nạn hồi thế kỷ thứ mười từ nội chiến ở Na Uy; họ cũng bị hút đến. Chính các cháu của họ đã viết nên sử thi. Ngài Joseph Banks, nhiều học giả thời Victoria (đủ để đánh chìm một con thuyền dài), Jules Verne, ngay cả em trai của Hermann Göring, người từng được Auden và MacNeice bắt gặp ở đây hồi năm 1937, tất cả đều cảm nhận được sức hút của phương bắc, phương bắc của quý vị, và tất cả những người đó, tôi tin rằng, như Auden đã nói, đều không bao giờ không nghĩ về Iceland.”

Đèn hình UFO của Ngôi Nhà Văn Chương tiếp tục nhấp nháy.

“Nhà văn không sáng tác giữa thinh không. Chúng tôi làm việc trong một nơi chốn hữu hình, một căn phòng, lý tưởng là trong một ngôi nhà như Gljúfrasteinn của Laxness, nhưng đồng thời chúng tôi cũng sáng tác trong một không gian tưởng tượng. Giữa những thùng kín, thùng thưa, kệ và ngăn tủ đầy những… món linh tinh, bảo bối, về mặt văn hóa - như đồng dao trẻ thơ, huyền thoại, lịch sử, thứ mà Tolkien từng gọi là “đống phân rác trộn” - và cả những món cá nhân: chương trình tivi thời thơ ấu, thế giới quan được nuôi dưỡng trong gia đình, những câu chuyện ta nghe lần đầu từ cha mẹ, rồi từ con cái, và đặc biệt quan trọng, là những tấm bản đồ. Bản đồ trong tâm trí. Bản đồ có ranh giới. Và với Auden, với rất nhiều người trong chúng ta, ranh giới của bản đồ thật thú vị…”

Holly đã thuê căn hộ từ tháng Sáu, nhưng cô sẽ dọn về Rye trong vài tuần nữa, nên hầu như không có bàn ghế gì, trống trơn và gọn gàng, sàn gỗ óc chó và tường màu kem, nhìn ra những mái nhà lô nhô của Reykjavik đổ dốc xuống vịnh thẫm như mực. Đèn đường ngắt quãng ánh sáng phương bắc, màu sắc cạn dần đi, ba chiếc tàu du lịch lấp lánh trên bến cảng, như ba thành phố Las Vegas nổi trên mặt nước. Về phía vịnh là một dãy núi dài hình cá voi án ngữ đường chân trời, hoặc đúng ra đã án ngữ nếu mây không sà quá thấp như hôm nay. Örvar nói đấy là núi Esja, nhưng thú thật là chưa bao giờ leo lên đó vì quá gần, bước ra khỏi nhà đã thấy. Tôi cưỡng lại khát khao mạnh mẽ muốn dọn đến đây, khát khao ấy mạnh mẽ có lẽ vì nó hoàn toàn phi thực tế: tôi không nghĩ tôi sống nổi qua một mùa đông với ngày dài ba tiếng. Holly, Aoife, Örvar và tôi ăn món moussaka chay và uống cạn hai chai vang. Ba người hỏi tôi về chuyến đi một tuần quanh Iceland. Aoife kể về đợt khai quật hồi hè ở một khu định cư thế kỷ thứ mười gần Egilsstaðir, và cứ khuyến khích để Örvar, vốn dễ mến nhưng ít nói, kể về công việc của mình. Anh chàng xây dựng cơ sở dữ liệu di truyền xác định toàn bộ dân số Iceland: “Phụ nữ trên tám mươi tuổi có ADN của thổ dân da đỏ,” anh ta kể. “Điều đó chứng tỏ dứt dạc rằng sử thi Vinland dựa trên những sự thật lịch sử, chứ không chỉ là mơ mộng hư cấu. Cũng có khá nhiều ADN Ireland ở phụ nữ Iceland.” Aoife mô tả một ứng dựng điện thoại có thể giúp mỗi cư dân Iceland còn sống nhận biết mình có họ hàng với một cư dân Iceland còn sống khác không, và nếu có thì họ hàng như thế nào. “Họ cần cái này lâu lắm rồi,” cô vỗ lên tay Örvar đặt trên bàn, “để mà tránh những tình huống dễ xấu hổ, kiểu cảm-giác-buổi-sáng-hôm-sau, ngờ ngợ lạy-thánh-tôi-vừa-ngủ-với-em-họ chắc. Đúng vậy không hả Örvar?” Anh chàng tội nghiệp hơi đỏ mặt, rồi lẩm bẩm nói lảng về sô diễn chuẩn bị bắt đầu ở đâu đó. Dân dưới ba mươi tuổi ở Reykjavik, theo như Aoife, ai cũng có chân trong ít nhất là một ban nhạc. Cả hai đứng dậy chuẩn bị đi, và vì sáng sớm hôm sau tôi sẽ bay về, cả hai chúc tôi bon voyage. Aoife ôm tôi như cháu gái ôm bác ruột, Örvar bắt tay thật chặt, rồi sực nhớ đã mang theo cuốn Phôi Thai Tan Tác để tôi ký. Khi Örvar buộc dây giày, tôi cố nghĩ ra điều gì đó thật dí dỏm để ghi nhớ hôm nay, nhưng chịu.

Gởi Örvar, từ Crispin, Rất hân hạnh

Kể từ Wanda bằng sơn dầu, lúc nào tôi cũng cố sao cho thật dí dỏm. Cảm giác buông xuôi, không cố nữa, thật là nhẹ nhõm làm sao.

Tôi khuấy, khuấy, khuấy cho đến khi mấy chiếc lá bạc hà trông như đám cá tuế xanh rực giữa nước xoáy. “Giọt nước làm tràn ly với Carmen và tôi,” tôi kể với Holly, “là Venice. Nếu tôi không bao giờ thấy nơi đó nữa, tôi sẽ vui lòng khi nhắm mắt.”

Holly bối rối. “Tôi thấy nó khá lãng mạn đấy chứ.”

“Vấn đề ở chỗ đó. Tất cả vẻ đẹp ấy: thực-không-thể-chịu-đựng-nổi. Ewan Rice từng gọi Venice là Thủ Đô Ly Dị - và lấy nó làm bối cảnh cho một trong những cuốn hay nhất của ông ấy. Nội dung về ly dị. Venice cho thấy những gì tệ nhất, hại nhất của con người… Hôm đó tôi già mồm chê bai một cái dù đắt đỏ mà Carmen mua - thực tình, tôi ăn nói thế cũng dễ đến hai mươi lần một ngày - nhưng thay vì gạt đi, cô ấy nhìn tôi… như muốn nói, ‘Tại sao, tại sao nhỉ, tại sao tôi lại tiêu tốn chút tuổi trẻ còn lại vào lão già rên rỉ này?’ Cô ấy bước một mạch qua quảng trường St Mark. Đương nhiên là đi một mình.”

“À thì,” Holly lên tiếng, giọng trung lập, “ai cũng có lúc thế này thế khác…”

“Thực ra nhờ thế tôi mới tỉnh ngộ, bây giờ nghĩ lại. Tôi không trách gì cô ấy. Cả về chuyện bực tôi, lẫn đá tôi. Khi cô ấy bằng tuổi tôi bây giờ, tôi đã sáu mươi tám cái xuân xanh, Holly à! Tình yêu có thể mù quáng nhưng khi chung sống ta sẽ săm soi kẻ còn lại, mắt ta như được trang bị máy móc X-ray tối tân nhất, và khi chúng tôi tạm biệt ở sân bay Venice, lời cuối cùng mà cô ấy nói là ‘Bảo trọng’; khi tôi về đến nhà, một bức tuyệt tình đã chờ sẵn trong hòm thư. Không thể nói là bất ngờ được. Cả hai đều từng nếm mùi li dị rắc rối một lần, mà một lần là đã đủ. Chúng tôi đồng ý sẽ vẫn là bạn. Sẽ gởi thiệp Giáng Sinh trong vài năm, sẽ không nói xấu gì nhau, và có lẽ sẽ không bao giờ gặp lại.” Holly gật đầu, ậm ừ trong cổ họng như có ý “Tôi hiểu”.

Một chiếc xe buýt trễ dừng bên ngoài, thắng hơi rít lên.

Tôi không kể chuyện tin nhắn chiều nay với Holly. iPhone của tôi vẫn tắt. Không phải bây giờ. Để sau đã.

“Đẹp thật, hình đấy.” Trên kệ đằng sau Holly có một khung ảnh, ảnh chụp Holly khi còn là một người mẹ trẻ, với Aoife bé tí cười nhe răng, mặc đồ Con Sư Tử Nhút Nhát, mũi lấm tấm tàn nhang, và Ed Brubeck, trẻ hơn tôi nhớ; cả ba mỉm cười trong một khu vườn nho nhỏ sau nhà, vườn ngập nắng, có tulip màu hồng và vàng. “Chụp khi nào vậy?”

“2004. Aoife lần đầu lên sân khấu trong vở Phù thủy xứ Oz.” Holly nhấp trà bạc hà. “Ed và tôi đang phác thảo Người Trên Đài, cũng khoảng đó. Cuốn sách là ý tưởng của anh ấy mà, anh biết không. Dịp cuối tuần đó tụi tôi đi Brighton dự đám cưới Sharon, trước đó anh ấy vẫn khăng khăng kiểu-gì-cũng-phải-có-một-cách-giải-thích-hợp-lý.”

“Nhưng sau vụ số phòng khách sạn, anh ấy bắt đầu tin?”

Holly nước đôi. “Anh ấy thôi không chối bỏ nữa.”

“Ed có biết cuốn Người Trên Đài trở thành con quái vật như thế nào không?”

Holly lắc đầu. “Tôi viết phần ở Gravesend khá nhanh, nhưng sau đó tôi được đề bạt ở trung tâm người vô gia cư. Phần thì công việc, phần thì Aoife, Ed lại đi công tác xa, tôi không viết xong nổi cho đến khi…” cô lựa lời, cẩn thận “…Ed hết gặp may ở Syria.”

Tôi thấy thật xấu hổ khi đã ca cẩm thương thân về Zoë và Carmen. “Cô đúng là người hùng, Holly à. Nữ anh hùng, thì đúng hơn.”

“Thì cứ phải sống tiếp. Aoife mới mười tuổi. Đâu thể ngã gục được. Gia đình tôi từng mất Jacko vậy nên…” Holly khẽ cười buồn “…nhà Sykes vốn giỏi chịu đựng tang tóc mất mát mà. Viết cho xong Người Trên Đài cũng là một liệu pháp. Chưa bao giờ tôi tin rằng ai khác ngoài gia đình tôi muốn đọc nó. Những người phỏng vấn không bao giờ tin tôi khi tôi nói vậy, nhưng sự thật là thế. Câu lạc bộ đọc sách trên TV, rồi vụ Prudence Hanson đọc, nào là ‘Nhà ngoại cảm với vết sẹo thời thơ ấu’… tôi không được chuẩn bị tâm lý cho tất cả những thứ đó, rồi những trang web, bọn khùng điên, những bức thư nài nỉ, những người từ lâu không còn liên lạc (mà có lý do cả). Bạn trai đầu tiên của tôi - tay này không hề để lại kỷ niệm êm đẹp gì - cũng tìm cách liên lạc và nói rằng giờ đây hắn là đại diện chính của Porsche ở tây London, tôi có muốn lái thử xe không, chẳng phải tôi vừa trúng đậm đó sao? À, cho tôi kiếu. Rồi sau khi vụ đấu giá bản quyền ở Mỹ của Người Trên Đài được đưa tin, mọi Jacko giả mạo đâu đâu bò ra. Người đại diện của tôi sắp xếp để tôi gặp Jacko đầu tiên qua Skype. Anh chàng trạc tuổi Jacko, trông có vẻ hơi hơi giống hình dung Jacko ở tuổi đó. Anh ta nhìn tôi chằm chằm, thì thầm “Ôi lạy Chúa, ôi, lạy Chúa tôi… là chị.”

Tôi thèm hút thuốc, nhưng tôi nhai một que cà rốt cho qua cơn. “Rồi hắn giải thích thế nào vụ mất tích ba mươi năm?”

“Anh ta nói là bị thủy thủ Liên Xô bắt cóc để phụ việc trên tàu, rồi bị đem đến Irkutsk để tránh một sự cố Chiến Tranh Lạnh. Ừ, tôi biết chứ.

Brendan thấy sặc mùi lừa đảo, vậy là anh ấy ra hiệu cho tôi ra ngoài rồi hỏi anh chàng, ‘Nhận ra ai không, Jacko?’ Anh chàng ngập ngừng, rồi bật ra, ‘Bố!’ Cuộc gọi chấm dứt. ‘Jacko’ cuối cùng liên lạc với chúng tôi là người Bangladesh, nhưng bọn đế quốc ở Đại sứ quán Anh ở Dhaka không chịu tin rằng anh ta là em trai tôi. À mà tôi có thể gởi mười ngàn bảng để bảo lãnh visa cho anh ta không? Sau vụ đó tụi tôi thôi hẳn. Nếu Jacko còn sống, nếu nó đọc được sách, nếu nó muốn đi tìm chúng tôi, nó sẽ biết cách.”

“Lúc đó cô còn làm việc ở trung tâm hỗ trợ người vô gia cư không?”

“Tôi nghỉ việc trước khi đi Cartagena. Thật đáng tiếc - tôi yêu công việc đó, tôi nghĩ tôi làm cũng khá tốt, nhưng vừa chủ trì một cuộc họp gây quỹ vừa nhận tiền bản quyền sáu con số trong một ngày, thì không thể giả vờ là mọi việc vẫn như cũ. Nhiều ‘Jacko’ đến thử vận may ở văn phòng cơ quan tôi, điện thoại của tôi bị nghe lén. Tôi vẫn còn liên hệ với các tổ chức từ thiện về người vô gia cư nhưng chỉ ở mức độ người bảo trợ. Tôi phải đem Aoife ra khỏi London, về vùng quê yên tĩnh hiền lành như Rye. Lúc đó tôi cứ nghĩ thế. Đã bao giờ tôi kể cho anh nghe vụ Đại Đụng Độ Hội Illuminati chưa?”

“Cô nói về mình với tôi ít hơn cô nghĩ đấy. Hội Illuminati: tức là thạch sùng ngoài hành tinh nô dịch hóa con người bằng cách phát ra sóng não có tác dụng ức chế beta từ căn cứ bí mật trên mặt trăng?”

“Chính nó. Một buổi sáng tháng Tư đẹp trời, hai nhóm theo thuyết âm mưu nấp trong bụi cây nhà tôi. Chúa mới biết sự vụ bắt đầu ra sao - có lẽ là lời qua tiếng lại bâng quơ trên Twitter. Vậy là, hai phe nhận ra họ không phải là nhóm duy nhất, rồi mỗi phe tự thuyết phục mình rằng phe còn lại chính là tay sai của Hội Illuminati. Anh còn nghe không? Đừng cười thế: hai bên đánh nhau tơi bời hoa lá. Cảnh sát đến ngay. Sau đó tôi phải dựng hàng rào an ninh và đặt camera theo dõi quanh nhà. Tôi, lạy Chúa, mà lại xây nhà kín mít như dân ngân hàng! Nhưng tôi còn lựa chọn nào khác? Lần tới biết đâu bọn khùng điên có thể sẽ không ăn thua đủ để bảo vệ tôi mà quay sang tấn công tôi thì sao. Vậy là trong khi sửa nhà, tôi đi Australia, cũng là lần Aoife và tôi gặp anh ở Rottnest.” Cô bước về phía cửa, kéo màn che cảnh vịnh đêm. “Bài học rút ra là phải cẩn thận khi khiến người ta đặt nghi vấn thực hư ở đời.

Người ta có thể rút ra những kết luận mà ta không lường trước được.” Dưới đường phố hai con chó sủa inh ỏi, rồi im bặt. “Nếu cô không ra sách nữa, bọn khùng sẽ quên thôi.”

“Đúng thế,” Holly nói, vẻ né tránh.

“Cô đang viết một cuốn nữa sao?”

Holly lúng túng. “Chỉ là vài truyện ngắn thôi.”

Tôi vừa ghen tị, vừa thấy vui. “Thế thì tuyệt. Nhà xuất bản của cô hẳn phải nhảy cỡn lên.”

“Đâu có gì đảm bảo là người ta sẽ muốn đọc. Chỉ là những câu chuyện dựa trên những người tôi biết ở Trung Tâm. Không có ngoại cảm gì cả.”

“Ngay giờ đây, Tuyển Tập Sổ Tay Đi Chợ của Holly Sykes nếu được in sẽ lên thẳng ngôi đầu bảng, chỉ bằng số đơn đặt hàng trước.”

“Thì cứ để xem. Nhưng tôi đã ở đây cả mùa hè để viết. Reykjavik rất thích hợp với công việc viết lách. Iceland cũng như Ireland: nổi tiếng ở đây cũng chẳng có gì đặc biệt cả.”

Tình cờ đầu ngón tay chúng tôi như chạm nhau. Holly cũng vừa nhận ra ngay, và cả hai rút tay về đặt lên đùi. Tôi cố nghĩ ra một câu đùa để vớt vát chút ngượng ngùng đó, nhưng chẳng nghĩ được gì. “Để tôi gọi taxi cho anh, Crisp à. Đã nửa đêm rồi.”

“Không thể trễ thế được.” Tôi nhìn điện thoại: 00:10. “Trời đất, đã qua hôm sau rồi.”

“Đúng thế! Anh bay về London lúc mấy giờ?”

“Chín giờ ba mươi, nhưng tôi có thể hỏi cô hai câu cuối cùng được không?”

“Hỏi gì cũng được,” cô đáp. “Gần như gì cũng được.”

“Tôi vẫn là ‘con nhện, xoắn ốc, gã chột mắt’ sao?”

“Anh muốn tôi xem lại không?”

Nhưng một kẻ vô thần mong muốn được người ta cầu nguyện cho mình, tôi gật đầu.

Như lúc ở Thượng Hải, Holly chạm lên điểm trên trán, rồi để mí mắt gần như khép lại. Một gương mặt thật đẹp nhưng… quá nhợt nhạt, hốc hác. Mắt tôi lướt đến mặt dây chuyền. Một mê cung. Chắc là một thứ biểu tượng tâm trí-thể chất-linh hồn gì đó, tôi đoán. Của Ed tặng chăng?

“Vâng.” Holly mở mắt. “Vẫn như cũ.”

Một người có lẽ đang say, cười man dại bên ngoài. “Liệu tôi sẽ biết nó nghĩa là gì không? Đó không phải là câu hỏi thứ hai.”

“Vâng, một ngày nào đó anh sẽ biết. Lúc đó anh nhớ cho tôi hay.”

“Tôi hứa.” Câu hỏi thứ hai khó khăn hơn vì tôi rất sợ một câu trả lời.

“Holly, cô không đau ốm gì đấy chứ?”

Holly có vẻ ngạc nhiên, nhưng không phủ nhận. Cô nhìn ra xa.

“Ôi, quên đi.” Tôi muốn nuốt lại câu hỏi ấy. “Xin bỏ qua cho tôi, tôi không…”

“Ung thư túi mật.” Holly cố mỉm cười. “Đến bệnh cũng phải chọn một thứ thật hiếm, hả?”

Tôi còn không cố mỉm cười được. “Tiên lượng ra sao?”

Holly bình thản, như đang nói về một chuyện phiền toái vặt vãnh nhưng khó chịu. “Quá muộn, không phẫu thuật được - đã di căn vào gan và… à, ừm… khắp cả người. Bác sĩ ở London dự rằng tôi có chừng năm đến mười phần trăm cơ hội còn ở đây khoảng chừng này sang năm.” Giọng cô lào khào. “Tôi cũng không muốn vậy. Với hóa trị và thuốc men, tiên lượng có cải thiện, có thể lên khoảng hai mươi phần trăm, nhưng… liệu tôi có muốn sống thêm vài tháng chỉ để suốt ngày nôn vào túi rác không? Đó là lý do còn lại khiến tôi dọn đến Iceland cả mùa hè, không rời Aoife như thể ông-gì-gì trong Macbeth.”

“Banquo. Aoife biết sao?”

Holly gật đầu. “Brendan, Sharon, con của hai người, mẹ tôi và cả Örvar - tôi hi vọng cậu ấy sẽ giúp Aoife khi mà… anh biết đó. Khi tôi không thể giúp nó được. Nhưng không ai khác biết cả. Trừ anh. Người ta rất dễ ủy mị. Tôi còn phải cố sức mà động viên họ. Tôi không định nói với anh nhưng… anh đã hỏi. Xin lỗi đã làm anh mất vui.”

Tôi nhìn cô ấy, và thấy Crispin Hershey trong mắt cô, và có lẽ cô ấy thấy Holly Sykes trong mắt tôi. Đột nhiên đã đến giờ về. Holly và tôi đứng cạnh bàn, ôm tạm biệt. Không phải ôm ấp nhục tính. Nó thực sự không phải thế, thưa độc giả quý mến. Tôi biết chứ.

Nó là thế này: chỉ cần tôi ôm cô ấy, sẽ không có gì xấu xảy ra.

Gã lái xe taxi xâu xỏ đầy tai, chỉ nói, “Ô kê” khi tôi nói ra tên khách sạn. Tôi vẫy tay tạm biệt cho đến khi không thấy Holly nữa. Tôi đã sắp xếp đến Rye trước Giáng Sinh nên tôi sẽ cố lờ đi cái linh cảm khó chịu rằng sẽ không bao giờ gặp cô ấy nữa. Radio bật kênh nhạc cổ điển, tôi nhận ra Maria Callas đang hát “Casta pa” từ vở Norma của Bellini - Bố từng dùng bản đấy làm nền cho cảnh máy bay mô hình trong phim Đồi Chiến Thuyền. Trong giây lát tôi quên mất mình đang ở đâu. Tôi bật iPhone lên để nhắn tin cho Holly, cảm ơn vì buổi tối hôm nay, và khi tôi đang gõ tin nhắn, một tin nhắn từ Carmen truyền đến đến. Nàng gởi khi tôi còn giảng bài. Không có chữ: chỉ là một hình ảnh… một trận bão tuyết?

Một trận bão tuyết trong đêm nhìn qua kính chắn gió?

Tôi nghiêng đầu và quay điện thoại.

Thiên thạch vỡ tung? Không.

Là ảnh chụp từ siêu âm.

Chụp tử cung của Carmen.

Với một vị khách trọ trong đó.