← Quay lại trang sách

13 Tháng Mười Hai 2020

Chiếc chìa khóa của Jun’ichirō Tanizaki: chính nó. Nhưng sau khi đã tìm ra tựa sách ấy trong tủ-kệ-dưới-cầu-thang chứa những-cuốn-sách-đọc-một-lần, tâm trí của Crispin Hershey dạt khỏi tiểu-thuyết-đang-viết-dở của Devon Kim-Ashkenazy (Xuyên qua đại dương, ba thế hệ phụ nữ bị lạm dụng từ Pusan đến Brooklyn). Tôi biết mình đang mất tập trung, nhưng tôi bất lực, không thể cưỡng lại được. Cao, cao và xa nữa, tâm trí tôi bay lên, qua gạch trần và đá ngói, qua khỏi tầng hầm nơi Khoa Tiếng Anh được chứa chấp tạm thời từ năm 1978. Nhìn mái nhà hát cong cớn do Frank Gehry thiết kế; liếc qua khu ký túc như những mẩu Lego; lượn quanh nhà thờ Gothic từ thời Lincoln; nhào lộn giữa những tòa nhà các bộ môn tự nhiên bằng kính-và-thép; lên đến nhà của hiệu trưởng, gạch đỏ, mái đầu hồi, dây trường xuân chằng chịt như mạch máu; qua khỏi cổng vào khu nghĩa trang; nơi những kẻ chung thân ở Blithewood hóa thành cây cỏ với cùng tốc độc của giun dế và rễ riếc, rồi tâm trí lơ đễnh của Hershey lượn vòng trên cây cao nhất, nơi chỉ có sóc và quạ; con sông Hudson uốn lượn hoành tráng giữa những rặng núi như móng bồ câu của dãy Catskill; tàu lửa lộ ra, tàu lửa khuất dạng, một câu trích dẫn in trên chiếc tách vỡ, “Tôi muốn nhìn thấy nó chạy hàng dặm, và liếm sạch các thung lũng.”[53] Tâm trí chàng bay bổng lên cao, như nhìn trên bản đồ trực tuyến Google Earth, qua mây trời nơi bão tuyết đang nung nấu bên trong; bang New York xa dần, và Massachusetts bay mất, đảo Newfoundland bị chôn trong băng giá rồi đảo đá Rockall phủ đầy phân mòng biển, nơi không con mắt nào thấy được ánh chớp lóe lên trong tích tắc…

“Crispin?” Devon Kim Ashkenazy. “Thầy ổn chứ?”

Nhìn vẻ mặt bọn sinh viên cao học, hẳn tôi đã ngơ ngác một hồi lâu. “À. Tôi đang nhớ lại một tiểu thuyết của Tanizaki, rất đặc sắc, với cách kể chuyện qua nhật ký tương tự như sách của cô, Devon à. Chiếc chìa khóa. Đọc cuốn đấy có thể giúp cô khỏi phải đi lại lối mòn. Nhưng nói chung,” tôi trả lại bản thảo cho cô ta, “là có tiến bộ. Tôi chỉ còn vướng mỗi một chỗ, ừm, là cảnh hiếp dâm. Vẫn hơi bị nhiều trạng từ, tôi thấy thế.”

“Được rồi.” Devon dùng giọng vui vẻ để chứng tỏ cô ta không hề thấy mích lòng. “Hiếp dâm trong cửa hàng hoa hay hiếp dâm trong nhà nghỉ?”

“Trong hàng rửa xe. Trạng từ như cholesterol trong mạch văn. Giảm một nửa số trạng từ, mạch văn sẽ chảy nhanh lên gấp hai lần.” Ngòi bút sột soạt. “À, mà cẩn thận khi dùng từ ‘dường như’; rất dễ thành ra lèm bèm câu chữ. Và nhớ tự chấm điểm mỗi phép so sánh và ẩn dụ, từ một sao đến năm sao, bỏ hết những chỗ ba sao trở xuống. Lúc ra tay sẽ rất đau đớn, nhưng sau đó anh chị sẽ thấy khá hơn nhiều. Japheth?”

Japheth Solomon (tác giả của Trong đất nước của Chúa trời, Bildungsroman[54] - đang-viết-dở về một cậu bé ở Utah trốn đến một trường đại học ở bờ đông nơi tình dục, ma túy và một khóa viết văn cùng gợi lên nỗi bất an hiện sinh chủ nghĩa) liền hỏi, “Vậy nếu ta không thể định được ẩn dụ đó là ba hay bốn sao thì sao?”

“Nếu anh không thể định được, Japheth, thì nó chỉ ba sao thôi.”

Maaza Kolofski (Mã Thủ Tinh Vân, bối cảnh xã hội không tưởng sau khi một dịch bệnh tàn sát hết nam giới trên Trái Đất) đưa tay lên: “Có bài tập cho kỳ nghỉ không, thầy Crispin?”

“Có đấy. Viết năm bức thư từ năm nhân vật chính, gởi các anh chị. Mọi người biết thư là gì chứ?”

“Một email viết tay,” Louis Baranquilla (Gã Quái Đản Trong Lớp Yoga kể về một gã quái đản trong một lớp học yoga). Chứng dị ứng Internet của tôi thường được đem ra trêu trong lớp. “Thế phải viết gì trong thư?”

“Tiểu sử cắt ngang của nhân vật. Nhân vật của các anh các chị yêu ai, quý gì, khinh ai, ghét gì. Chi tiết về học vấn, nghề nghiệp, tiền bạc, lập trường chính trị, giai cấp xã hội. Những nỗi sợ hãi. Những bộ xương giấu kín trong tủ. Nghiện ngập. Nuối tiếc lớn nhất là gì; ngoan đạo, bất khả tri hay vô thần. Họ sợ chết như thế nào?” Tôi nghĩ đến Holly, nén một tiếng thở dài rồi tiếp tục. “Họ đã bao giờ thấy xác chết chưa? Thấy ma quỷ? Xu hướng tình dục. Cốc nước nửa vơi, cốc nước nửa đầy, cốc nước quá nhỏ? Họ ‘nói lời đường mật’ hay ‘miệng lưỡi sắc bén’? Ăn tục nói tĩu hay dị ứng thói báng bổ? Họ có thể đặt mình vào vị trí người khác không? Chỉ khoảng một phần mười những gì các anh chị viết ra sẽ xuất hiện trong bản thảo, nhưng khi chạm đến chỗ một phần mười ấy…” Tôi gõ đốt ngón tay xuống bàn “…các anh chị sẽ thấy nó chắc chắn như gỗ sồi, chứ không phải mạt cưa và hồ dán. Ersilia?”

“Hơi bị…” Ersilia Holt (một truyện trinh thám tựa đề Kẻ Gắp Đá, kể về những băng đảng tội phạm có tổ chức và các ổ nhóm Taliban ở Vancouver) nhăn nhó mặt mày “…không bình thường - cái trò viết thư gởi chính mình này?”

“Đồng ý, Ersilia. Nhà văn là kẻ tán tỉnh chứng tâm thần phân liệt, kẻ luôn âm ỉ hội chứng cảm giác đi kèm, và phải sống chung với rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Để sáng tạo nghệ thuật, anh chị phải vắt cạn bản thân mình, linh hồn mình, và, trong chừng mực nào đó, cả sự sáng suốt tâm trí. Viết được tiểu thuyết đáng để đọc sẽ tàn phá tâm trí anh chị, đe dọa các mối quan hệ của anh chị và hủy hoại đời anh chị. Nói trước cho anh chị biết.”

Mười sinh viên cao học của tôi trông có vẻ tỉnh táo. Có gì lạ đâu. “Nghệ thuật ăn thịt chính nghệ sĩ,” tôi nói.

Phòng sinh hoạt khoa vắng lặng, trừ Claude Mo (Trung Cổ học, không có biên chế) và Hilary Zakrewska (ngôn ngữ học, cũng không có biên chế) đang nuốt lấy nuốt để cái duyên hóm nóng bỏng của Christian Pym-Lavit (trưởng khoa khoa học chính trị, chủ trì Hội Đồng Biên Chế). Nếu không được vào biên chế ở Blithewood, sẽ không có trường hạng Ivy nào chịu nhận họ. Christina Pym-Lavit vẫy tay gọi tôi đến. “Kéo ghế lại đây, Crispin, tôi đang kể với Hilary và Claude vụ xịt lốp xe hồi tôi chở John Updike và Aphra Booth đến trại sáng tác Iowa - anh quen cả hai người đó, đúng không?”

“Chỉ quen sơ sơ,” tôi đáp.

“Đừng dè dặt thế chứ,” Kẻ Có Biên Chế đáp, nhưng tôi thực chẳng dè dặt gì. Tôi phỏng vấn Updike cho báo New Yorker thời tôi còn là Kẻ Nổi Loạn và bán sách ào ào ở Mỹ. Tôi chưa gặp lại Aphra Booth kể từ lần ả dọa sẽ kiện tôi ở Perth, năm nào cũng chả nhớ. Đống bài tập của sinh viên trong văn phòng tự dưng không làm tôi thấy nản nữa, vậy là tôi viện cớ. “Chấm bài? Trong ngày cuối cùng của học kỳ?” Christina Pym-Lavit thốt lên. “Giá mà ai cũng tận tụy như thế, Crispin.” Chúng tôi hẹn gặp nhau ở tiệc Giáng Sinh sau đó, rồi tôi đi thẳng xuống hành lang. Là dân thỉnh giảng, tôi không phải dính đến cái đống phân bò của những trò chính trị nọ kia trong trường, nhưng nếu tôi được nhận việc toàn thời gian năm tới, tôi cũng sẽ ngập trong đó, ngập sâu đến nỗi chỉ thấy mỗi đôi giày. Tôi cần tiền lương, chẳng nghi ngờ gì nữa. Nhờ có “thỏa thuận bồi thường” mà cựu đại diện của tôi, Hal, đã thương lượng được, bảy mươi lăm phần trăm tiền bản quyền vốn càng ngày càng teo tóp được trả thẳng cho cựu nhà xuất bản của tôi để trừ nợ. Tôi cần công việc có nơi ăn chốn ở đi kèm. Tôi đã giữ được nhà ở Hampstead, cũng sít sao, nhưng giờ đây nó nằm trong tay bên môi giới thuê nhà. Tôi dùng tiền thuê trả tiền cấp dưỡng cho Zoë. Món cấp dưỡng mà Zoë một hai không thể điều chỉnh: “Chỉ vì anh làm cho bạn gái người Tây Ban Nha có bầu? Không đùa đâu, Crispin… việc gì tôi phải thế?” Carmen không hù dọa kiện tụng gì tôi, nhưng nuôi con, ngay cả ở Tây Ban Nha, cũng vô cùng đắt đỏ.

“Anh ta là ai vậy?” Inigo Wilderhoff lóc cóc bước xuống cầu thang, tay cầm va li cỡ khủng, nhe hàm răng sáng bóng như phát thanh viên truyền hình. “Tôi đã chỉ đường cho bạn anh đến phòng anh, chỉ một phút đây thôi.”

Tôi dừng lại. “Bạn tôi?”

“Bạn từ Anh quốc.”

“Anh ấy có nói tên gì không?”

Inigo vuốt bộ râu giáo sư. “Anh biết không, tôi không nghĩ là anh ấy có nói. Chừng năm chục tuổi. Cao. Chột mắt. Taxi tôi đang đợi bên ngoài, tôi phải biến đây. Ăn tiệc tối nay phần tôi luôn nhé. Au revoir đến tháng Giêng.” Tôi kịp nói hai chữ “Bảo trọng”, nhưng va li của Wilderhoff đã thình-thịch-thình-thịch xuống cầu thang.

Chột mắt? Gã chột mắt.

Bình tĩnh. Bình tĩnh nào.

Cửa văn phòng tôi mở hé. Thư ký đi đâu mất - an ninh ở Đại học Blithewood -cách thành phố gần nhất hai dặm, khá lỏng lẻo. Tôi đưa mắt nhìn vào… Không có ai cả. Có lẽ là một sinh viên tại chức đeo kính, giọng hơi Anh qua tai của Wilderhoff, có lẽ hắn muốn tôi ký sách để đem bán trên eBay. Chắc hắn không thấy tôi ở đó, đã bỏ ra ngoài chờ đến ba giờ, lúc tôi chính thức tiếp sinh viên. Nhẹ cả cười, tôi bước đến bàn.

“Cửa mở sẵn, Crispin à.”

Tôi rít lên, xoay người, đánh đổ mớ đồ linh tinh trên bàn xuống sàn nhà. Một người đàn ông đang đứng cạnh giá sách. Chột mắt.

Richard Cheeseman đứng im. “Mở màn hơi bị hay đấy.”

“Richard! Anh làm tôi hết cả hồn vía.”

“À, xin thứ lỗi vì tôi làm anh hết cả hồn vía.”

Đáng ra cả hai phải vỗ vai nhau, nhưng tôi chỉ há hốc miệng. Mỡ bụng Richard Cheese tan ngay chỉ sau một tháng ăn cơm tù Mỹ Latin, áo quần thường dân càng nhấn mạnh vẻ khắc khổ, dữ tợn và nhọc nhằn qua thời gian. Vụ chột mắt - là khi nào nhỉ? - khiến hắn có cái phong thái của một tướng Israel. “Tôi… tôi đã định sẽ ghé thăm anh ở Bradford sau Giáng Sinh. Đã sắp xếp cả với Maggie rồi.”

“Vậy ra tôi vừa đỡ cho anh một chuyến đi.”

“Nếu tôi biết anh tới, tôi đã…”

“Dọn sẵn champagne, ban nhạc kèn đồng? Không phải gu của tôi.”

“Vậy…” tôi cố mỉm cười “… nhờ đâu mà tôi có hân hạnh này?”

Richard Cheeseman thở dài, cắn chỗ xước móng tay. “Lúc còn ở Penitenciaría, tôi có một cách giết thời gian là lên kế hoạch chuyến đi New York đầu tiên khi được tự do. Càng chi tiết nhỏ nhặt, càng giết được nhiều phút đồng hồ, anh biết không. Lúc đấy tôi thường điều chỉnh lại kế hoạch qua từng đêm. Vậy nên, khi tôi thấy không thể đối mặt với một Giáng Sinh sum họp gia đình ở nhà của Maggie, đầy hoan hỉ, đầy thương hại, đầy chương trình đặc biệt cho Giáng Sinh trên tivi, thì, tự nhiên, New York là nơi tôi muốn đến. Rồi một khi ở đó, còn gì hay hơn là đáp tàu Hudson Line đến thăm ánh sáng dẫn đường, người bạn đứng đầu trong nhóm Những Người Bạn Của Richard Cheeseman, tức Crispin Hershey đây?”

“Thì tôi chỉ có thể làm đến vậy.”

Cái nhìn chòng chòng của hắn như muốn nói, “Mày chỉ có thể làm đến vậy, đồ khốn nạn.”

Tôi cố trì hoãn điều tôi e sẽ đến. “Anh bị hỏng mắt vì đánh nhau sao, Richard?”

“Không, không, không phải dao búa gì, không hoành như Nhà Tù Shawshank. Chỉ là ánh lửa từ đuốc hàn ngay ngày cuối cùng làm tù nhân ở Yorkshire. Bác sĩ nói có thể tháo miếng che ra trong một tuần nữa.”

“Tốt.” Khung ảnh chụp Gabriel nằm dưới đất. Tôi nhặt lên, vị khách của tôi nhận xét, giọng đầy ác ý, “Con trai anh đấy sao?”

“Vâng. Gabriel Joseph. Đặt theo García Márquez và Conrad.”

“Cầu cho con anh cũng có được những người bạn như tôi có.”

Hắn biết. Hắn đã đoán được. Hắn đến đây để đòi nợ.

“Chắc là khó khăn lắm,” Cheeseman nhận xét. “Anh ở đây, nó ở Tây Ban Nha.”

“Không lý tưởng,” tôi cố tỏ ra bình thường, “nhưng Carmen có gia đình ở Madrid, nên cô ấy không phải nuôi con một mình. Cô ấy từng được chẩn đoán là vô sinh, anh thấy đó, vậy nên với cô ấy, Gabriel là một phép màu nhỏ. Nói đúng ra là một phép màu lớn. Lúc đó thì tụi tôi đã chia tay, nhưng cô ấy quyết tâm muốn giữ con và…” tôi đặt Gabriel cạnh cuộn keo dán. “…thằng bé là công sức của cô ấy. Anh ngồi xuống chứ? Để tôi còn rót chút brandy mà ăn mừng…”

“Gì kia… ăn mừng bốn năm rưỡi phí hoài trong tù sao?” Tôi không thể nhìn hắn, cũng không thể nhìn ra xa.

“Dường như anh có vẻ bất an, Crispin. Dường như tôi đang làm anh hồi hộp.”

“Dường như” x 2 = bệnh lèm bèm câu chữ bình phương, tôi nghĩ thầm rồi nhận ra túi áo khoác của Richard Cheeseman cồm cộm, thõng xuống. Tôi đoán được trong đó có thứ đồ vật giết người gì. Hắn đọc suy nghĩ của tôi. “Tôi luận ra ai đã bỏ cocaine vào va li tôi, Crispin, và cả bỏ khi nào, thậm chí là tại sao nữa… không mất nhiều thời gian lắm.” Nóng. Lạ lùng. Ruột gan tôi như đang bị chảy hết ra ngoài.

“Tôi quyết định sẽ không đối đầu kẻ tráo trở ấy cho đến khi ra tù. Suy cho cùng, hắn cũng đang cố hết sức để giúp tôi được hồi hương và phóng thích. Chẳng phải vậy sao?”

Tôi không còn tin tưởng giọng của mình nữa, nên tôi chỉ gật đầu, một gật.

“Không, Crispin! Hắn cóc cố hết sức để đưa tôi ra! Nếu hắn khai, tôi đã được thả chỉ trong vài ngày. Hắn để tôi rục xương.”

Tuyết lại rơi, tôi để ý. Cây kim giây trên đồng hồ kéo những cánh cung bé xíu. Không có gì khác động đậy. Không gì cả.

“Khi tôi nằm trong khám ở Bogotá, tôi không chỉ mơ về New York. Tôi còn mơ sẽ làm gì với hắn. Với cái thứ sâu mọt khốn kiếp đã đến thăm tôi, để hả hê, hắn có quan tâm, nhưng không quan tâm đủ để đổi chỗ. Đời nào. Tôi lên kế hoạch sẽ đánh thuốc mê hắn như thế nào, trói lại rồi giết hắn bằng một cái chìa vít trong bốn mươi ngày. Chưa có kịch bản nào được trau chuốt đến thế. Rồi tôi nhận ra tôi thật ngớ ngẩn. Trẻ con. Cần gì phải liều lĩnh như thế? Tại sao không chỉ đến gặp hắn ở Mỹ, mua một khẩu súng và bắn bỏ thằng khốn ở một nơi đồng không mông quạnh nào đó?”

Tôi ước Betty cô thư ký hay Inigo Wilderhoff vẫn còn loay hoay quanh đó. “Kẻ hành hạ anh,” tôi cố giữ giọng bình tĩnh, “đã bị lương tâm tra tấn dày vò từng ấy năm.”

Giọng Cheeseman như hàng rào kẽm gai: “Tra tấn? Nhởn nhơ đi khắp thế giới? Sinh con đẻ cái? Trong khi tôi, tôi đây, bị nhốt trong chuồng ở Colombia với những tên giết người, nghiện ma túy nhiễm HIV với dao cạo rỉ sét. Ai mới là người bị tra tấn?”

Tay hắn đút vào túi áo khoác. Một tay bảo vệ đang đi dọc hành lang, huýt gió. Tôi nhìn thấy anh ta, đóng khung ở lối vào trước bàn trực của Betty. Hét lên mà cầu cứu! Hershey - kẻ đang sợ vãi cả linh hồn, giục tôi. Hoặc là bỏ chạy. Hoặc là xin tha thứ: “Làm ơn đừng để con tôi thành mồ côi.” Hoặc thương lượng. Hoặc đề nghị viết ra một lời thú tội đầy đủ.

… Hoặc… hoặc… hoặc… hoặc cứ để hắn trả thù. “Kẻ hành hạ anh,” tôi mở lời, “không hề hả hê khi đến thăm anh. Hắn khinh bỉ chính sự hèn nhát của mình, bây giờ vẫn còn khinh. Nhưng điều đó không thay đổi được gì cả. Hắn muốn trả nợ, Richard. Hắn suýt chút nữa thì đã phá sản, nên nếu anh muốn trả bằng tiền, hắn không thể giúp anh được. Nhưng có phải tiền là thứ anh muốn không?”

“Lạ lùng là,” hắn quay đầu một vòng, “giờ tôi đã ở đây, tôi không biết phải lấy gì.”

Áo sơ mi của tôi dính vào người, mồ hôi cả nóng lẫn lạnh. “Vậy thì tôi sẽ ngồi ở bàn,” tôi nói, “và đợi anh quyết định. Kẻ hành hạ anh không hề muốn anh bị tù tội nhiều năm, hắn chỉ có ý… chơi khăm, một trò chơi khăm ngu ngốc, để lại hậu quả như ác mộng. Anh quyết định hắn nợ gì, hắn sẽ trả. Được không?” Không, thưa độc giả quý mến, không “được” gì cả. Tôi ngồi trong ghế, người ngợm như tan chảy. Tốt hơn là nhắm mắt lại. Đừng nhìn Richard Cheeseman, sách vở, cảnh khu rừng trắng tuyết. Một phát vào đầu. Còn nhiều cách chết tệ hại hơn. Bên tai tôi như có tiếng trống rầm rập, khiến tôi không nghe ra Richard Cheeseman đang làm gì, tôi chỉ thoáng nghe tiếng chốt an toàn mở trên khẩu súng, và tiếng bước chân. Kỳ lạ, tôi cảm giác họng súng ngắn đang ở cách trán mình chừng một inch. CHẠY! VAN XIN! CHỐNG ĐỠ! Như con chó bệnh tật, biết trước mũi kim của bác sĩ thú ý để làm gì, tôi ngồi im. Cơ quan tiêu hóa và tiết niệu vẫn kiểm soát được. Chút an ủi nhỏ nhoi. Những giây cuối cùng. Suy nghĩ cuối cùng? Anaïs lúc còn bé, hãnh diện khoe với tôi cuốn sách làm bằng tay, tựa đề Gia Đình Thỏ Đi Picnic. Juno kể rằng cậu bạn hay nhất trong khóa nó nói với nó, muốn hiểu cậu ấy, nó phải đọc một cuốn sách có tựa đề Phôi Thai Tan Tác. Gabriel ở Madrid, mau lớn, bụ bẫm, ngậy mùi sữa, mùi tã đầy và mùi phấn rôm. Thật tiếc là tôi sẽ không được biết nó, nhưng có lẽ nó sẽ tìm thấy chút gì đó của tôi trong những cuốn khá nhất tôi viết được. Holly, người bạn duy nhất của tôi, thật thế. Tôi xin lỗi vì ra đi thế này sẽ khiến cô ấy đau buồn. Câu trích dẫn yêu thích nhất, từ Vết nhơ trần thế của Roth: “Không có gì còn mãi, mà cũng không có gì mất đi, và không gì mất đi chỉ vì không gì còn mãi.” Như thế, khép lại vòng tròn, không phải Richard Cheeseman đang bắn tôi, không, thực ra chính ngón tay của Crispin Hershey đặt trên cò súng khi hắn tuồn phong bì nhỏ xíu đựng cocaine vào vải lót va li trong một phòng khách sạn cách đây đã lâu rồi tôi rùng mình rồi tôi rúm ró cả người và nước mắt tôi tuôn chảy rồi tôi hối lắm tôi hối lắm rồi hắn đấy rồi tôi đây rồi tôi đấy rồi rồi rồi…

… và tôi một mình. Tôi còn sống, cái chính là tôi còn sống, khốn nạn. Mở mắt ra. Mở nào, đừng sợ. Mở ra đi.

Vẫn căn phòng cũ. Vẫn thế, nhưng không phải. Cheeseman đã đi khỏi.

Hắn đang xuống cầu thang khoa, theo bước Inigo Wilderhoff. Bên kia sảnh, qua cửa kính lớn, dọc theo lối đi, rời khỏi câu chuyện của tôi… Hắn khom người trong áo khoác khi tuyết đêm len lỏi vào cành cây, như du kích Việt cộng. Tôi săm soi bàn tay mình vô cớ, ngưỡng mộ từng cử động dưới thịt da… Nắm lấy cái tách. Chịu hơi nóng bỏng rẫy. Đưa cái tách lên, đưa lên môi và nhấp. Trà từ Darjeeling… Lá trà vị đất và ánh nắng đượm tannin nở bùng trên lưỡi tôi. Tấm tắc nhìn tấm lót chuột Đá Rosetta; rồi nhìn chỗ móng tay màu xám-hồng tuyệt đẹp trên ngón cái; rồi nghĩ đến phương cách mà hai lá phổi ta uống lấy oxy… Lắc hộp kẹo Tic Tac vị hoa quả, đổ một viên ra lòng bàn tay rồi cho vào mồm: tôi biết vị kẹo là những thứ hóa chất tổng hợp, nhưng với tôi lúc này nó là khúc tụng ca vị giác đẹp như bài “Gởi mùa thu” của Keats. Không có gì khiến ta cảm nhận vẻ đẹp của những thứ tầm thường bằng chuyện một người vừa quyết định sẽ không giết ta nữa, suy cho cùng. Tôi gom nhặt mớ linh tinh đã đánh đổ xuống sàn: ống đựng bút, một cái thìa nhựa, một cái thẻ nhớ, bộ sưu tập hình người Lego. Juno, Anaïs và tôi hay gởi cho nhau những con đấy làm quà, kiểu đùa vui. Tôi được năm con rồi: nhà du hành vũ trụ, bác sĩ phẫu thuật, ông già Noel, quỷ đầu trâu Minotaur. Còn thiếu ai nữa nhỉ? Tôi bò bằng gối, tìm con thứ năm giữa mớ dây điện thì laptop đổ chuông. Khỉ thật… tôi có hẹn Skype với Holly…

Giọng Aoife mạnh và trong phát ra từ loa. “Bác Crispin?”

“Chào Aoife. Bác nghe tiếng nhưng không nhìn thấy cháu.”

“Bác phải nhấn vào biểu tượng xanh lá, nhà văn mạng ơi.”

Tôi luôn nhầm chỗ này. Aoife hiện ra trên màn hình, đứng trong nhà bếp ở Rye. “Chào bác. Thấy bác mừng quá. Công việc ở Blithewood sao rồi?”

“Thấy cháu bác cũng mừng lắm. Việc cũng đã ngãng dần, sắp nghỉ Giáng Sinh rồi mà.” Tôi ngài ngại hỏi: “Thế bệnh nhân hôm nay ra sao?”

“Mệt lắm, nói thật. Mẹ không giữ được thức ăn trong người, lại khó ngủ. Hay đau nửa đầu. Bác sĩ vừa cho mẹ một liều thuốc ngủ…”Aoife hơi nhăn mặt “…nói vậy thật kỳ quá… thuốc chừng một tiếng trước, vậy nên mẹ nói gởi lời xin lỗi bác vì không gặp bác hôm nay được, nhưng…” Có ai đứng ngoài nói gì đó với Aoife: nó chau mày, gật đầu rồi lẩm bẩm trả lời, tôi không nghe rõ. “À bác Crispin này, bác sĩ Fenby muốn nói chuyện với cháu, nên cháu sẽ để dì Sharon tiếp bác, được không?”

“Được rồi Aoife, đương nhiên rồi. Cháu đi đi, gặp cháu sau nhé.”

“Tạm biệt bác.” Aoife đứng dậy, rời khỏi màn hình, ảnh mờ dần, rồi em gái Holly vào hình từ phía bên kia. Sharon giống Holly nhưng đậm người, đời thường hơn - như Jane Austen còn Holly là Emily Brontë, mặc dù tôi chưa bao giờ nói thế với cả hai - nhưng hôm nay Sharon trông rất mệt mỏi. “Chào người nay đây mai đó. Anh khỏe không?”

Holly mới là người bị ốm nguy kịch nhưng họ cứ hỏi thăm tôi. “Ừ, chào Sharon, tôi khỏe. Đang có tuyết, à…” Richard Cheeseman mới tạt qua định giết tôi vì dám để hắn ngồi rục xương trong nhà tù ở Colombia và Anh bốn năm rưỡi nhưng may thay hắn đổi ý. “Bác sĩ Fenby mới mà Aoife vừa kể là ai vậy? Một bác sĩ chuyên khoa nữa sao?”

“Người Canada. Học chung với Tom, bác sĩ gia đình của tụi tôi. Chuyên khoa tâm thần.”

“Ô? Tại sao chị cô lại cần chuyên gia đấy?”

“Ừm… Bác sĩ đã từng điều trị giai đoạn cuối cho bệnh nhân ung thư nhiều năm, và Tom nghĩ rằng Holly có thể phản ứng tốt với một loại thuốc mới mà bác sĩ Fenby… Iris… đã và đang thử nghiệm ở Toronto. Tôi hiểu được khi chị ấy giải thích cách đây một tiếng, nhưng nếu tôi cố lặp lại nghe sẽ rất ngớ ngẩn. Tom đánh giá cao chị ấy, nên tụi tôi nghĩ…” Sharon ngáp sái quai hàm. “Xin lỗi anh, thật không ý tứ gì cả. Tôi đang nói gì ha? À, Iris Fenby. Chuyện chỉ có vậy.”

“Cảm ơn cô đã kể lại. Trông cô như kiệt sức.”

Sharon mỉm cười. “Còn anh trông nhợt nhạt kinh hồn.”

“Tăng màu trên laptop của cô đi. Cho tôi da nâu bóng ấy. À, Sharon này, Holly không… Thứ Hai này sẽ không…”

Cô hiệu trưởng nhìn tôi ý nhị qua cặp kính nghiêm nghị. “Anh cứ để lại bộ vét đen ở bang New York.”

“Tôi có thể mang về gì không?”

“Mỗi anh được rồi. Để chừa chỗ mà mang quà cho Carmen và Gabriel. Hol không cần gì thêm đồ đạc lỉnh kỉnh gì lúc này.”

“Cô ấy có biết là Hoa dại vừa lên đầu bảng lại không?”

“Có, người đại diện gởi email sáng hôm nay. Holly nói rằng chắc chị ấy nên chết thường xuyên hơn, có lợi cho doanh số bán sách.”

“Nói cô ấy đừng dọa người ta thế. Gặp cô thứ Hai này nhé.”

“Anh đi bình an nhé, Crispin. Chúa phù hộ.”

“Khi Holly tỉnh dậy, nhắn với cô ấy tôi nói rằng… cứ nói rằng cô ấy là người tuyệt nhất.”

Sharon nhìn tôi lệch góc - chút thuộc tính kỳ quặc của Skype - rồi nói, “Tôi hứa đấy.” Như thể đang dỗ dành một đứa trẻ sợ hãi.

Cửa sổ Skype trống trơn. Bóng ma của Hershey nhìn lại tôi.

Văn phòng tôi mở cửa cho sinh viên vào hỏi bài đến bốn giờ rưỡi, và thông thường tôi rất bận, sinh viên liên tục vào, nhưng hôm nay một không khí tận thế yên tĩnh đã giải tán hết dân số ở Thung Lũng Hudson mà chẳng ai thèm báo với tôi. Tôi kiểm tra email, nhưng chỉ có hai cái mới: thư rác của một công ty chống virus, mời mua một phần mềm lọc thư rác tốt hơn, và một email vui vẻ hơn từ Carmen, báo rằng Gabby đã bắt đầu tập bò, và chị của cô ấy đã cho một chiếc giường xếp, vậy nên lần tới tôi sẽ không phải ngủ trên gối tựa để rồi đau lưng nữa. Tôi trả lời bâng quơ một câu “Cố lên Gabby!”, rồi gõ nhoáng thêm một email nữa để hủy đặt phòng khách sạn bình dân ở Bradford - hi vọng họ sẽ hoàn tiền đủ - và email thứ ba báo với Maggie rằng Richard có tạt qua thăm tôi ở Blithewood, trông hắn khỏe mạnh. Cuộc chạm trán kinh thiên động địa đó có lẽ chỉ mới ba mươi phút trước, nhưng nó thực sự đã trở thành ký ức, và ký ức là đĩa CD-RW có thể chép rồi xóa rồi chép lại, không phải là đĩa CD-R chỉ chép được một lần. Cuối cùng tôi email cho Zoë nói cảm ơn nhưng tôi đành xin khất vụ đi trượt tuyết ở nhà nghỉ của bố mẹ Marc dịp năm mới. Zoë biết tôi không biết trượt tuyết, cũng không hề muốn từ bỏ quán tính ở bất kỳ đâu - vậy tại sao tôi lại phải bẽ mặt trên đường trượt trước ông chồng mới của bà vợ cũ - một tay da ngăm như dân đảo Cayman, cơ bắp như dân tập gym? Thay vào đó tôi sẽ có thêm một buổi chiều nữa với hai đứa con gái. Bấm nút Gởi. Chỉ mới ba giờ bốn mươi lăm, mà tôi không có chỗ nào khác để đi trừ căn phòng trống trong ngôi nhà thuê chung với ba giảng viên khác. Ewan Rice có ba cái nhà, muốn ở đâu khi nào cũng được. Crispin Hershey có một phòng và dùng chung nhà bếp. Tối nay có tiệc của khoa Tiếng Anh ở một nhà hàng dưới Red Hook, nhưng mì mực đen với cá hồng sau vụ thoát chết vừa rồi có gì đó hơi… tôi không biết nữa, tôi không thể tìm từ nào để diễn tả.

Rồi tôi thấy có một sinh viên đứng ở lối vào.

“Xin chào,” Tôi lên tiếng. “Tôi giúp gì được cho cô?”

“Chào. À.” Cô này có vẻ ái nam ái nữ, choàng kín người trong áo cách nhiệt đen sẫm dài đến gối, trên vai còn vài bông tuyết chưa tan; đầu cạo trọc, mí mắt kiểu châu Á, nước da trắng bệch. Liệu một ánh nhìn có thể vừa mãnh liệt, lại vừa trống rỗng chăng? Một pho tượng trung cổ có ánh nhìn như thế, và cô ta cũng vậy. Cô ta đứng im.

“Mời vào,” tôi gọi. “Ngồi xuống đi.”

“Tôi sẽ vào.” Cô ta bước vào như thể nghi ngờ sàn nhà, rồi ngồi xuống như thể trước giờ cũng từng có vấn đề với cả bàn ghế. “Soleil Moore.”

Cô ta nói ra tên mình như thể tôi đã biết. Có lẽ tôi biết thật. “Vậy ta đã gặp nhau bao giờ chưa, cô Moore?”

“Đây là lần thứ ba ta đối mặt, ông Hershey.”

“Ra thế… vậy nhắc tôi nhớ cô học khoa nào.”

“Tôi không thích khoa phòng. Tôi là thi sĩ kiêm thị nhân.”

“Nhưng… cô là sinh viên ở Blithewood, đúng không?”

“Tôi có nộp đơn xin học bổng khi biết ông sẽ dạy ở đây, nhưng Giáo sư Wilderhoff nói rằng thơ của tôi ‘giàu ảo ảnh, mà than ôi, không phải theo nghĩa tốt’.”

“Thật là một nhận xét thẳng thắn. Nhưng này, tôi e là giờ tiếp sinh viên của tôi chỉ dành cho sinh viên đang theo học ở Blithewood.”

“Ta từng gặp ở Hay-on-Wye, ông Hershey à, hồi năm 2015.”

“Tôi xin lỗi, nhưng tôi gặp rất nhiều người ở Hay-on-Wye.”

“Tôi đã tặng ông tuyển tập đầu tay: Thực Nhục Tâm Hồn…” Nghe quen quen, nhưng mơ hồ, vừa xa xăm, vừa lạc lõng.

“…và tham dự buổi nói chuyện của ông tại Hội Sách Thượng Hải.”

Vậy mà tôi đã tưởng buổi chiều nay không có thể quái đản hơn được nữa, nhưng biết đâu tôi đã lầm. “Cô Moore này, tôi…”

“Cô S. Moore.” Cô ta nói, như thể vừa hạ một đòn chí mệnh. “Tôi để cuốn thứ hai của mình trong túi thêu treo trên nắm cửa phòng khách sạn của ông. Phòng 2929 ở khách sạn Shanghai Mandarin. Tựa đề là Cơ Hội Cuối Cùng Của Ngươi, trong đó tôi tiết lộ tất cả.”

“Tiết lộ…” tôi cảm giác có một sự yếu đuối ở cô ta “…về việc gì mới được chứ?”

“Cuộc chiến bí mật. Cuộc chiến bí mật đang diễn ra quanh ta, thậm chí là bên trong ta. Tôi thấy ông lấy Cơ Hội Cuối Cùng Của Ngươi ra khỏi túi. Trước đó ông đã ngồi một tiếng đồng hồ với Holly Sykes, ở quầy bar, chơi trò tung đồng xu. Ông nhớ mà, ông Hershey. Tôi biết là ông nhớ. Holly Sykes là bằng chứng.”

Sự thật kép: tôi có một kẻ rình mò, và cô ta điên rồ vô đối. “Bằng chứng của cái gì kia?”

“Bằng chứng là ông có trong Kịch Bản.”

“Cô đang nói kịch bản gì vậy?”

“Kịch Bản.” Cô ta có vẻ sốc. “Bài thơ đầu tiên trong Cơ Hội Cuối Cùng Của Ngươi. Ông đã đọc mà, ông Hershey. Phải vậy không?”

“Không, tôi không đọc thơ của cô, bởi vì nó cóc phải…”

“Thôi đi!” Cô ta khóc nấc lên rồi ấn ngón tay xuống tay ghế, đến khi ngón tay trắng bệch ra. Cô ta nghiêng đầu ra sau và nói với một gương mặt vô hình trên trần nhà: “Ông ta còn không đọc nữa! Khốn nạn. Khốn nạn. Khốn nạn. Khốn nạn. Khốn nạn!”

“Tiểu thư, cô phải hiểu…”

“Ông không được quyền gọi tôi là ‘tiểu thư’. Nhất là sau…” từng ngón tay Soleil Moore co duỗi, “chừng đó thời gian! Tiền bạc! Máu xương!”

“Tại sao tôi phải cố giúp xuất bản thơ của cô?”

“Bởi vì Thực Nhục Tâm Hồn giải thích về những kẻ săn mồi thượng đẳng; bởi vì Cơ Hội Cuối Cùng Của Ngươi tiết lộ cách thức của Ẩn Sĩ; bởi vì Ẩn Sĩ có một cánh cửa mở được đến bất kỳ đâu và có thể bắt cóc bất kì ai; và bởi vì chính ông, ông Hershey, ông có trong Kịch Bản.”

“Này, cô Moore… kịch bản quỉ quái gì thế?”

Mắt cô ta mấp máy, mở to hơn, như một thứ đồ chơi điên rồ: “Ông có trong đó, ông Hershey. Tôi cũng vậy. Và Holly Sykes - Ẩn Sĩ đã mang em trai của bà ấy đi. Ông biết kia mà. Ông tự viết mình vào Kịch Bản. Ông tả nó trong ‘Vấn đề Voorman’. Những gì ông viết, trong câu chuyện đó, chính là những thứ Ẩn Sĩ làm. Ông không thể phủ nhận được. Ông không thể.”

““Vấn đề Voorman”? Tôi viết truyện ấy lâu lắm rồi. Trừ nhân vật bác sĩ trong nhà tù và nước Bỉ biến mất, tôi hầu như còn chẳng nhớ gì.”

“Chẳng quan trọng gì nữa.” Soleil Moore bình tĩnh lại, hay dường như thế. “Kế hoạch A là đánh động thế giới bằng thơ. Đã thất bại. Vậy ta phải viện đến Kế hoạch B.”

“Thôi thì,” tôi muốn cô ta biến cho rồi, “chúc cô may mắn với Kế hoạch B. Giờ tôi phải trở lại làm việc và…”

“Chính ông cho tôi Kế hoạch B, ở Hay-on-Wye.”

“Cô Moore, làm ơn đừng khiến tôi phải gọi bảo vệ.”

“Vai trò của ông là khiến thế giới chú ý đến thơ của tôi. Tôi cầu nguyện, và cầu nguyện rằng ông sẽ làm điều đó, sẽ đọc và khen ngợi nó công khai, nhưng tôi không lường trước được sự hi sinh cần có. Tôi xin lỗi, ông Hershey.”

“Được rồi, tiểu thư. Nhưng làm ơn đi cho.”

Soleil Moore đứng dậy… nước mắt đầm đìa? “Tôi xin lỗi.”

Một nguồn lực siêu nhiên kéo Heryshey lùi lại, văng khỏi chiếc ghế xoay. Soleil Moore đứng cạnh chàng. Thêm năm phát nữa, quá sốc, quá gần nhau, đến nỗi không đau đớn. Má của Hershey chà xuống thảm thô ráp. Bộ xương sườn của chàng bị đấm vỡ toang. Quỷ thần khốn nạn. Bị bắn. Tôi đã bị bắn thật, ngay tại đây, ngay bây giờ. Thảm sàn uống lấy máu. Máu của tôi. Máu tuôn như suối. NHƯ SUỐI. Bảy chữ cái, bao nhiêu điểm Scrabble. Hershey có cử động được phần thân thể nào không, thưa độc giả thân mến? Không, chàng chịu thôi. Đôi ủng đi tuyết. Cách vài inch. Ủng-tuyết. Rút gọn lại. Nghe kìa. Một giọng nói. Trìu mến, yếu dần, thánh thót. Mẹ? Đừng có mà sến như Disney thế. Soleil Moore. Cô S. Moore. Miss S.Moore. À, đương nhiên rồi! Esmiss Esmoor. Cuốn sách tuyệt nhất của E.M. Forster[55]. Nhân vật hay nhất của ông ấy. “Ông nổi tiếng, ông Hershey, nên sau chuyện này người ta sẽ đọc thơ tôi. Tin tức, mạng Internet, FBI, CIA, Liên Hiệp Quốc, Vatican - đến cả Ẩn Sĩ cũng không thể che mắt thiên hạ được… Chúng ta là những kẻ tuẫn đạo, ông và tôi, trong Cuộc Chiến. Em gái tôi cũng thế. Họ lừa em ấy đi xa, ông hiểu không. Em ấy kể với tôi về họ, nhưng tôi cứ tưởng em ấy bị ốm. Tôi không bao giờ tha thứ cho mình. Nhưng tôi có thể thức tỉnh thế giới, thức tỉnh thế giới khỏi sự ngu muội. Một sự ngu muội chết người. Một khi loài người biết rằng chúng ta chính là nguồn thức ăn của Ẩn Sĩ - là trang trại cá hồi của bọn họ - khi đó, ta có thể kháng cự. Cùng nổi dậy. Truy đuổi chúng đến cùng.” Miệng của Soleil Moore tiếp tục cử động, nhưng âm thanh đã biến mất. Hiện thực đang teo lại. Nó đã ở trên biên giới Canada; giờ đây dừng ở Albany; rồi nhỏ hơn cả khuôn viên trường Blithewood. Cánh rừng ngập tuyết, thư viện, tầng hầm, căn-tin dở tệ, đều biến mất, đều bị dụi tắt. Chết dưới tay một kẻ động rồ. Ai mà nghĩ được? Chết dưới tay một kẻ động rồ. Ai mà nghĩ được? Thảm chấm bi. Không phải chấm bi. Xoắn ốc. Chừng đó tuần. Bước trên xoắn ốc. Nhìn này. Trong khe nứt. Tủ hồ sơ và ván chân tường. Nhện. Đã khô cả. Tan tác. Chỗ ống máy hút bụi không với tới. Con nhện, xoắn ốc,…gì nữa? Hình người Lego thứ năm. Chỉ cách vài inch. Nằm nghiêng. Như tôi. Nhìn kia.

Một tên cướp biển. Hay thật.

Một miếng vải che mắt.

Gã chột mắt

Thằng người Lego

đúng rồi

cướp biển.

Holly

nói

cho

cô ấy