Mê Lộ Của Một Trắc Sĩ 2025-1 Tháng Tư
Ngôi nhà cũ của tôi trông ma mị trên nền sáng loang lổ của Toronto về đêm. Sao trời như những con đom đóm bị nhốt trong cũi đan bằng những cành khô. Tôi lệnh cho xe, “Tắt đèn trước, tắt radio,” bản From Me Flows What You Call Time của Toru Takemitsu dừng giữa câu. 23:11, theo như đồng hồ trên xe. Tôi thấy lòng nặng trĩu, đến không muốn trở mình trên ghế. Chúng tôi là dị nhân sao? Hay đã tiến hóa thành như thế? Hay vốn dĩ được thiết kế như vậy? Mà ai thiết kế? Tại sao kẻ thiết kế lại phải nhọc công rồi bỏ đi, để chúng tôi lại tự hỏi mình tồn tại để làm gì? Để mua vui? Một thứ ác tâm? Một trò đùa? Để bị phán xét? “Nhưng rốt cuộc thì để làm gì mới được chứ?” Tôi hỏi chiếc xe, màn đêm, Canada. Xương cốt, thân xác và linh hồn tôi rã rời, cạn kiệt. Tôi thức dậy trước năm giờ sáng nay để đáp chuyến bay sáu giờ năm mươi lăm phút đến Vancouver. Khi đến Bệnh viện Tâm thần Coupland Heights tôi không gặp một bệnh nhân có biểu hiện Hội chứng Phức cảm Cứu thế và khả năng tiền thức mạnh mẽ nào cả; thay vào đó là một bầy phóng viên bao vây lối vào. Bên trong, bác sĩ Adnan Buyoya - học trò cũ và đồng nghiệp của tôi đang phải chịu đựng ngày tồi tệ nhất trong sự nghiệp. Tôi dự buổi gặp mặt vợ, anh vợ và luật sư của Oscar Gomez cùng với ba quản lý cấp cao của bệnh viện. Đại diện của công ty bảo vệ tư nhân chịu trách nhiệm an ninh cho bệnh viện đã “vắng mặt vì lý do bất khả kháng”, nhưng luật sư công ty ngồi đó ghi chép đầy đủ. Gương mặt bà Gomez giàn giụa nước mắt. Chị ta hết đau khổ đến tức giận: “Có cả camera bên ngoài nhà chúng tôi! Bọn trẻ thấy bố trên YouTube nhưng không biết anh ấy được bà nhập hay là tội phạm hay là một kẻ điên loạn hay… hay… Chúng tôi không dám bật TV, không dám lên mạng, nhưng cũng không thể làm khác được. Anh ấy ở đâu rồi? Các người là bệnh viện an ninh cao kia mà - trên biển hiệu có ghi như vậy còn gì! Làm sao Oscar có thể bốc hơi như thế?”
Adnan Buyoya là một bác sĩ tâm thần trẻ có tài, nhưng cậu ấy chỉ có thể nói rằng mình vẫn không biết làm thế nào ông Gomez có thế trốn ra khỏi một căn phòng có khóa, qua mắt được nhân viên bệnh viện và không hề bị camera an ninh quay lại, hẳn camera đã hỏng. Trước đó, y tá nam trực đêm qua có nói với Adnan rằng ông Gomez cứ khăng khăng Thánh Mark sẽ mang Chiếc Thang Jacob xuống trong đêm, đưa mình lên Thiên Đàng để bàn chuyện gầy dựng Nước Thiên Chúa trên Trái Đất - nhưng đương nhiên y tá không nghĩ đó lại là lời cảnh báo. Quản lý bệnh viên cam đoan với bà Gomez rằng ưu tiên hàng đầu là tìm ra chồng bà, đồng thời hứa sẽ điều tra đến nơi đến chốn về sai sót an ninh này. Adnan nhận xét rằng với 750.000 lượt xem trên YouTube- mà có lẽ đã bây giờ đã hàng triệu, chuyện tìm được “Thị Nhân phố Washington” chỉ là vấn đề thời gian. Tôi không nói gì cho đến khi được đề nghị dự đoán nước đi tiếp theo của ông Gomez. Tôi nói rằng đa số các ca Phức Cảm Cứu Thế đều nhanh khỏi, nhưng với bệnh sử ít ỏi của ông Gomez, tôi không có đủ dữ liệu để dựa vào đó mà đoán. “Hay quá nhỉ,” anh của bà Gomez lẩm bẩm, “lại một chuyên gia cóc nói được cái vẹo gì.”
Thực tế là tôi đã có thể nói được tất tần tật “cái vẹo gì” cho anh của bà Gomez nghe, nhưng có những sự thật không thể nào chấp nhận được trong mắt người tỉnh táo. Dù sao, bà Gomez cũng sẽ không tin rằng giờ đây mình đã góa bụa, rằng con cái mình đến khi chết vẫn không biết điều gì đã xảy ra với cha mình vào ngày 1 tháng Tư năm 2025. Sau cuộc họp, tất cả những gì tôi có thể làm được là buộc Adnan ngừng xin lỗi vì đã khiến tôi vượt ba múi giờ Canada để gặp một bệnh nhân đã bỏ trốn vài giờ trước khi tôi đến. Tôi chúc học trò cũ kiêm đồng nghiệp may mắn và rời khỏi Bệnh viện Coupland qua khu nhà bếp. Phải mất một lúc sau tôi mới tìm được chiếc xe thuê trong bãi đỗ xe ngút ngàn giữa trời mưa. Khi tìm được xe, tôi lại gặp thêm chuyện lạ trong ngày, mà không hề dễ chịu.
Một tiếng cú kêu. Đi thôi. Tôi không thể ngồi đây suốt đêm được.
Bưu kiện cỡ hộp giày được Sadaqat chuyển tiếp đang chờ sẵn trên bàn bếp, nhưng cả ngày vẫn chưa ăn gì, vậy là tôi để nó qua một bên, rồi cho vào lò vi sóng một phần cà tím nhồi do bà Tavistock, người giúp việc hàng tuần chuẩn bị sẵn. Tôi vặn nhiệt lớn. Tuyết đã tan hết nhưng vẫn chưa có cảm giác mùa xuân. Tôi chiêu ly rioja cùng bữa tối, rồi đọc một bài trên Tạp chí Tâm thần học Hàn Quốc. Đến khi đó tôi mới nhớ ra hộp bưu kiện. Người gởi có tên là Åge Næss-Ødegård từ một trường khiếm thính ở Trondheim, Na Uy, đất nước mà tôi chưa từng ghé thăm kể từ khi tôi là Klara Koskov. Tôi đem bưu kiện vào thư phòng, kiểm trả bằng máy rà chất nổ cầm tay. Đèn LED vẫn giữ màu xanh, tôi tháo hai lớp giấy nâu bọc ngoài. Bên trong là một hộp bìa cứng vững chắc, rồi đến bao bì bọt khí quấn quanh hộp thứ hai bằng gỗ gụ. Tôi nhấc nắp hộp có bản lề lên, thấy túi ni lông có khóa miệng chứa một máy Sony Walkman, kiểu dáng mập mạp thời những năm 1980. Nhét chung vào đó là một bộ tai nghe bằng kim loại, nhựa và đệm mút. Máy Walkman chứa sẵn một cuộn băng cassette C30 BASF, một nhãn hiệu tôi gần như không còn nhớ đến. Sau khi dùng máy rà chất nổ kiểm tra máy Walkman, tôi đọc bức thư ba trang đặt kèm trong hộp gỗ gụ:
Øvre Fjellberg Skole for Døve
Gransveien 13, 7032 TRONDHEIM
Norge/Norway
15 Tháng Ba năm 2025
“Marinus” thân mến,
Đầu tiên, tôi xin ông/bà thứ lỗi. Tôi không biết danh xưng của “Marinus” là Ông, Bà, hay Bác sĩ, tôi cũng không biết họ tên đầy đủ của ông/bà. Cũng xin ông/bà thứ lỗi cho thứ tiếng Anh tồi của tôi. Tên tôi là Åge Næss-Ødegård. Có lẽ Bà Esther Little đã nói tên tôi với ông/bà, nhưng trong thư này, tôi cứ giả định là bà ấy chưa nói. Tôi là một người đàn ông Na Uy bảy mươi tư tuổi, sống ở Trondheim, một thành phố nước Na Uy quê tôi. Trong trường hợp ông/bà không biết tại sao một người lạ lại gởi cho mình một cái máy thu âm cũ kỹ, thì câu chuyện là thế này.
Cha tôi lập ra Trường Øvre Fjellberg năm 1932, bởi vì Martin em trai ông ấy khiếm thính bẩm sinh, thời đó thái độ của người ta với bệnh này vẫn còn lạc hậu lắm. Tôi sinh năm 1950, biết dùng ngôn ngữ ký hiệu (đương nhiên là bằng tiếng Na Uy) thành thạo trước khi lên mười. Mẹ tôi quản lý văn phòng của Trường Øvre Fjellberg còn chú Martin coi sân bãi, nên có lẽ ông/bà cũng hình dung được rằng ngôi trường và các em học sinh là cuộc sống của gia đình tôi. Tôi tốt nghiệp Đại học Oslo năm 1975 với tấm bằng sư phạm và trở lại Trondheim dạy tại Øvre Fjellberg. Tôi thành lập Khoa Âm Nhạc và Kịch Nghệ ở đây, bởi vì tôi cũng rất yêu đàn vĩ cầm. Nhiều người bình thường không hề biết rằng người khiếm thính cũng có thể thưởng thức âm nhạc theo nhiều cách khác nhau, vậy là trường chúng tôi có thông lệ hợp tác với dàn nhạc nghiệp dư ở địa phương để tổ chức một chương trình hòa nhạc mùa xuân cho khán giả cả khiếm thính lẫn không khiếm thính. Múa bằng ngôn ngữ ký hiệu, loa khuếch đại, hình ảnh và nhiều thứ khác được sử dụng. Năm 1984, khi câu chuyện này xảy ra, tôi chọn “The Swan of Tuenola” của Jean Sibelius cho chương trình biểu diễn thường niên. Bản đó rất đẹp. Có lẽ ông/bà cũng biết?
Trở lại câu chuyện năm 1984, khi ấy chúng tôi có một đám mây đen kéo về trên đất mình (trong tiếng Anh ông/bà có nói vậy không?) Nghĩa là, tình hình tài chính của trường rất nghiêm trọng. Øvre Fjellberg là một tổ chức từ thiện nhưng chúng tôi cần một khoản trợ cấp lớn từ Oslo để trả tiền lương và các chi phí. Tôi sẽ không làm ông/bà chán với chuyện chính trị cũ, nhưng chính phủ lúc đó cắt nguồn trợ cấp này, để buộc học sinh chuyển sang một trường khác, cách hai giờ đi xe. Chúng tôi phản đối quyết định đó, nhưng không có sự độc lập tài chính hay thế lực chính trị, ngôi trường yêu quý của chúng tôi sẽ bị đóng cửa, sau nửa thế kỷ hoạt động xuất sắc. Với gia đình chúng tôi, đây quả là bi kịch.
Tuy nhiên, một ngày tháng Sáu năm 1984, tôi tiếp một người khách đến văn phòng. Bà ấy chừng năm mươi mấy tuổi. Bà ấy có tóc ngắn, bạc, ăn vận như đàn ông, một gương mặt ẩn chứa nhiều câu chuyện. Bà ấy xin lỗi đã quấy rầy tôi bằng thứ tiếng Na Uy của người nước ngoài, rồi hỏi chúng tôi liệu có thể nói tiếng Anh được không. Tôi đồng ý. Bà ấy nói tên mình là Esther Little. Esther Little có dự hòa nhạc vừa rồi của học sinh chúng tôi và rất thích thú. Bà ấy cũng có nghe nói về tình hình tài chính khó khăn của nhà trường, và mong muốn được giúp đỡ, nếu có thể. Tôi nói, “Nếu bà có gậy thần, thì làm ơn giúp chúng tôi, tôi nghe đây.” Esther Little rút ra một cái hộp gỗ đặt lên bàn tôi. Đây là cái hộp gỗ gụ mà tôi gởi ông/bà. Bên trong có một máy cassette cầm tay và một cuộn băng. Rồi Esther Little giải thích giao ước này. Nếu tôi chịu giữ những món đấy trong vài năm, rồi gởi cho “Marinus” bạn của bà ấy ở một địa chỉ ở New York, thì bà ấy sẽ nói với luật sư riêng ở Oslo chuyển một khoản tiền lớn tặng trường chúng tôi.
Tôi có nên đồng ý không? Esther Little đọc được suy nghĩ của tôi. Bà ấy nói, “Không, tôi không phải là trùm ma túy, hay khủng bố, hay gián điệp gì. Tôi chỉ là một người làm từ thiện có phần lập dị đến từ Tây Australia. Cuộn băng cassette chứa thông điệp cho một người bạn, Marinus - người sẽ cần nghe nó ở một thời điểm thích hợp.” Hôm nay khi viết thư này, tôi không biết tại sao lúc đó mình lại tin bà ấy, nhưng thi thoảng trong đời ta vẫn gặp người mà ta tự dưng thấy tin tưởng. Như một kiểu bản năng vậy. Tôi tin Esther Little. Luật sư của bà ấy ở Oslo là một công ty uy tín, thủ cựu, có lẽ điều đó đã ảnh hưởng quyết định của tôi. Tôi hỏi, vậy thì tại sao bà ấy không trả tiền cho luật sư ở Oslo để gởi bưu kiện đến New York vào một ngày nhất định trong tương lai? Esther Little đáp, “Luật sư đến rồi đi. Ngay cả những luật sư kín tiếng nhất cũng lộ liễu, và họ đều làm việc vì tiền. Còn ông là một người trung thực sống ở một góc yên tĩnh của thế giới, và ông sẽ sống lâu.” Cuối cùng, bà ấy viết ra số tiền muốn tặng. Tôi chắc rằng mặt tôi tái như ma khi nhìn thấy con số trên tờ giấy! Trường chúng tôi sẽ được an toàn thêm năm năm nữa, ít nhất là thế. Esther Little nói, “Cứ nói với hội đồng quản trị rằng số tiền là do một người giàu kín tiếng chuyên làm từ thiện tặng trường, người này tin tưởng vào sự nghiệp của Trường Øvre Fjellberg. Đấy là sự thật.” Cái hộp và giao ước này sẽ là bí mật nho nhỏ giữa chúng tôi, tôi cũng hiểu ngầm như thế.
Chúng tôi bắt tay. Đương nhiên, câu hỏi cuối cùng của tôi là, “Khi nào thì tôi gởi cái hộp cho ‘Marinus’ ở Manhattan?” Esther Little lấy ra tượng Sibelius bằng sứ từ trong hộp, đặt nó lên một ngăn cao trên kệ sách rồi nói thế này: vào đúng ngày Sibelius vỡ thành nhiều mảnh, tôi phải gởi hộp gỗ đi. Tôi cứ nghĩ là mình không hiểu tiếng Anh của bà ấy, vậy là tôi cẩn thận hỏi lại. Nếu bức tượng bị vỡ ngay tuần sau đó, tôi phải gởi cái hộp ngay tuần sau đó. Nếu nó bị vỡ vào năm 2000, tôi phải gởi nó vào năm 2000. Nếu tôi chết trước khi bức tượng bị vỡ, thì tôi sẽ không bao giờ gởi. Vâng, giao ước là như thế, Esther Little nói. “Như tôi đã nói, tôi vốn lập dị.” Chúng tôi tạm biệt và thực lòng mà nói, khi bà ấy đi khỏi tôi tự hỏi phải chăng mình vừa nằm mơ. Nhưng ngày hôm sau, luật sư từ Oslo gọi điện để hỏi số tài khoản ngân hàng của chúng tôi, và mỗi krone mà Esther Little đã hứa đều được chuyển đến. Øvre Fjellberg đã được an toàn. Ba hay bốn năm sau đó, đường lối của chính phủ thay đổi đáng kể và trường chúng tôi được đầu tư nhiều, nhưng chắc chắn là, bà Esther Little đã cứu vớt chúng tôi ở thời điểm xấu nhất. Năm 2004, tôi trở thành hiệu trưởng, tôi về hưu cách đây vài năm, nhưng tôi vẫn là thành viên hội đồng quản trị trường, và đến hôm nay, tôi vẫn dùng văn phòng cũ như một thư phòng. Chừng đó năm, Jean Sibelius ngắm văn phòng của tôi, như một người biết được bí mật.
Đến đây, ông/bà có thể đoán được kết cục. Ngày hôm qua là ngày rét dịu đầu tiên trong mùa xuân. Cũng như nhiều người ở Na Uy, tôi mở cửa sổ để làm thoáng khí trong văn phòng. Học sinh đang chơi trên sân tennis bên dưới cửa sổ phòng tôi. Tôi rời khỏi phòng để đi pha cà phê sáng. Tôi nghe có tiếng động. Khi tôi trở lại, Jean Sibelius đã ở trên sàn nhà. Ngực và đầu tượng vỡ thành nhiều mảnh nhỏ. Gần đó có một quả bóng tennis. Khả năng 1 phần 1.000, nhưng đã xảy đến. Vậy là tôi gởi cái hộp, như đã hứa, cùng với câu chuyện kỳ lạ này. Tôi hi vọng là thông điệp trên băng cassette vẫn còn rõ sau bốn mươi năm, nhưng tôi chưa bao giờ nghe thử. Nếu bà Little vẫn còn trên đời này (nếu thế chắc hẳn bà ấy đã trên 100 tuổi), phiền ông/bà gởi lời cảm ơn và lời thăm hỏi từ một người trung thực ở một góc yên tĩnh trên thế giới, mà thực sự đã sống rất lâu như bà ấy từng nói.
Kính thư,
Åge Næss-Ødegård
Tim tôi như đang chạy nước rút mà mải không thấy đích đến. Một trò lừa? Tôi rút máy bảng ra, shirabu “Øvre Fjellberg Skole for Døve”: nó đây rồi. Một trang web giả mạo? Cũng có thể, nhưng cái tượng Sibelius và miền quê Na Uy nghe rất là “Esther Little”. Nếu chị đã cài chỉ dấu từ này hồi tháng Sáu năm 1984, hẳn đây là một nước đi phản ứng lại sau khi chớp thị được Kịch Bản. Nếu Sứ Mệnh Thứ Nhất được lên Kịch Bản, thì biết đâu, biết đâu, nó không phải là một thất bại nghiệt ngã như chúng tôi nghĩ trong bốn mươi năm qua. Nhưng làm sao cái chết của Xi Lo, Holokai và Esther Little lại có thể là một phần của một kế hoạch lớn hơn được? Thật may tôi còn vài viên pin AA trong hộc bàn - loại pin này cũng gần tuyệt chủng - tôi lắp pin vào máy Walkman. Liệu pin còn dùng được không? Tôi cắm tai nghe, chần chừ rồi bấm nút play. Trục băng bắt đầu quay. Một vài giây im lặng đầu băng, rồi băng từ rít lên, rồi có tiếng cộp khi bắt đầu ghi âm. Tôi nghe có tiếng xe máy xa xa, và một giọng nói quen thuộc, khàn khàn, thô mộc, khiến tôi thấy nghẹt thở, tim tôi nhức nhối nhớ một người bạn đã mất từ lâu.
“Marinus, đây là Esther, vào ngày… 7 tháng Sáu năm 1984. Trước khi chúng ta tập hợp ở Gravesend, ta đã kịp làm một chuyến nho nhỏ đến Trondheim. Thành phố cũng hay. Không nhộp nhịp gì. Rất là ‘trắng’ - một người lái taxi vừa hỏi ta đến từ vùng nào ở châu Phi.” Tôi nghe tiếng chị vừa khẽ cười khanh khách, vừa châm thuốc lá. “Nhưng nghe này, ta đã chớp thị Kịch Bản, Marinus à, về Sứ Mệnh Thứ Nhất. Sơ sài và mơ hồ, thì thế rồi, nhưng ta thấy lửa… tháo chạy… và cái chết. Chết trong Bụi Tối, và chết trong một căn phòng đầy nắng. Nếu Kịch Bản chính xác, ta sẽ sống sót, theo một kiểu nào đó, nhưng ta cần một nơi trú ẩn. Ta cần một chốn nương thân. Phải là chỗ kín đáo, khóa chặt, để khi Ẩn Sĩ đến tìm ta, mà Constantin nhất định sẽ đến, chúng sẽ không thấy được. Cũng có nghĩa rằng ta cần ngươi mang ra ra trở lại. Ta sẽ phải tìm cách đưa chìa khóa cho ngươi.” Tôi nghe tiếng thủy tinh va chạm, đoán hẳn Esther đang di chuyển một cái gạt tàn trên bàn. “Kịch Bản cho ta thấy những ngôi mộ giữa cây cối, và cái tên này: ‘Blithewood’. Hãy tìm nó, đi đến đó, càng sớm càng tốt. Ngươi sẽ gặp một người quen. Người đó đã cho ta nương náu. Có nhiều ổ khóa, nhưng ta đã gởi cho ngươi một mật hiệu để ngươi biết ổ khóa nào là vừa với chìa. Tìm khóa ấy, Marinus. Mở nó ra. Đem ta từ cõi chết trở về.” Tôi nghe văng vẳng tiếng chuông của một xe bán kem trong mùa hè Na Uy ấy. “Ngươi đang nghe đoạn băng này, có nghĩa là sự đã khởi. Một kẻ thù sẽ ngỏ lời, sớm thôi. Giấu kỹ mật hiệu này. Giấu kỹ cái hộp này. Lúc này, y đã đến gần ngươi. Kịch Bản không nói liệu ngươi có thể tin y không. Lời của y sẽ là hạt mầm của Sứ Mệnh Thứ Hai. Giờ đây mọi thứ sẽ chuyển biến nhanh. Trong bảy ngày nữa, Chiến Tranh sẽ chấm dứt, theo cách này hay cách khác. Nếu suôn sẻ cả, ta sẽ gặp nhau trước đó. Vậy thì, gặp sau nhé, nhé.” Cộp.
Đoạn ghi âm chấm dứt, cuộc băng rít lên, tôi bấm nút stop. Tôi choáng váng, trong đầu tôi đầy những phỏng đoán, ngờ vực và nghi vấn. Chúng tôi vẫn tưởng rằng linh hồn của Esther đã ngã quỵ vì thương tổn sau khi giết Joseph Rhîmes và xóa ký ức của Holly Sykes. Làm sao có thể giải thích việc Esther không hề liên lạc gì từ năm 1984? Cuốn băng cassette này lại cho thấy một khả năng khác, thật kịch tính. Rằng sau Sứ Mệnh Thứ Nhất, linh hồn của Esther trọng thương đến độ nguy kịch, nhưng không hẳn là chí tử. Rồi chị tìm chỗ náu sâu bên trong một lưu thể nào đó, kín kẽ đến nỗi không tay săn nào của U Minh Phái lần theo Phản Kịch Bản có thể tìm diệt. Rằng bằng cách gởi trước cho tôi các chìa khóa và mật hiệu, tôi có thể tìm ra và giải thoát linh hồn rệu rã của chị ấy từ nơi trú ẩn, sau bốn mươi năm. Hi vọng này thật non yểu, đến độ èo uột. Tri giác thường tan biến chỉ sau một vài giờ trong thị sai ký ức của một người khác. Sau quá nhiều năm ở dạng vô thể, liệu linh hồn của Esther còn nhớ nổi tên mình không?
Tôi quan sát gương mặt Iris Fenby phản chiếu trên ô cửa sổ như đóng khung rừng Kleinburg. Đôi môi hơi dày, mũi hơi phẳng, tóc xoăn ngắn, hơi ngả bạc tuổi trung niên. Cánh rừng này là những gì còn lại của rừng rậm xa xưa từng bao phủ Ontario trong gần hết Kỷ Holocene. Cây cối xem như đã bại trận trong cuộc chiến với quy hoạch chia nhỏ, nông lâm nghiệp, xa lộ sáu làn xe và các sân golf. Liệu Esther Little còn sống chăng? Tôi không biết. Tôi không biết được. Esther có thể gọi được Khê Môn, vậy tại sao lại không náu mình vào một Trắc Sĩ khác? Bởi vì làm vậy thì quá dễ đoán, có lẽ thế. Còn phần cuối trong thông điệp của Esther thì sao? “Một kẻ thù sẽ ngỏ lời, sớm thôi”? “Lúc này, y đã đến gần ngươi”? Giờ đã là nửa đêm, tôi đang ở trong căn nhà kiên cố chống đạn, được che chắn ở vùng quê yên tĩnh rìa tây bắc Toronto, bốn mươi mốt năm kể từ ngày Esther nói những lời lưu lại trên cuốn băng. Ngay cả với một Trắc Sĩ có khả năng tiền thức, cũng thật khó tin rằng chị đã có thể thấy trước chính xác…
Máy tay đặt trên giá đèn đổ chuông. Trước khi trả lời, một linh cảm khiến tôi giấu bưu kiện từ Na Uy sau mấy cuốn sách. Máy tay không nhận diện được người gọi. Đã trễ. Có nên trả lời không? “A lô?”
“Marinus,” một giọng nam. “Elijah D’Arnoq đây.”
Tôi thấy sốc, nhưng sau khi được Hugo Lamb ghé thăm ở Vancouver, tôi chẳng có lý do gì để sốc. “Thật là… bất ngờ.”
Im lặng chết chóc. “Tôi đã hình dung cô sẽ thấy thế. Tôi cũng cảm thấy vậy.”
“‘Hình dung’? ‘Cảm thấy’? Anh tự tôn quá đấy.”
“Vâng.” Giọng D’Arnoq có vẻ ngẫm ngợi. “Có lẽ tôi tự tôn thật.”
Hạ người xuống, tôi rút phích đèn bàn từ trên tường, để ở ngoài nhìn vào không thể thấy. “Tôi không muốn thất lễ, D’Arnoq, nhưng anh cứ đi thẳng luôn đến đoạn hả hê về Oscar Gomez, để tôi còn cúp máy? Trễ rồi, mà như anh biết, ngày hôm nay của tôi đã quá dài.”
Một sự im lặng bất an, đầy ẩn ý. “Tôi muốn dừng lại.”
“Dừng gì kia? Cuộc gọi này à? Được thôi. Tạm biệt…”
“Không, Marinus - tôi muốn đào ngũ.”
Tôi dò lại câu cuối cùng để chắc mình đã nghe đúng.
D’Arnog lặp lại, như một đứa trẻ hờn dỗi. “Tôi muốn đào ngũ.”
“Rồi tôi nói, ‘Thật sao?’ và anh sẽ nói, ‘Cứ mơ đi.’ Lần cuối cùng tôi học trung học, người ta hay đùa kiểu này.”
“Tôi không thể… không thể chịu đựng thêm một lần thanh linh nào nữa. Tôi muốn đào ngũ.”
Giọng điệu của tay Ẩn Sĩ này còn kỳ lạ hơn lời nói của hắn, vẻ huênh hoang thường thấy đã bị lột bỏ. Nhưng tôi vẫn cách một năm ánh sáng nữa mới đến chỗ tin hắn. “Thì, D’Arnoq,” tôi nói, “bây giờ anh đã au fait với nghệ thuật cảm thấy và hình dung, thử làm thế này nhé: nếu anh ở đầu máy của tôi, anh sẽ phản ứng thế nào trước màn ăn năn của một Ẩn Sĩ bậc cao?”
“Tôi sẽ vô cùng nghi ngờ. Tôi sẽ hỏi, ‘Tại sao lại là bây giờ?’”
“Đúng là một ý hay để bắt đầu. Tại sao lại là bây giờ?”
“Không phải là bây giờ. Mà là… một cảm giác ghê tởm lớn dần qua… hai mươi năm rồi. Nhưng tôi không thể lờ đi được nữa. Tôi… tôi… Cô nghe đây, năm ngoái, Rivas-Godoy, Ẩn Sĩ Thứ Mười tìm được một đứa trẻ năm tuổi từ Paraisópolis, một favela[56] ở São Paulo. Nó tên là Enzo. Enzo không có cha, bị bắt nạt, không có bạn bè, mắt chakra của nó rất mạnh, và Rivas-Godoy trở thành anh lớn của nó… Một ca săn mồi điển hình. Tôi nhập linh - kiểm tra thằng bé, Enzo thuần khiết, không có dấu hiệu của Trắc Thời Phái. Vậy là tôi duyệt, rồi đến Ngày Tái Sinh khi Rivas-Godoy dẫn Enzo vào Nhà Nguyện…” Đã năm lần tôi suýt mỉa mai cắt ngang lời hắn. “… để gặp Ông già Noel.” Trong giọng D’Arnoq có cái chau mày.
“Đàn ông da trắng. Chừng sáu mươi tuổi. Không có thật.”
“Ừm. Enzo bị bạn trêu chọc vì nó nói rằng Ông già Noel có thể là người thật. Vậy là Rivas-Godoy hứa sẽ dẫn Enzo đến Lapland. Thạch Đạo trở thành lối tắt đến Bắc Cực, Nhà Nguyện là phòng ăn của Ông già Noel, và quang cảnh Bụi Tối là… là xứ Lapland. Enzo chưa bao giờ ra khỏi favela, vậy nên…” D’Arnoq trút tiếng thở dài qua kẽ răng “…thằng bé không biết gì hơn. Rivas-Godoy nói rằng tôi là bác sĩ thú y, phòng khi tuần lộc bị ốm. Enzo thốt lên, ‘Tuyệt.’ Rồi Rivas-Godoy nói với Enzo, ‘Đi gặp ông già Noel nhé, Enzo, trong bức tranh ấy. Bức tranh có phép, biết nói đấy, chào ông ấy đi.’ Phút cuối cùng trong đời Enzo là phút hạnh phúc nhất, có lẽ thế. Nhưng sau đó, trong Ngày Chí Tái Sinh, khi chúng tôi uống Hắc Tửu, khi Rivas-Godoy cười nhạo thằng bé Brazil ngu ngốc …Tôi gần như không thể uống cạn.”
“Nhưng rồi anh cũng cố uống cho bằng hết, đương nhiên.”
“Tôi là một Ẩn Sĩ bậc cao! Tôi có lựa chọn nào khác?”
“Bước ra khỏi Khê Môn ngay đoạn giữa Vực Mariana? Làm thế anh sẽ hết thấy tội lỗi, lại góp sức nuôi lớp động vật thủy sinh ngay tại đó và tiện thể tha cho tôi màn nước mắt cá sấu ôi sao mà lâm li.”
Những lời thì thầm của D’Arnoq đứt quãng. “Thanh linh phải bị chấm dứt.”
“Enzo cậu bé người São Paulo hẳn phải xinh lắm. Nhân tiện, hẳn anh cũng biết, tôi không chắc máy này an toàn…”
“Tôi là hacker đầu đàn của Ẩn Sĩ, không ai có thể nghe được chúng ta. Đâu chỉ Enzo. Hay Oscar Gomez, ngay hôm nay. Mà là tất cả. Từ ngày Pfenninger kể với tôi về Thầy Cathar Mù, và những gì ông ấy gầy dựng được, và chúng làm được gì, tôi đã dự phần vào… Được rồi, nếu cô muốn tôi dùng từ ‘cái ác’, tôi sẽ dùng nó. Tôi tự gây tê chính mình khi làm việc đó, đương nhiên rồi. Tôi nuốt lấy những lời dối trá. Tôi tiêu hóa cả cái luận điệu ‘Bốn trong số tám tỉ mỗi năm thì có là bao?’… Nhưng tôi đã chán ngán lắm rồi. Ngán đi săn, ngán chăn dắt, ngán giết chóc, ngán tàn sát. Ngán cái ác. Trắc Thời Phái đã đúng. Đã luôn đúng.”
“Và khi vẻ điển trai trẻ trung của anh không còn nữa thì sao hả D’Arnoq?”
“Thì tôi sẽ thực sống lần nữa, và không phải… như bây giờ.” Có gì đó khiến sàn gỗ ngoài sân kêu kẽo kẹt.
Tôi đang bị gài bẫy chăng? Tôi nhìn ra: một con gấu mèo.
“Vậy anh có chia sẻ quan điểm mới với ông Pfenninger không?”
“Nếu cô cứ ngồi đó mà giễu tôi, Marinus, tôi sẽ cúp máy. Phản Giáo là tội chết theo Phái Luật U Minh Phái. Một sự thật mà đáng ra cô nên tận dụng - cơ hội sống sót duy nhất của tôi là giúp cô hủy diệt kẻ thù trước khi họ giết tôi.”
Elijah D’Arnoq đáng ghét, toàn nói đúng, nhưng tôi phải hỏi: “Vậy cụ thể là, anh gợi ý chúng tôi nên làm thế nào để tiêu diệt kẻ thù?”
“Bằng cách tâm-công phá Nhà Nguyện Bụi Tối.”
“Chúng tôi đã thử cách đó rồi. Hẳn anh cũng biết kết cục như thế nào.” Mặc dù chính tôi cũng không chắc nữa, sau vụ bưu kiện từ Na Uy tối nay.
“Trắc Thời Phái thất bại, nhưng trong Cuộc Đột Nhập Đầu Tiên, các người không biết mình đang phải đối mặt với những gì. Đúng không?”
“Vậy anh sẽ khai sáng cho chúng tôi chứ?”
D’Arnoq im lặng một hồi lâu, rất lâu. “Vâng, tôi sẽ làm thế.”
Tôi nghĩ vụ đào ngũ của Elijah D’Arnoq có chừng năm phần trăm là sự thật, nhưng Esther Little đã chớp thị, và nếu tôi không nhầm chị ấy muốn tôi đối xử với D’Arnoq như một đồng minh; hoặc ít nhất để hắn nghĩ rằng tôi tin hắn. “Tôi nghe đây.”
“Không. Ta phải gặp trực tiếp, Marinus.”
Chỉ còn một phần trăm. Hắn sẽ đề nghị gặp trong một cái bẫy người, miệng bẫy sẽ đóng sập lại. “Vậy anh muốn gặp ở đâu?” Con gấu mèo quay bộ mặt như Zorro về phía tôi.
“Đừng làm trò Dòng Sâu với tôi, nhưng tôi đang ngồi trong xe cô, ngay trên lối đi. Đang lạnh cóng cả bi. Cô đốt sẵn lò, nhé?”