- 4 -
Má tôi nằm trên võng, ở buồng trong, sợ gió, sợ cả ánh sáng. Chiếc võng bố đã thay biết bao nhiêu lần, nhưng cái giá võng vẫn nằm đó và cũng trên chiếc võng, má tôi đã ru cho cả một đàn con. Tôi thuộc lòng những lời ru của má. (Sau này, những năm đi xa, giọng ru của má gợi lên trong tôi cảnh sông nước của quê nhà).
Tàu Nam Vang chạy qua cồn cát
Xuồng câu tôm hớt sát mé nga
Anh thấy em có một mẹ già
Muốn vô hoạn dưỡng biết mà đặng không?
... Ngó lên Nam Vang thấy cây nằm nước
Ngó xuống Thường Phước sóng bủa lao xao
Anh thương em ruột thắt gan bào
Biết em có thương lại chút nào hay không?
Và một câu gợi cho tôi cảnh nhà:
Tàu xúp lê(1) một còn mong còn đợi
Tàu xúp lê hai còn đợi còn chờ
Tàu xúp lê ba tàu ra biển Bắc
Bớ chú tài công, cho em mượn cái khăn bàn lông cho em chặm mặt ờ...
Cha tôi trốn lên Nam Vang làm ăn, ở tiệm vàng “Trái tim đỏ” năm tôi mới lên năm, lên sáu, là năm vừa mới biết và còn nhớ. Tôi bị bịnh nặng, phải về dưõng trị ở vườn, nhà ông Tư, ở với bà nội, bà cố. Nhà phải đánh dây thép lên cho cha tôi hay. Mỗi lần nghe tiếng “tun tun” của con tàu Nam Vang trở về, rúc còi xin bến, là cả nhà ông tôi chạy lên chợ, xuống bến tàu đón cha tôi. Rồi tàu lại xúp lê một, xúp lê hai, xúp lê ba, con tàu Vạn An sơn vàng, một viền chỉ đỏ, tách bến. Con tàu vừa chạy, vừa nhả khói lan ra cả mặt sông. Cha tôi vẫn chưa về. Một hôm tôi đang ngủ, bỗng nghe có gì âm ấm phả lên mặt, tôi giật mình mở mắt. Cha! Cha tôi về. Và cha đã cúi hôn tôi lúc tôi đang trong cơn mê...
Khi tôi ở trường về, má tôi vẫn nằm võng:
- Con mới về? - Má nắm tay tôi, bàn tay của má chỉ còn là những cọng xương khô trong lớp da nhăn nhúm và lạnh ngắt. - Con về để đi với má. Nhà không còn gì bán để thuốc thang cho má, cha con phải chạy gạo hằng ngày chỉ còn có nước nghe lời cô Hai con, đi gặp Đức Thầy. Cha con cho rồi.
Thều thào và từng tiếng trong cơn ho, má tôi cắt nghĩa vì sao tôi còn nhỏ mà phải đi. Cha tôi không thể vắng nhà. Chị Tư tôi phải lo cho ba đứa em. Còn anh tôi thì biệt tăm. Với cái tuổi mười tám của anh, cái chợ làng này không đủ cho anh vùng vẫy. Anh phải lên Sài Gòn mới phỉ chí. Có lần, anh viết thư về nói rằng anh là một đứa con bị ruồng rẫy, anh đang sống một cuộc đời lưu lạc và xin cha mẹ hãy tha lỗi. Thư anh viết theo văn tiểu thuyết, ai cũng mủi lòng, má tôi khóc, rồi chị tôi, đến tôi và cả mấy đứa em chưa biết gì cũng khóc, nghĩ thương cái cảnh đời mưa gió như trong thư của anh. Còn cha tôi thì gầm lên:
- Đừng khóc! Nhà này ai ruồng rẫy nó. Đọc ba cái thứ tiểu thuyết lảm nhảm rồi tự mình gán cho mình cái thân phận chẳng ra gì. Nó mà về, tao ngắt đầu nó. Biết, hồi đó cho nó chăn trâu, có khi vậy mà nên.
Rồi cha tôi như giận cả cái chợ làng.
- Tụm năm, tụm ba, tụm bảy rủ nhau lưu lạc, thư gửi về, giọng đứa nào cũng y như vậy, nào mưa, nào gió...
Anh tôi đi nhằm cái lúc hai hãng xe đò đua nhau hạ giá để tranh khách. Hãng Ứng Ký muốn giết hãng của Lê Hồng là loại xe nhỏ, mới ra đường Mỹ Luông - Sài Gòn. Hãng Ứng Ký hạ nửa giá, rồi hạ đến một phần mười kèm theo một ổ bánh mì thịt cho khách, còn hơn cho không. Được vậy, dại gì không lên Sài Gòn chơi cho biết. Hầu như cả làng đều lên xe. Có người đi rồi về, có người quen mùi Sài Gòn, không về nữa. Trong số đó có anh tôi. Có người quay về, lạ hẳn đi, gầy tong teo, chơi bời quá độ, lại mắc bịnh, xanh như tàu lá. Có chị bước luôn vào cái kiếp giang hồ. Anh tôi vẫn còn lưu lạc ở trên đó, đã nửa năm, biết gì đến việc nhà. Tôi dù nhỏ, phải kê vai gánh vác.
- Con xuống ông Chín, nói ông Chín cho chú con đi tiếp.
Cha tôi dặn thêm:
- Có đi, nhớ không được ghé qua nhà ông Tư. Muốn thăm bà cố thì lân la đâu đó, lựa lúc ông đi vắng hẵng vào. Thăm cố một chút rồi về.
- Sao vậy cha?
- Vì mới xảy ra một trận xung đột giữa hai cậu cháu.
Buổi trưa, cha tôi xuống thăm cố, cũng để mượn một ít lúa. Nhà tôi ở chợ, mua ăn hằng ngày, nghĩ đến lúa làm gì. Người ở chợ có ai vay lúa giã gạo bao giờ. Năm ấy người làng gọi là năm kinh tế, là năm của “cuộc thế đang xoay”. Cái gì cũng khan, cũng hiếm. Đêm không có dầu để thắp. Đèn măng sông ở chợ, đèn ống khói của mỗi nhà đều phải dẹp vào một xó. Nhà nhà đều phải thắp bằng mỡ heo, đựng trong đĩa với sợi tim; không mỡ heo thì dầu dừa; nghèo hơn, không mỡ heo, không dầu dừa thì thắp bằng hột mù u. Cây mù u ở vườn, xưa nay ít ai biết nó để làm gì. Nhưng vì trời đất sanh ra trong loài cây cỏ có cây mù u thì trồng nó vậy, ăn không được, bán cũng chẳng ai mua. Trong vườn cây ăn quả, người ta trồng chêm vào một vài cây, chỗ đất thừa, đất thẹo. Cây không cao, da xù xì, lá dày lại rậm, chắc là được nhiều bóng mát. Trái mù u, mấy người bán hàng ăn, chỉ lấy cái vỏ, gọt làm gáo múc nước mắm. Bấy giờ người ta lấy hột mù u, xắt nhỏ như đồng xu đem phơi khô, xỏ lại thành xâu, đêm đem đốt, thay cho ngọn đèn. Cái màu lửa đùng đục, tỏa một làn khói đen, khen khét mùi nhựa. Ngọn đèn của mỗi nhà nhỏ như hột đậu đỏ, lù mù. Bóng đêm bỗng dày đặc hơn trùm phủ cả tâm trí con người.
Nghề nào cũng thất nghiệp. Xóm mộc, gỗ từ Nam Vang không đổ về. Xuồng ghe từ các nơi về mua bàn tủ cũng không tấp lại bến. Ngày ngày, xe từ Sài Gòn đổ xuống không biết bao nhiêu người đi lánh nạn. Tin từ báo chí, tin từ miệng của người Sài Gòn đi chạy giặc: thế giới, Đồng minh với phát xít Hít-le đang đánh nhau. Nhật sắp đảo chánh Tây. Sự có mặt của họ làm giá cả ngoài chợ càng mắc mỏ. Tin đói của miền Bắc cũng tràn về. Cảnh đói rồi sẽ đến nơi, tận cái làng này. Chỉ còn biết trông cậy vào cây lúa ngoài đồng. Nhưng những người nông dân theo đạo Hòa Hảo nghe theo kinh sấm, rằng sắp đổi đời, họ bỏ ruộng hoang. Cha tôi, thợ bạc, người thất nghiệp sớm nhất. Thời thế vậy, ai còn lo tới chuyện bông tai với dây chuyền.
Ông Tư tôi ngồi trên bộ ngựa gõ. Cha tôi ngồi ghế, giữa là cái bàn có khảm xà cừ. Bà cố tôi đứng một bên, trong bóng cây vú sữa, miệng lẩm nhẩm, tay lần hột chuỗi.
- Mầy định lo cho con vợ mầy sao, Hai?
- Thầy thuốc ở vùng nầy chạy hết rồi. Cháu định hốt bụi, hốt một số tiền, đưa vợ cháu lên nhà thương Sài Gòn. Nghe thầy thuốc nói, vợ cháu bị lao thời kỳ thứ ba rồi, nặng lắm.
- Đi làm gì cho mất công, lại tốn tiền. Tao nhắn lên mấy lần mà sao mầy nghe chưa thấu. Đưa con Hai lên Hòa Hảo cho nó được gặp Thầy, thỉnh kinh của Thầy về cho tà ma nó biết đây là người của Thầy, nó không quấy phá, rồi hết bịnh.
- Bịnh là do vi trùng chớ phải tà ma gì đâu cậu.
- Vi trùng gì? - Ông bắt đầu nổi giận, hai con mắt lừ đừ - Vi trùng đâu, chỗ nào, bao lớn, mầy chỉ nó cho tao, tao hốt tao nhai nó cho mầy coi.
- Cậu nói nghe kỳ quá, vi trùng nó ở chỗ dơ, chỗ bẩn chớ ở đâu.
Ông Tư tôi không nói, lại đưa mắt lừ đừ nhìn ra con sông. Dòng sông của buổi trưa trời đứng gió, mang theo từng dề lục bình xanh mát trôi xuôi, êm đềm. Dòng sông như làm dịu cơn nóng trong lồng ngực của ông. Cha tôi muốn hỏi mượn một vài chục giạ lúa phòng cho đàn con khỏi lâm vào cảnh đói, nhưng chưa lựa được lời thì ông tiếp:
- Cha mầy biết, Thầy là người nói đâu trúng đó. Cái thời buổi. “Bạc không cánh đổi thay chẳng biết. Vàng bị nghèo mấy chiếc chẳng còn. Mới mấy năm sao quá hao mòn. Mùa màng thất, đói đau không thuốc”. Thầy nói vậy, có đúng cái cảnh nhà của mầy không?
- Cậu Tư à! Đức Thầy năm nay tuổi đáng bằng con, bằng cháu của cậu, cậu nghe lời làm gì cái thằng con nít đó.
- Hả? - Ông vừa hét vừa chồm tới, và con dao mà ông định xách theo mỗi khi ra vườn ông chém phập xuống cạnh bàn. Con dao cũng như ông đang ghìm cơn giận run lẩy bẩy.
Bà cố tôi đứng đó, giật mình, buông chuỗi hột, sững sờ. Nhờ cái nhìn của bà mà hai người ngồi bất động.
- Lúa không mượn được, lại thêm chuyện mất lòng - cha tôi nói - kể thì lúc đó cha cũng nóng. Ở đời, cha biết, người ta đâu có đợi tuổi tác. Đúng ra, cha phải giải cho ông biết, nhưng lúc đó cha cũng nổi nóng rồi. Nói đến Đức Phật Thầy mà gọi là thằng con nít, ông nổi điên cũng phải. Cái sức giận của ông Tư con, cha biết, nếu không có bà cố ở đó thì cha chắc không về tới nhà...
Và để cho ông nguôi cơn giận, cha tôi bằng lòng cho má tôi đi gặp Đức Phật Thầy, coi như âm thầm nghe lời răn dạy của ông, và cũng để cho má tôi được vui lòng.
Chú thich:
(1) Kéo còi (nói chệch âm tiếng Pháp)