← Quay lại trang sách

- 5 -

Sáng hôm sau, tôi lên xe ngựa, xuống nhà ông Chín. Tôi ít đến nhà ông Chín hơn nhà ông Tư, không phải vì tôi thương ông ít, mà vì nhà ông ở quá xa. Từ chợ đến nhà ông Tư, chỉ có hai cây số, không đi xe thì đi bộ. Còn nhà ông Chín Hết, ông ở cuối làng, cách chợ đến bảy, tám cây số, nhà cũng không phải ở mặt đường, xe chạy không tới. Nhà ông ở trong kinh, xuống xe phải đi bộ, trong xóm ngọn. Ông cùng một tuổi với cha tôi, tuổi bốn mươi. Cha tôi mỗi ngày mỗi cạo râu, ông Tư tôi (lúc chưa theo đạo) thì để ria mép, còn ông thì để ria, để cả râu, râu ria đều đỏ hoe như râu bắp. Râu non mà!

- Ông để râu chi vậy ông?

- Cái lũ của tụi bây đứa nào cũng gọi tao bằng ông, ông mà không có râu coi sao được!

Nghe cũng phải.

- Sao ông không làm ruộng, làm vườn mà làm rẫy cho cực vậy, ông?

- Cái thằng chó nầy, cái gì cũng hỏi.

Ông nói ông không đủ đất để làm ruộng, lại càng không đủ đất để lập vườn. Đất nhà ông chó nằm ló đuôi, có một khoảnh, làm ruộng, rơm cũng không đủ nhai, nói gì đến cơm ăn... Xứ này làm ruộng sạ khỏe hơn ruộng cấy ở xứ khác. Mỗi năm gặt hái xong, lúa đổ vào bồ. Mỗi nhà có một cây rơm, trước sân hoặc sau hè, những cây rơm cao như núi, dành cho trâu cho ngựa trong năm. Những cây rơm tỏa mùi thơm, quyến rũ đám trẻ con chơi trò chơi cút bắt. Đuổi chạy vòng vòng theo cây rơm phủ đầy người kín mít. Mùi rơm chứa cả mùi nắng, hít thở rồi, nghe thơm đến tận da.

Sau ba ngày Tết, cúng lạy ông bà, ăn và chơi, người ta châm lửa đốt đồng. Những cây rạ vàng khô bốc thành lửa, lửa lan ra khắp cả cánh đồng, khói của thân cây lúa lan ra đến tận nhà. Thân cây lúa trở lại làm phân cho mùa lúa tới. Rồi từ trời hãy còn sương, ngoài đồng đã vang tiếng “ví, tha” của người nông dân đi cày. Chiếc nón, áo bà ba, quần cụt, tay cày, tay roi, với một đôi trâu, lô nhô khắp cả cánh đồng lúc trời vừa hửng nắng. Cánh đồng phủ đầy một lớp tro đổi màu. Lưỡi cày lật lên từng luống đất, màu đất lại đỏ như miếng thịt non. Cày xong, lại bừa cho đất tơi ra. Khi trời sa mưa, trên cánh đồng, từng hàng người, mỗi người, mỗi người bưng một thúng giống, vừa đi vừa bốc vãi. Lúa từ trong nắm tay của người nông dân bung ra, từng hạt vàng lấm tấm rải đều ra trên khắp cả cánh đồng. Vậy là xong, hạt giống ấy cứ phú cho đất trời... Trời đổ mưa cho hạt giống nảy mầm, cho mạ lên xanh. Rồi đến mùa mưa, mùa nước ngập, nước lên, lúa cũng lên. Nước không vùi, không dập được cây lúa. Nước lên rồi nước xuống, nước trôi về biển. Khi con chim tu hú kêu vang vọng đâu đó trên bầu trời thì lúa đã đến thời ngậm sữa. Chim lá rụng nghe thơm mùi lúa chín, từ xa kéo nhau, từng bầy, từng bầy như những đám mây đen. Nhưng khi nó xếp cánh buông xuống thì vội túa bay lên vì tiếng la hét, tiếng khua lon, tiếng đánh thùng thiếc của các chòi canh, và những anh chàng bằng rơm, như những anh lính đứng lô nhô trên khắp cánh đồng. Rồi lại đến mùa gặt.

Cây rơm năm ngoái tàn, cây rơm mới lại dựng lên.

Làm ruộng sạ, xứ này, người nông dân được thảnh thơi. Cái giống lúa sạ này đều lấy cái họ nàng: nàng tây, nàng rừng, nàng keo... Gạo không trắng mà đỏ, nhưng lại ngọt cơm. Nhưng lúa sạ họ nàng cho lúa chẳng được bao nhiêu. Mỗi công trúng lắm chỉ được từ tám đến mười giạ, còn thường thường mỗi mùa chỉ được từ năm đến bảy giạ, rồi lại thuế, lấy gì ăn?

- Làm rẫy, mỗi sáng, mỗi chiều phải gánh nước, tưới phân. Đất của ông bằng bụm tay, cực vậy mới đủ ăn, con hiểu chưa?

Rồi ông lại kể, chính vì ít đất, nên khi ông đẻ chú Hai, ông đặt tên là Nguyễn Đa Điền, để sau chú được nhiều điền, nhiều đất. Chẳng biết sau này chú có được nhiêu đất không, chớ bây giờ thì chú hiền lắm, hiền như cục đất và cũng đen như cục đất vậy.

Ông Chín Hết của tôi cũng không chỉ làm rẫy, ông làm cả nghề cá. Ông bắt cá chốt lạ lắm... Mùa nước xuống là mùa cá chốt lên. Cá chốt nhỏ bằng ngón chân, ngón tay cái, loài cá trắng, không vảy, có hai cái ngạnh, cái ngạnh đâm vô tay, nhức đến phát khóc. Vậy mà ông bắt bằng hai ngón tay. Tôi đã theo ông, ngồi trước mũi xuồng. Ông lấy vải quấn năm đầu ngón tay. Tay nắm bộ đồ lòng của con chuột đồng, ông quậy xuống nước. Nghe mùi mỡ chuột, cá chốt kéo tới từng bầy, đưa đầu lên khỏi mặt nước, loi nhoi với hai sợi râu. Vậy là ông cứ nắm râu nó mà ném thẳng vô xuồng. Không còn con nào loi ngoi đưa đầu đưa râu lên, ông thọc dầm, bơi đi. Chẳng mấy chốc mà cá đầy khoang. Đến mùa đìa, ông đi tát đìa... Có lần tôi tới chơi nhà ông nhằm đêm mùa cá linh. Nghe ông kể cuộc đời con cá linh, tôi với lũ con nít trong ngọn kinh cứ ngồi há mồm ra mà nghe. Cứ hàng năm, ở Biển Hồ, trứng nở nó ra thành một con cá, nhỏ như cái đầu gai bưởi nhỏ li ti. Nó kéo đàn kéo lũ, theo con nước đục phù sa, thả theo dòng. Nó vừa đi, vừa ăn vừa ngủ, vừa nhởn nhơ chơi, đến cái làng mình thì nó lớn bằng cái đầu đũa ăn. Có con cứ theo con nước mà trôi đi nữa, cũng có con giạt vô bờ rồi, theo con nước chảy, nó lên mương vườn rồi lội ra đồng, quấn quanh theo cây lúa sạ của đồng mình. Đến khi con nước xuống, nó lại nương theo con nước, dẫn nhau ra mương, ra kinh, ra rạch, ra ngòi, cặp theo dòng sông Cửu Long. Nó đã lớn bằng ngón tay ngón chân rồi, nó định ngược dòng để vê quê cha đất tổ. Nó chen nhau, nó lội, nó bơi, nên gọi là cá linh đua, hiểu chưa?

Nghe lời ông dạy, bọn nhỏ chúng tôi chạy ra bờ kinh, lượm đất liệng xuống mé. Nó giật mình, nhảy lên soi sỏi. Cá lên xanh cả mặt nước hai bên bờ kinh.

Nói là xuống ngủ chơi nhà ông - nhà ông được cái nhiều gió đông - nhưng nào có ngủ được. Ấy là đêm thượng tuần tháng mười âm lịch. Trời không trăng, cả xóm đều đốt đuốc, kéo bò bắt cá, hò hét dậy ran. Cái bò đan bằng tre, chất chà, đã đặt sẵn dưới bến. Con cá linh nó dẫn bầy, dẫn đàn, chui vào đó, lội nhởn nhơ.

- Hè! Kéo!

Trục kéo bò nghiến ken két, cái bò ló dần lên mé nước. Tiếng cá linh rộ lên, vùng vẫy, tưởng có thể nứt cả bò. Cái bò lại được thả xuống. Rồi đốt lửa, ai làm cá cứ làm, ai nướng cá ăn cứ ăn.

Ước chừng khi cá đã vào đầy bò, người ta lại hò hụi cho đến sáng.

Chuyện gì ông làm, tôi cũng có dịp xem, dịp thấy, duy có cái thú gác cu của ông là tôi chưa bao giờ được ra đồng với ông. Tôi chỉ thấy được con chim cu mồi trong lồng, treo trước hiên nhà.

Ở đời có bốn cái ngu

Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu.

Ông chịu cái tam ngu vậy. Một ngày mà không nghe tiếng con cu nó chiêu, ông buồn lắm - ông nói vậy, và ông dạy cho tôi biết trong đời có mấy giống cu. Cu nước, cu bông, cu lửa và tiếng kêu của mỗi con, nghe mà mê.

Ít xuống chơi với ông, nhưng mỗi lần xuống, tôi không muốn về. Ông còn một tính lạ nữa. Trong xóm, trong làng, nghe nhà ai có người chết, dù có bận trăm công ngàn việc, ông cũng xỏ áo, đầu bịt khăn khất, tất tả đến tận nơi.

- Kìa, anh Chín tới.

Nhà có tang, thấy mặt ông, họ đỡ bối rối. Hình như người ta chờ đến ông; không có ông, người ta không biết làm gì.

- Sắp nhỏ đâu, nấu cho nồi nước.

Ông vừa bảo, vừa lấy gạch kê ba ông táo ngay bên một góc sân, hai tay quơ nào lá, nào củi, nhen thành ngọn lửa.

- Vải tang có chưa?

- Nhang đèn, vàng bạc có chưa?

Ông hỏi người nhà từng món, từng thứ. Thiếu món gì, ông bảo phải chạy ngay. Ông giúp người nhà tắm rửa, khâm liệm cho người chết. Và ông đưa người chết đến khi cái mộ đất đã vun đầy, ông mới trở về.

- Lần nào, ở đám ma nào, mới bước vô nhà, ông cũng bảo nấu một nồi nước vậy, ông Chín?

- Đám nào mà không làm gà, làm vịt, làm heo, làm gì cũng phải có nước sôi. Khách tới chẳng lẽ để người ta ngồi không, ít nhất cũng phải có một chén trà, hiểu chưa?

- Sao đám ma nào ông cũng đi hết như vậy ông? Người ta mướn ông hả?

- Mẹ cha con của thằng Hai thợ bạc, cái gì nó cũng hỏi. Người ta mướn ông bạc triệu, ông cũng không đi. Nếu đi mà lấy tiền thì chẳng khác gì mong cho người ta chết! Ông đi là vì tại ông muốn đi. Chết là hết, hiểu chưa? Khi người ta khóc, người ta kể, trước sau gì cũng có tiếng “Hết rồi, hết rồi”. Mà ông thì tên Hết, chẳng khác nào người ta gọi tới ông, ông không đi, coi sao được?

Ý của ông không phải vậy, tôi biết ông nói đùa. Ông tiếp:

- Con thấy đám cưới, đám giỗ của người ta, ông đâu có tới. Nhà nào có đám ma mà không bê bối. Vui cũng bê bối, nhưng bê bối mà vui. Đám cưới, đám giỗ, ông chỉ tới dự khi ông được mời, dù nghèo, khăn áo cũng sạch sẽ đường hoàng. Hễ tới, ông chỉ ngồi ông nhậu chớ chẳng làm gì. Còn đám ma, nhà có người chết, người ta buồn, người ta đau, người ta khóc, người ta không còn trí để mà nhớ đến việc gì nữa... Mình đến lúc người ta đau, người ta khổ, người ta bối rối, vậy mới đúng đạo làm người, con hiểu không? Cái gì con cũng hỏi, bây giờ ông hỏi lại con.

Tôi ngước nhìn những sợi râu loe hoe của ông.

- Đố con, con người ta sống lâu hay chết lâu?

Tôi lại nhìn những sợi râu của ông, ngơ ngác. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến cái chết. Ông cười đắc ý:

- Bí phải không? Để ông giảng cho nghe. Con người ta sống rồi sẽ chết, còn chết thì chết hoài hoài, không có ai chết mà sống lại được. Cho nên, lúc mình sống, mình phải ăn ở sao cho người ta thương. Muốn vậy, mình phải thương người ta trước. “Thương người như thể thương thân”. Như ông nội của con hay vác dao chém người ta, nhưng không phải là người hung dữ đâu. Ông con vì thương người mà dữ. Ông chém người đáng chém, chém cái tụi ỷ quyền, ỷ tiền, ỷ thế hà hiếp dân nghèo.

- Tụi nó có nhiều không ông?

- Ít xịt thôi. Ít, nhưng nó ngồi trên đầu mình. Còn dân nghèo thì hằng hà sa số như kiến.

Chú Ba tôi - chú ba “cửa tủ” - cũng như ông, hay đố, hỏi những điều mà tôi không sao hiểu nổi. Có lần chú đi đâu về, dẫn tôi đi chơi chợ chiều, chú hỏi:

- Cháu là con của ai?

- Con của cha, của má...

- Con của ai?

- Của ông nội, bà nội.

- Của ai nữa?

- Của ông ngoại, bà ngoại.

- Của ai nữa?

- Của ông cố, bà cố.

- Của ai nữa.

- Ư... ư...

- Là con của xã hội nữa, hiểu chưa?

Đó là những câu hỏi nhớ đời!

Chiếc xe đưa tôi qua khỏi nhà ông Tư, qua đình qua xóm vườn... Xe nép qua một bên lề, đậu lại phía bên này đầu cầu kinh Cựu Hội, thả tôi xuống. Tôi đi bộ theo con đường đất trên bờ kinh trong nắng sớm. Đi đến rớm mồ hôi thì tới nhà ông. Ông tôi kia, đầu bịt khăn khất, lưng trần, quần vận, đang gánh hai cái gàu nước từ bến, đi lên rẫy.

- Ông Chín.

Ông quay lại, chòm râu loe hoe, ông cười:

- Đi đâu mà sớm vậy? Vô nhà ngồi, đợi ông chút.

Xóm ngọn này của ông, không ai cất nổi nhà sàn. Nhà nền đất, lưa thưa, xa xa một cái, xa nhưng vẫn thấy nhau không như ở xóm hai bên con đường đá nhìn qua hai bên chỉ thấy cây vườn.

Nhà ông tôi chỉ bằng cái chái, cái bếp của nhà người khác, nền đất, mái lá, vách cũng kẹp bằng lá. Mỗi năm sau mùa nước, chân vách bị nước cuốn đi, từ ngoài xa đã thấy cả những cái chân của người đi trong nhà. Từ ngoài, tôi đã thấy chân giường, chân tủ thờ trong nhà ông. Con cu mồi trong lồng treo trước hiên nhà, nó đang hót “Hoạch... cu... cu cu... hoạch”, ông ngồi bên mép giường, lột chiếc khăn khất, lau mồ hôi.

- Định chừng nào đưa má con đi?

- Dạ, cha con bảo xuống thưa với ông chừng nào chú Hai rảnh thì đi.

- Về thưa lại với cha con, ông Chín nói rảnh hay không rảnh cũng phải đi. Đi cho biết mặt Thầy, cho ông Tư con vừa lòng. Nè! Cái gan của cha con không biết được bao lớn, mà dám gọi Đức Phật Thầy của người ta là con nít!

- Ông cũng theo đạo Hòa Hảo rồi hả ông?

- Hôm rồi, sau cái chuyện đó, ông Tư con có xuống đây, kể lại cho ông nghe, rồi khuyên bảo ông theo đạo Phật giáo Hòa Hảo. Ông nói: “Tôi tu lâu rồi chớ mới đây sao; tôi để râu, để ria tự hồi nào tới giờ, ai mà không thấy”. Biết ý ông chưa muốn, ông Tư mới lừ hai con mắt: “Nhưng mà mầy chưa để tóc”. Ông Tư còn nói là đạo sẽ đánh Tây, lấy lại nước, lấy đất chia cho dân cày. Nói y như Cộng sản năm bốn mươi, “Ừ, thì như Cộng sản, nhưng không phải là Cộng sản làm mà Đức Phật Thầy ra tay”.

- Sao theo đạo thì phải để râu, để tóc vậy ông?

- Hòa Hảo họ nói, hồi xưa, tổ tiên ông bà mình sanh sao thì để vậy. Sau nầy cạo râu hớt tóc là do tụi Tây nó bày ra, bây giờ mình chống nó thì phải theo ông bà.

- Bà cố theo đạo Phật, ông theo đạo Phật, đạo Hòa Hảo cũng đạo Phật, mà sao ông Tư lại bắt ông theo đạo Hòa Hảo?

- Đạo Phật của bà cố, của ông, cái đạo nó lớn như con sông Cửu Long ở ngoài vàm kia, còn đạo Hòa Hảo, cũng đạo Phật, nhưng là đạo nhánh, đạo nhóc, nó nhỏ như con rạch, con kinh nầy đây nè. Kinh rạch, cây lá um tùm, tối tăm lắm.

Tôi muốn hỏi thêm thì ông “nọ” một tiếng dài:

- N... ọ... Cái tật không bỏ, cứ đụng đâu hỏi đó hoài. Trưa trật rồi, về thưa lại với cha con là tối nay chú Hai Điền sẽ lên. Khuya đi. Đã mướn được ghe cộ gì chưa?

- Dạ rồi.

- Mấy chèo?

- Dạ, ba chèo.

- Ai chèo trước?

- Dạ. Con sẽ tập.

- Tội nghiệp chưa!

Bàn tay to lớn của ông xòe ra, để nhẹ lên mái tóc tôi. Tự dưng, tôi mủi lòng muốn khóc.