- 6 -
Đất Phật đây rồi, làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (1). Tưởng là xa xôi lắm. Hóa ra nếu đi bằng xe ngựa của anh Hoàng, chỉ một buổi chiều là cùng. Nhưng vì phải đi ghe, nên mất gần một ngày. Xô ghe rời bến từ lúc vừa nhóm chợ, xế chiều thì tới. Tưởng là nơi có núi non, có mây vờn như rồng bay phượng múa, hoặc một cảnh nào khác lạ của người đời. Hóa ra, làng Hòa Hảo cũng như cái làng của tôi thôi. Cũng là hai dãy nhà hai bên con đường đá. Cũng có một vài điều lạ. Ghe xuồng của người mộ đạo từ xa tới đậu trước bến của Đức Thây đến hai ba lớp.
Chú Hai Điền của tôi phải bỏ lái, ngồi chồm hỗm trước mũi, đưa tay lần qua xuồng ghe khác, cái mũi ghe của tôi mới lách dần tới bến. Nhà nào trước sân cũng dựng bàn thông thiên, lư hương còn đầy chân nhang. Đàn bà bới tóc, đàn ông cũng bới tóc, có người tóc chưa đủ để bới thì xõa xuống đến tận vai. Quần áo, ai ai cũng một màu, màu dà (2) gương mặt thành kính với đôi mắt nhìn tận đâu đâu, xa xôi buồn rầu. Bàn thờ trên nhà đốt nhang, bàn thờ trong ghe cũng đốt nhang. Khói nhang lởn vởn, mùi nhang phảng phất theo tùng hơi thở.
Lạ nữa, người ta phơi lá gòn đầy cả sân, phơi tràn ra cả mặt đường. Họ dùng lá gòn để làm nhang. Nơi đốt nhang cũng là nơi làm nhang, bán nhang. Ai đến cũng mua về một hai bó. Mua nhưng gọi là thỉnh, thỉnh nhang từ đất Phật.
Tôi thấy mọi người nhìn tôi với con mắt xa lạ, tôi hơi sợ và không hiểu tại sao. Sau mới biết, tôi không mặc quần áo màu dà, mà mặc quần áo trắng của học trò, không cùng một màu với thiên hạ.
- Thằng nhỏ đó ở đâu tới vậy?
Tôi nghe người ta hỏi sau lưng tôi.
- Con chịu khó ở trần, mặc quần cụt, như con nít ở xóm đi con. - Má tôi bảo.
Không có cái áo màu dà thì cái lưng ngăm đen của mình chắc sẽ hợp màu. Tôi cũng không hòa được với mấy đứa nhỏ ở xóm, cũng có đứa ở trần, cũng đen, nhưng tóc của nó đã xõa dài, phủ cả tai, còn tôi, cái đầu của tôi, tóc hớt gọn quá. Muốn cho tóc phủ đến ót, đến vai, phải để ít nhất vài ba tháng; một ngày, một buổi tóc sao dài được. Lúc nào tôi cũng thấy mình lạc lõng, lẻ loi.
Còn chú Hai Điền tôi, chú cũng không có áo màu dà, nhưng cái áo của chú vá đùm vá đụp, những cái chỗ trắng đã ngả màu cháo lòng, nó cũng tối tối như màu dà, chẳng ai để ý... Với lại chú chèo chống mỏi mê, chú nằm ở sau lái, lấy cái nón lá úp lên mặt, ngủ khì, không ai để ý.
Đã lên đến nơi rồi mà má tôi vẫn chưa gặp được mặt Đức Thầy. Hỏi thăm mới biết Đức Thầy đã đi vắng, người nói Đức Thầy đang giảng đạo ở Bến Tre, kẻ nói đang ở Bạc Liêu, có người lại bảo Thầy lên Sài Gòn. Ai cũng nghĩ là mình nghe đúng, nói đúng, tưởng như Thầy ở khắp mọi nơi cùng một lúc.
Thầy đi vắng nhưng còn đệ tử của Thầy, gọi là ông Mười, ông thay mặt Thầy.
Phải chờ đến hai ngày, má tôi mới gặp được đệ tử của Thầy. Tôi với chú Hai Điền phải kê vai cho má tôi bước lên từng bực cầu thang, lên nhà ông Mười. Kẻ đứng người ngồi chật ních.
Giữa nhà là bàn thờ, bàn thờ cũng không có hình ảnh của ai, chỉ có một miếng vải màu dà gọi là trần điều. Mỗi người - những con bịnh - đều đốt ba cây nhang cắm lên lư hương, bộ lư đầy chân nhang, khói nhang tỏa đầy nhà như một cái đống hun muỗi, khói nhang thơm đến muốn ngạt thở.
Ông Mười, đệ tử của Thầy, là một người đàn ông to lớn, trên dưới độ bốn mươi tuổi, quần áo màu dà, đầu bới tóc, cặp chân mày đậm như mực tàu, bộ ria dày cũng đậm đen như mực, hai cái đuôi ria quớt lên như cái mũi của chiếc xuồng cui. Ông ngồi xếp bằng trên bộ ngựa gõ. Má tôi quỳ dưới sàn nhà, một bên là chú Hai Điền, một bên là tôi. Ông Mười cầm một nhánh sầu đâu đưa lên trước mặt má tôi, mắt ông trợn tròn, cặp mắt sắc như dao. Ông nhìn với cặp mắt giận dữ. Ông không gọi má tôi bằng cô hay bằng chị mà gọi là “tín nữ”.
- Bịnh của tín nữ đây là bịnh tiền kiếp. Kiếp trước đã làm nhiều điều tội lỗi, nhân nào thì quả nấy, nên kiếp này phải bị trầm luân.
Hai cái vai gầy gò của má tôi rung lên, nước mắt chảy đầm đìa. Cái kiếp mà má tôi đang sống đây, má tôi là một người hiền từ, còn kiếp trước mình là ai và đã làm gì, ai biết được?
Nói vậy rồi ông bốc cho má tôi một nhúm lá xoài, một nhúm lá ổi, một nhúm bông vạn thọ héo khô.
- Tín nữ vừa uống vừa đọc kinh của Thầy. Đi theo đây, có ai biết viết, biết đọc không?
- Dạ, có con tôi.
Ông đưa cho má tôi một quyển kinh bằng tập giấy học trò:
- Bảo con nó chép.
- Cầm, lạy đi con.
Khám bịnh vậy là xong, nhưng má tôi còn phải ở lại chờ tôi chép cho xong quyển kinh. Vừa lạ, vừa buồn, vừa sợ, tôi muốn về sớm nên tôi ngồi chép không nghỉ. Ngồi trong nhà ngợp khói nhang, tôi ra ngoài ngồi chép kinh dưới gốc xoài. Chú Hai Điền giúp tôi mượn một miếng ván, lấy gạch kê lên làm bàn, tôi quỳ dưới cỏ mà chép, không nghỉ tay.
- Ra ngoài cây xoài mà coi, có một chú nhỏ đang quỳ chép kinh của Thầy cần mẫn hết sức.
Có một vài người bước ra xem tôi chép.
- Chuối đây, độ cho no rồi chép tiếp, cháu!
Tôi không còn là người xa lạ nữa. Tôi chép xong “Sấm giảng khuyên đời tu niệm” lại chép tiếp “Kệ dân của người khùng”. Kinh sấm của Thầy nghe nói còn nhiều, nhưng hai quyển vậy là được. Tôi chép mất một ngày rưỡi. Trưa hôm sau, khi chú Hai Điền mở sợi dây đỏi (3) quấn dưới gốc cây me nước dưới bến, có người nói:
- Phải chi cháu nhỏ còn ở lại, tôi nhờ nó chép giùm, để nó được phước.
Nghe có người nắm níu, má tôi với chú Hai Điền muốn nấn ná ở lại vài ngày, may ra được “diện kiến” Đức Thầy, nhưng gạo trong hũ chỉ còn được vài lon, tiền cũng không còn được mấy đồng, dù ở đất Phật, túi cũng phải có tiền, nên đành phải lui ghe.
Cũng như bận đi, ghe phải chèo nép một bên bờ, chú Hai Điền chèo lái, tôi chèo mũi. Mũi ghe cỡi sóng, nhích lên, qua từng cái bến nước. Chèo đến rã cả tay, ngoái nhìn lại, vẫn thấy cái doi với rặng cây xanh, trước sau vẫn là dòng sông mênh mông và sóng bủa dăng dăng. Bên kia sông một rặng cây mờ, trước mắt vẫn là hàng cây của đuôi cù lao nổi lên giữa dòng. Chèo, vẫn chèo, ghe lướt qua một cây cầu, dưới bến nước, trước mũi ghe cũng bến nước với cây cầu. Chèo cho đến khi trời bảng lảng, mặt sông không còn chói ánh nắng, chú Hai Điền mới cho ghe tấp vào nơi khuất gió, nằm trong vịnh, đậu lại dưới tàn cây sộp bên mé nước, nổi lửa nấu cơm chiều. Chú lo coi lửa nấu cơm, còn tôi thì giở quyển kinh chép tay ra đọc cho má tôi và chú được nghe.
- Đọc từ chữ đầu, đọc chầm chậm nghe mầy! - Chú Hai Điền bảo tôi, giọng rất trang trọng.
Dù khuất trong doi, sóng vẫn vỗ vào bờ. Ngồi bập bềnh trên lái ghe, giọng của tôi hòa trong tiếng sóng:
Ngồi khùng trí đoái nhìn cuộc thế
Thấy dân mang sưu thuế mà thương
Chẳng qua là Nam Việt vô vương
Nên tai ách xảy ra thảm thiết.
- Nam mô a di đà Phật.
Tôi phải ngừng đọc vì tiếng niệm Phật của chú Hai Điền. Nhìn lại, tôi thấy chú ngồi xếp bằng, hai tay buông thõng, gương mặt của chú như khác đi, thẫn thờ và mắt ngước nhìn tận đâu, buổi trời chiều.
Tôi lại đọc, đọc được bốn năm câu chú lại đệm vào “a di đà Phật”. (Sau này gẫm lại, lời lẽ trong những câu kinh ấy như bay lên khi thành tiếng, ngấm vào người. Nếu tâm hồn của con người mà thấy được, thì chắc tôi thấy tâm hồn chú Hai Điền bị tím dần theo từng lời của kinh sấm. Tôi thấy tôi với chú đã xa nhau rồi).
Trước mặt tôi, bên kia sông, có một đường cây xanh ven theo bờ uốn cong lại dòng sông là doi, cái doi nằm ngay con nước đạp, đất đang lở. Từng mảng đất từ trên bờ đổ ùm xuống, bọt nước tung trắng xóa. Bờ sông hõm vô với màu đất đỏ. Và dòng sông như giận ai, từ nơi xa khơi, ở giữa dòng, nổi lên từng đợt sóng bạc đầu, gầm thét đuôi xô nhau đập vào bờ. Và xa kia, ở làng tôi, mây khói đen như kéo cả bầu trời hạ xuống, trên đầu của con sông.
Ôi! của tôi chiều hôm ấy sao mà buồn thế!
Nghe tôi chép kinh của Đức Thầy từ đất Phật trở về, ông Tư tôi hả hê lắm. Cha tôi nói:
- Ông Tư đi khoe với người ta, mầy như thầy Tam Tạng đi thỉnh kinh về. Cha nghe cha mắc cỡ quá - Rồi cha tôi cười, nụ cười thật mỉa mai: - Ông cho cô Hai lên gọi mầy xuống chơi, thăm bà cố. Ông hỏi gì, nhớ lựa lời mà nói, xong chuyện nhớ về liền, nghe chưa?
- Dạ.
Chiếc xe ngựa vừa đậu lại, tôi đã nghe tiếng ông từ trong nhà vọng ra:
- Ai như nó xuống đó bây?
- Nó chứ ai nữa - tiếng của cô Hai Thảo. Cô ngoài ba mươi, người gầy gò, môi mỏng, miệng lúc nào cũng nhai trầu, môi lúc nào cũng đỏ. Gần đây, nhắc đến cô, cha tôi nói: “Con nhỏ đó mà nói tới đạo thì cái miệng của nó cứ xoen xoét”.
Từ trong nhà, cô chạy ra tận xe, nắm tay tôi dẫn vào. Miệng cô lại xoen xoét:
- Con thật có phước quá. Người như cô mà chưa được lên tới đất Phật đó nghen.
Ông tôi ngồi sẵn trên bộ ngựa. Bà cố tôi lúc nào cũng lẩn thẩn trong sân, tay lần chuỗi hột... Cũng như bao nhiêu lần khác, tôi khoanh tay thưa bà, bà chỉ nhìn và tay vẫn lần hột chuỗi.
- Con ngồi xuống đây!
Ông chỉ cái ghế bên cái bàn. Nhìn cái nhát dao bên mép bàn, tôi sợ, dù ông nhìn tôi với đôi mắt âu yếm.
Ông hỏi và tôi kể lại tỉ mỉ những điều tai nghe mắt thấy ở làng Hòa Hảo. Cô Hai Thảo ngồi cạnh bên như để chứng kiến cuộc nói chuyện giữa hai ông cháu, có điều gì thấm ý cô lại tắc lưỡi.
- Chú Hai Điền con về, có ghé qua đây. Nó nói, lần nầy, nó xin quy y theo đạo... Nó nói kinh sấm của Thầy nói đâu trúng đó. Kể cũng nhờ con.
Cô Hai Thảo chêm thêm:
- Cũng không phải tới bây giờ nó mới muốn đâu, tía. Nó muốn vô lâu rồi, nhưng nó sợ chú Chín.
- Bây giờ, nó lên được đất Phật rồi, cha nó cản nó cũng không được. Để tao coi cha con nó làm sao. Còn con, con đã chép được kinh sấm của Đức Thầy rồi, từ bữa đó tới nay, con thấy trong người ra sao?
- Dạ! - Tôi chỉ thấy buồn, nhưng không dám nói, chỉ dạ cho qua.
- Không được giống thằng cha mầy. Từ nay về sau không được hớt tóc nữa, nghe chưa con? - Khi thì ông gọi tôi bằng mầy, lúc gọi bằng con. Trong một câu nói, ông tỏ ra vừa giận vừa thương, vừa dọa, vừa vỗ về.
- Thảo, gọi thằng Cảnh ra cho nó thấy.
Cô Hai Thảo sốt sắng, vụt đứng dậy, bước ra sau vườn. Một lát sau, cô dẫn thằng Cảnh vào. Cảnh, con trai đầu lòng của cô, gọi ông bằng ngoại, tôi với nó là anh em cô cậu, một đầu ông cố. Nó kia, một thằng nhỏ mới lên sáu, trần truồng, tròn như hột mít, da rám nắng. Nó để tóc từ lúc nào, đã bới được. Theo lời dạy của má, nó khoanh tay cúi đầu thưa tôi. Tôi nhìn cái đầu tóc nhỏ như củ tỏi treo tòn ten sau ót và “con chim” của nó, tôi thấy nó quái gở quá.
- Con thấy chưa! Mới bao lớn mà ông đã cho nó để tóc rồi, thấy nó mà liệu lấy.
- Dạ, thưa ông, thưa cô, con về.
Tôi không dám ngồi lâu, sợ tóc của mình bỗng dưng lại dài xuống và sau ót lại tòn ten cái củ tỏi, xấu xí bực bội biết chừng nào. Tôi vội vàng ra về khi nghe có tiếng kèn xe ngựa “bí bo, bí bo” sắp chạy qua cửa.
Về tới nhà, cha tôi hỏi:
- Ông Tư bảo gì?
- Bảo con để tóc như thằng Cảnh.
Cha tôi cười, nụ cười mỉa mai và khinh bỉ.
- Con muốn để thì cứ để, nhưng phải kêu thợ thiến heo nó thiến đi, làm đàn bà luôn cho nó tiện.
Nếu trong đầu tôi có ý nghĩ muốn để tóc theo đạo, thì cái ý nghĩ mới nhen nhúm ấy đã bị nụ cười và giọng nói của cha tôi đánh tan.
Chú thích:
(1) Thời Pháp thuộc, Châu Đốc là tỉnh
(2) Màu nâu
(3) Dây xích sắt to