← Quay lại trang sách

- 7 -

Cái thảo bạt của nhà tôi trở thành nơi qua lại của bà con, của bạn bè, từ sáng cho đến tối, không lúc nào ngớt. Không dám nói cả làng, nhưng có thể tất cả bạn bè của cha tôi đều nghỉ việc, suốt ngày đi tìm nhau, kéo đến bàn chuyện thời cuộc. Có người truyền đạo, có người chống đạo.

Tôi đã đến lúc phải giúp gia đình kiếm miếng ăn. Cái tuổi mười ba của tôi, tôi làm gì ra tiền?

Năm 1945 ấy, năm “kinh tế”, cái gì cũng khan hiếm. Thuốc lá cũng hiếm. Thuốc Bastos, Mélia, Cotab... mà người ở chợ hay hút không còn nữa. Thế là ở chợ mọc ra không biết bao nhà làm thuốc lá. Người ta lấy thuốc rê, thuốc Cao Lãnh, tẩm đường, tẩm mật, tẩm cam thảo với rượu hoặc cà phê quấn thành điếu, đặt đủ thứ tên.

Như trẻ con nghèo ở chợ, tôi ôm cái thùng thuốc lá đi bán. Tôi bán được vài hôm thì nghỉ. Tôi không biết mời, cũng không biết tranh khách. Nhưng cũng không phải vì lẽ đó, mà vì gặp một cô bạn học. Khi tôi thấy cô bạn gái ấy từ xa, ngoài chợ lẫn trong đám đông, tôi đã vụt chạy. Nhưng không kịp, cô đã gọi tên tôi, và đi vòng một ngả khác, cô đứng trước mặt tôi.

Nhà cô ở trong kinh, đường qua Long Xuyên. Trong lớp chỉ có tôi và cô là người cùng làng. Cô là cô gái đẹp nhất lớp. Tôi với cô lại ăn cơm tháng cùng một nhà, suốt ba năm. Có lẽ vì là người cùng làng, nên hai đứa lúc nào cũng quấn quýt bên nhau. Cùng đến trường và cùng một con đường trở về, cùng một mâm cơm, cùng một mái nhà. Hai đứa không thể vắng nhau. Ngày nghỉ hè, ngày nghỉ Tết, hai đứa cùng tìm đến thăm nhau. Tình yêu? Không! Tình bạn! Đúng, nhưng cũng không, có cái gì khác hơn tình bạn... Không phải là con sông, nhưng nước trong con kinh trước cửa nhà tôi là nước của con sông đổ về. Chiều nước lên đầy, và giữa khuya, khi con nước ròng, nước lại trở về sông. Cái hôm tôi gặp cô ở chợ, lúc tôi đang ôm cái thùng thuốc lá lần gặp cuối cùng. (Sau ngày tôi đi, tôi luôn nhớ đến người con gái ấy. Những đêm hai đứa ngồi bên nhau cùng một ngọn đèn. Mấy mươi năm sau, mỗi lần nhớ lại, kỷ niệm này còn dậy lên trong lòng tôi mùi thơm trên mái tóc của cô... Tôi nghĩ là, tôi sẽ gặp lại cô, cái ý nghĩ bâng quơ và mơ màng như một làn khói mỏng, nhưng không bao giờ tan vì ngọn gió của thời gian. Có lúc tôi nghe, trong xóm kinh, có một người con gái tên Trầm, theo đạo Hòa Hảo, hung dữ lắm. Tôi không tin. Tôi không tin).

Ba mươi năm sau, mấy lần trở về làng, tôi đều hỏi đến cô, nhưng không ai biết, cũng không ai nhớ. Một hôm gặp lại thằng bạn học cũ nó khoe trong làng bây giờ, chỉ có nó với một vài người còn ở nhà bè. Bắt cá bè lên nhậu, còn gì ngon bằng. Nó nắm một nắm hột gòn ném xuống bè, cá he trong bè hàng trăm, hàng ngàn con cùng một lúc rộ, lộn cái đuôi vàng rực.

- Mầy còn nhớ ai không?

- Ai là ai?

- Cô bạn học hồi nhỏ của mầy.

- Trầm?

- Mầy còn nhớ, khá!

- Còn sống à?

- Mầy chưa chết mà sao người ta không còn sống.

- Bây giờ Trầm ở đâu?

- Chỗ cũ, đường qua Long Xuyên, nhà bên nầy cây cầu đá. Tội nghiệp, nó còn nhớ mầy, nó hỏi thăm mầy hoài. Về mấy lần rồi mà chưa qua thăm cổ, mầy tệ quá.

Bạn tôi đâu có biết là mỗi lần về là mỗi lần tôi tìm hỏi thăm cô.

- Mai tôi đi.

- Đáng lẽ phải đi ngay từ bây giờ, nhưng thôi, nhậu đã. Cùng một lớp chắc là cùng một tuổi của mình chớ gì.

- Chắc cũng xê xích một hai tuổi gì đó thôi.

- Cỡ đó, hơn bốn mươi rồi, như mình, vậy mà chưa có chồng con.

Tôi ngồi sững đi một lúc lâu.

- Sao vậy? - Tôi hỏi.

- Mầy hỏi, tao làm sao biết được. Cái xứ của mình, có những người, cho đến chết mình cũng không sao hiểu nổi. Nếu cái lúc mầy đi, mầy với nó được mười bảy, mười tám, thì có thể nói là nó chờ mầy. Đằng này, năm bốn mươi lăm, tụi mình mới mười ba, mười bốn, tắm còn ở truồng chổng ngổng, biết gì.

Bạn cầm ly rượu đụng ly tôi:

- Thôi, uống đi. Mai gặp rồi biết. Nhớ hỏi cô giáo Chi. Tên Trầm, không ai biết đâu!

Sáng hôm sau, tôi đến nhà Trầm, cô bạn học ngày xưa. Ngày xưa, hơn ba mươi năm trước, những ngày hè, ngày Tết vắng nhau, Trầm ra chợ tìm tôi, chớ tôi chưa đến nhà của Trầm. Nhà của Trầm, cũng như bao nhiêu nhà sàn khác ở làng, tất nhiên không có nhà nào giống nhà nào.

Nghe có khách, từ trong buồng bước ra, thấy tôi, Trầm gọi đúng tên tôi:

- Trầm! - Tôi gọi tên người bạn xưa.

- Đã hơn ba mươi năm, tôi mới nghe lại tên Trầm.

Trầm kéo ghế, ngồi đối mặt với tôi:

- Đến xóm nầy hỏi tên Trầm mà người ta biết à?

Tôi kể cho Trầm biết, nhờ một người bạn học cũ mới biết tên mới của Trầm, cô giáo Chi.

Hơn ba mươi năm! Khác hơn những người con gái tôi gặp lại hơn ba mươi năm đi xa, Trầm thay đổi chẳng bao nhiêu. Những cô gái nhỏ ấy đã là mẹ của một đàn con, có cô đã có suôi gia, có cô đã có cháu ngoại, cháu nội, đã thành đàn bà hoặc một bà già. Họ thay đổi vì vắt sữa nuôi con. Còn Trầm, vẫn là một cô gái ngày xưa, một cô gái trở về già, vẫn vậy, nhưng héo đi. Cái mái tóc dợn song vẫn còn đó, trên vầng trán của cô. Trầm vẫn gọi tôi bằng tên như hồi xưa, hồi học trò.

- Tên thật của mình là Chi. Nhưng hồi đó vì quá tuổi, không được đi học, nên ba má mượn khai sinh của một cô người hàng xóm. Cô ấy tên Trầm, nhỏ hơn mình hai tuổi.

Chi lại kể tiếp:

- Sau nầy, cô Trầm theo đạo Hòa Hảo, mang lông công, đi ngựa, xông ra chiến trận, dữ lắm, đã chết rồi. Vì cái tên Trầm và cùng xóm nầy, nên có người tưởng là mình.

Tôi không gọi bạn gái nhỏ ngày xưa là Trầm nữa mà gọi đúng tên của cô.

- Bao nhiêu năm nay, Chi vẫn sống ở đây?

- Không! Có đi kháng chiến, có về Đồng Tháp Mười. Sau hiệp định Giơne, Chi trở về làng làm cô giáo, cũng là nơi đi, về cho anh em mình. Bây giờ, Chi vẫn là cô giáo.

Bây giờ tôi mới biết Chi lớn hơn tôi hai tuổi. Hèn gì hồi đó, trong tình bạn, Chi có nhiều cử chỉ tỏ ra là người chị của tôi. Áo tôi rách, Chi mang kim ra vá. Lúc tôi đi chơi, quần áo quấn nùi lại đó thì Chi đem đi giặt, thỉnh thoảng lại rầy la nữa.

- Mới đây mà đã hơn ba mươi năm. Ước gì mình được trở lại như ngày xưa!

Vẫn cái đôi mắt mở tròn ấy, nhìn tôi và nói, giọng xa xôi!

Kể lại cho chị tôi nghe chuyến đi thăm cô bạn học ngày nhỏ, chị tôi mới sực nhớ:

- Hèn gì, lúc nào qua đây, nó cũng hỏi thăm em. Chị có nói với em mấy lần, tại em không để ý.

- Vì chị nói là cô giáo Chi nên em không để ý.

- Gặp lại nhau vui không?

- Nghe nói cô giáo Chi từ đó đến giờ không có chồng?

- Ừ, không nghe nói gì chuyện chồng con.

- Sao vậy chị?

- Ôi! Chuyện đời con người ta, làm sao hiểu được. Nghe nói hồi kháng chiến, Chi có hứa hôn với một anh bộ đội nào đó, tập kết ra Bắc, sao đến nay vẫn chưa thấy về. Hy sinh hay là lấy vợ khác rồi, chẳng biết.

Vậy là cuộc đời của cô bạn học ngày xưa của tôi, cô giáo Chi, như bao nhiêu người con gái Việt Nam, chẳng khác gì cho lắm.

Tôi đã được gặp nhiều chị, hứa hôn với người đi tập kết ra Bắc, sống vậy, chờ đợi suốt hai mươi năm. Người chồng chưa cưới của mình hoặc vì hy sinh, hoặc vì không sao chờ đến hai mươi năm, đã rẽ bước, nên cả đời bị dở dang.

Chi! Như thế bạn gái nhỏ xưa của tôi là vậy.

Chuyện không bao giờ xảy ra, biết vậy, nhưng cũng có đôi lúc, tôi mơ tưởng, nếu ngày tôi xa Chi, tôi được mười tám hoặc đôi mươi tuổi thì cuộc đời của Chi đâu có lỡ dở.

Sống không thể thiếu ăn thì cũng không thể thiếu mơ tưởng...

Sau cái lần gặp Chi ở chợ, trở về, tôi bỏ hẳn nghề bán thuốc lá. Chị tôi khuyên:

- Mình nghèo thì đi buôn, đi bán chớ có ăn trộm ăn cắp của ai mà em mắc cỡ.

Tôi không dám nói thật với chị:

- Em đi lãnh thuốc về, quấn mướn cho người ta, cũng được tiền mà lại được ở nhà giúp chị.

- Em muốn vậy cũng được.

Tôi đặt cái bàn thuốc quấn ngoài thảo bạt, trên cái tấm đệm, dưới cái tủ thợ của cha tôi. Tôi ngồi từ sáng cho tới chiều, nhờ đó mà tôi nghe hết câu chuyện của khách đến chơi nhà.

Từ ngày cha tôi cho má tôi lên làng Hòa Hảo, cô Hai Thảo như được nước, ngày nào cũng lên chơi. Cô ngồi một chân để lên ghế, ăn trầu, xỉa thuốc, miệng nói xoen xoét. Chẳng biết cô đọc kinh sấm lúc nào mà thuộc làu làu, nói vài câu lại dẫn ra một câu sấm, câu giảng.

- Thầy tự xưng mình là thầy tu tức là thù Tây đó nghen.

- Sao không nói thẳng ra mà nói lái chi vậy cô Hai?

- Tụi mày nhỏ, chưa biết. Thời buổi nầy, Tây đang cai trị mình, nói thẳng ra sao được.

Cô nói những điều khác nhau giữa đạo Phật giáo Hòa Hảo của cô với tất cả các đạo khác.

Tu mà không mê tín dị đoan, không cần lên chùa, chỉ tu trong lòng mình, tu mà không cúng xôi, cúng gà, chẳng cho thầy chùa, thầy pháp ăn. Chỉ có nước lạnh, bông hoa với nhang thôi. Thờ thì không phải thờ tượng Phật. Chỉ thờ một tấm vải màu dà. Màu dà là màu thoát tục, tụi con hiểu chưa? Cũng gọi là “trần điều” nữa. Điều là đỏ, đỏ là màu Cách mạng của anh em mình đó. Đạo tu bốn cái nghĩa ân: ân Tổ tiên cha mẹ, ân Đất nước, ân Tam bảo, ân Đồng bào và Nhân loại.

Tu đền nợ thế cho rồi

Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen

Cô nói đạo với đời lẫn lộn, nghe rối beng. Những người đến chơi, trẻ già đều có, ngồi bệt dưới sàn gỗ, nhìn cái miệng “xoen xoét” của cô, miệng người nào cũng há hốc.

Có hôm như người lên đồng, vì say trầu hay vì quá hào hứng mà cái gò má của cô bừng đỏ như đánh phấn hồng, hai con mắt trợn tròn lên lung linh, cô thả chân bước xuống:

- Coi tao đây nè!

Rồi cô ra cả điệu bộ đốt nhang cho đến cách lạy Phật. Cô xá rồi cô quỳ...

Má tôi từ trên chiếc võng buồng trong cũng lọ mọ ra, ngồi xem. Và lần nào, trước khi về, cô cũng kết luận bằng hai câu:

Tu hành đâu có tốn xu (không tốn mà!)

Mà sau thoát khỏi lao tù thế gian! (Nghe chưa?)

Mỗi lần thấy cô đến nhà là cha tôi kiếm cớ đi vắng. Cha tôi không chịu nổi cái miệng “xoen xoét” của cô, nhưng không muốn mất lòng giũa bà con, với lại, nhà đang mượn lúa của cô.

- Cô Hai bây nó về rồi hả? - Bước lên nhà cha tôi hỏi. - Không uống rượu mà như con say, nó sắp điên hay sao á!

Trong làng không chỉ có một người như cô Hai Thảo của tôi, mà nhiều lắm. Ngày nào tôi cũng thấy họ từ miệt vườn kéo lên chợ, vào nhà của bà con. Đi đâu cũng gặp. Cô Hai Thảo vừa truyền đạo vừa nài nỉ, còn ông Tư tôi thì vừa truyền vừa hăm dọa.

Một hôm ông Chín Hết lên nhà, than với cha tôi:

- Thằng Điền của tao nó theo đạo Hòa Hảo rồi mầy Hai. Thấy nó dựng bàn thông thiên, dựng trang thờ, quần áo đem đi nhuộm màu dà, tao hỏi, tao rầy, tao nói với nó: “Mầy tưởng tao không biết tu sao. Bà tu, tao cũng tu, muốn tu thì tu như tao đây nè, tu làm gì cái đạo nhánh, đạo nhóc đó. Còn Đức Thầy, tao đã thấy hình rồi, đàn ông không ra đàn ông, đàn bà không ra đàn bà, nước da xanh lớt, cái mặt chết yểu, mầy theo làm gì?” Tao nói vậy, mầy biết sao không? Tao nghe nó hét lên một tiếng, tưởng như sét nổ bên tai, nó giận run lên như con thằn lằn bị đứt đuôi; nó nhìn tao, hai con mắt của nó, nếu mầy thấy, sợ lắm! Nó bắt đầu để tóc lởm chởm như cái đống chà. Cũng may, tao đẻ nó ra, chớ ngược lại, nó mà đẻ ra tao thì tao bị ăn một cái bợp tai rồi. Tu mà sao dữ vậy, tao không hiểu được. Mợ chú mầy thấy vậy, buồn lòng lắm, khuyên tao: “Thôi, ở xóm này, trang lứa như nó cũng theo đạo hết rồi, nó đứng ngoài một mình buồn chết, kệ nó”. Bữa sau, tao nghe cậu Tư mầy nhắn tao lên, nghe nhắn, tao biết chuyện gì rồi. Gặp nhau chỉ sanh chuyện. Tao mà nói mặt của Đức Phật Thầy là mặt chết yểu thì không phải ăn bợp tai mà bị ăn dao, tao mới nhắn ngược lại, dạo nầy, rẫy bọ sầu nhiều quá, không bỏ đi được. Vậy là trong dòng họ mình, chỉ còn có nhà mầy là đứng vững. Ráng mà giữ gìn mấy đứa nhỏ. Thời thế thật nhiễu nhương!

Một người nữa hay đến chơi nhà tôi là chú Ba Giáo. Bà ngoại của cha tôi với bà ngoại của chú là chị em ruột, bà ngoại của chú, tôi cũng gọi cố, cố Út. Chú nhỏ hơn cha tôi vài tuổi, và cũng vai em. Chú là niềm vinh hạnh cho dòng họ tôi và cho cả làng. Trong làng chỉ có chú học tới tú tài, được người làng gọi là tú tài Giáo. Đồn rằng chú nói tiếng Tây, cò Tây ở làng còn phải sợ. Người ta khen chú nói tiếng Tây như lặt rau. Người chú lịch sự lắm. Người cao ráo, mặt xương xương với vầng trán thông minh, áo quần luôn thẳng nếp, đẹp nhất là cái mái tóc, không dài cũng không ngắn, cái mái tóc bập bồng.

Chú sống ở Sài Gòn, thỉnh thoảng mới về làng, lần nào về, chú cũng đến chơi với cha tôi, hai người tâm đầu ý hợp lắm. Dạo ấy, sợ quân đông minh ném bom, cùng với một số người từ Sài Gòn về quê, chú trở về làng, và ngày nào cũng đến với cha tôi. Nghe nói, thỉnh thoảng chú có viết báo. Nghe chú viết được báo tôi đã phục rồi, mặc dù chưa đọc của chú bài nào. Nhờ chú mà tôi biết được đôi chút chuyện trên thế giới. Biết phát xít Đức, Ý với Nhật là phe Trục, biết chúng đang đánh ai, đã đến đâu và thua hay thắng. Biết chúng muốn gì.

- Tham vọng muốn làm bá chủ hoàn cầu. Tưởng đụng tới ai, đụng tới Liên Xô thì đời của nó coi như tàn. Lịch sử đã chứng minh, Napôlêông đó, bách chiến bách thắng, cuối cùng, đến cái đất băng tuyết của xứ Nga, đành phải tháo chạy.

Chú ngồi tréo một chân trên ghế sa lông gần vách đằng kia, cha tôi cũng ngồi tréo trên ghế sa lông gần vách đằng này, cách xa, nói với nhau. Có lúc chú rời khỏi ghế, đứng thẳng người, vừa nói vừa bước tới đến giữa thảo bạt, và vừa nói vừa ra điệu bộ, khiến tôi mê mẩn. Những câu chuyện của chú về đạo Phật giáo Hòa Hảo đều ngược lại những điều của cô Hai Thảo, như tranh gãi, nhưng hai người không bao giờ đối mặt nói với nhau. Có cô Hai Thảo thì không có chú, có chú thì không có cô Hai Thảo.

- Sau ngày khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 của anh em mình bị thất bại, thì đạo Hòa Hảo mới lan tràn. Lịch sử như qua một khúc quanh.

Chú ngồi tréo một chân trên ghế mà hai tay lại chống nạnh, đường bệ, tự tin. Rồi chú lại đứng dậy, bước tới, đưa tay chỉ vào ngực mình:

- Tôi là nhà báo, tôi thấy mình có bổn phận phải ghi nhận những gì đang xảy ra của lịch sử. Tôi đã tìm hiểu người sáng lập ra đạo Hòa Hảo rồi.

Chú rút trong túi ra một cuốn sổ tay, lật qua mấy trang:

- Tôi đã ghi như vầy. Người sáng lập ra đạo Phật giáo Hòa Hảo tên là Huỳnh Phú Sổ, sanh năm 1919, tức năm Kỷ Mùi, tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, là con thứ tư của ông Huỳnh Công Bộ, nên cũng gọi là thầy Tư Hòa Hảo. Ông Bộ là hương cả trong làng, cũng gọi là cả Bộ, nhà điền chủ.

Vẫn cầm cuốn sổ tay, nhưng chú không đọc nữa, nói thuộc lòng:

- Hồi nhỏ, học ở trường làng, thầy giáo là ông Phan Văn Khoái, người Sa Đéc, có vợ ở làng Hòa Hảo. Hết trường làng lên học ở Tân Châu, ăn cơm tháng tại nhà ông Huỳnh Văn Sánh. Bịnh, phải bỏ học trở về. Thuốc men không hết, cuối cùng mới đi tu, ở chùa Tây An trên núi Sam. Sau lại lên núi Cấm.

Rồi chú cười:

- Mấy người tín đồ Hòa Hảo ở làng mình, cũng trong vòng bà con chớ chẳng đâu xa, không bước ra khỏi nhà một bước, mà dám nói đến chùa Tây An. Nghe họ nói, mình tưởng là chùa nằm trên đỉnh núi thiêng nào, mờ mờ ảo ảo trong các tầng mây. Thầy tu luyện từ đó mà hạ san! Có phải đâu anh. Tôi đã lên đến tận nơi, tận chốn rồi.

Rồi chú kể lại với cha tôi chuyến “du hí” đến viếng chùa Tây An của chú. Chùa Tây An có xa xôi gì đâu dưới chân núi Sam, cách chợ Châu Đốc chừng năm cây số, con đường từ Châu Đốc dẫn vào núi Sam là con đường đá qua những cánh đồng... Núi Sam giống hình con sam khổng lồ phủ rêu xanh. Giữa cánh đồng, sau mùa gặt, rạ vàng tươi, núi Sam như nằm trên một tấm đệm. Núi Sam thuộc làng Vĩnh Tế, một cái làng của chùa miếu và đền thờ, có miếu Bà Chúa Xứ, có cả lăng của Thoại Ngọc Hâu - người đã đào con kinh Vĩnh Tế.

Chùa Tây An đứng xéo đầu bờ trên triền núi, trước chùa là cổng, cạnh chùa là tháp, sau chùa là vườn cây, tĩnh mịch âm u. Chùa có từ thời Thiệu Trị (1847), lợp bằng tranh, đã trăm năm. Bây giờ thì tường vôi, mái ngói. Trong chùa, hàng trăm cốt Phật được đặt trên các bàn thờ. Ở hậu đường, đặt ngay căn giữa, một bàn thờ lớn thờ một tượng cốt, mắt mang kính, cằm mọc râu thưa, khoác áo nâu sồng, mặt hiền từ... Đó là tượng của Phật thầy Tây An, Phật thầy Tây An là ai vậy? Tên thật của ông là Đoàn Minh Huyên, người ở làng Thọ Sơn, tỉnh Sa Đéc. Theo sử xưa ta thì Thọ Sơn là một thắng cảnh, bốn mặt làng đều có sông nước, làng như một cánh bèo đang phiêu bạt, trong làng cá lội, cò bay...

Cũng gần trăm năm trước, Pháp vừa mới cai trị nước ta, ông Đoàn Minh Huyên đến vùng Trà Bư, Xẻo Môn, Long Kiến nhằm lúc có bịnh tả. Người chết không sao kể xiết. Tiếng đồn, ông về đó, vừa truyền đạo, vừa trừ bịnh dịch cho dân. Dân chúng ngưỡng mộ ông, từ các nơi kéo đến. Nhà cầm quyên Pháp sợ ông “khua dân dấy loạn” nên bắt giữ ông ở chùa Tây An. Từ đó ông lập ra tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông chủ trương giản dị mọi hình thức tu hành để trở về nguồn với bản lai thanh lịch của Đức Phật. Không thờ Phật cốt, không gõ mõ tụng kinh, không cần phải cạo đâu trọc, áo vuông, không cần phải đi chùa, tu đâu cũng được, và phải nhớ bốn cái ơn lớn: ơn tổ tiên cha mẹ, ơn đất nước, ơn tam bảo và ơn đồng bào, nhân loại. Cái mả của ông chôn trước chùa, cái mả bằng như mặt đất, khác người. Ý của ông: người chết không nên giành đất của người sống. Cứ chôn bằng phẳng để người sống có đủ đất cày bừa trồng trọt.

Cha tôi gật đầu:

- Cái ý đó nghe được.

- Thời trẻ Thầy Tư đã lên trị bệnh và tu ở chùa nầy. Đến ngày trở về lập ra đạo Phật giáo Hòa Hảo, đã bắt chước như vậy.

Chú kết luận rồi trở lại ghế, ngồi tréo chân.

- Bắt chước có sửa đổi và có thêm, rất lợi hại - cha tôi nói. - Y gãi đúng cái chỗ ngứa của người cùng thời. Tự xưng là thầy tu tức là thù Tây. Con Thảo, cậu Tư mê cái tiếng nói lái đó lắm, đi đâu cái miệng cũng cứ “thầy tu, thù Tây”.

Cha tôi vốn ít nói thường chỉ lắng nghe, thỉnh thoảng đế vào một đôi câu. Có lẽ vì đã sống ở Nam Vang, nên lúc ở nhà, cha tôi thường vận chiếc xà rông tơ sọc vuông màu xanh đỏ và mặc áo thun ba lỗ. Ra đường, cha tôi mới mặc quần áo đàng hoàng. Chiều hôm ấy, chắc vì gặp lại chú Ba Giáo, người tâm đầu ý hợp cha tôi cũng trở nên sôi nổi. Khác hơn chú Ba Giáo, cha tôi vẫn ngồi yên trên ghế, chớ không bước tới, bước lui như chú. Cha tôi nói:

- Ông ta, con người chỉ có như vậy mà thiên hạ thêu dệt không biết bao nhiêu điều huyễn hoặc. Mới đây thôi, cũng không ai lạ, con Thảo, con của cậu Tư, lên đây, tại cái nhà nầy, nói rằng Nhật đã mời Thầy của nó tới, Nhật nó thụ bằng cách cho Thầy uống át sít. Thầy bưng cái chén át xít lên. Thầy biết, nhưng Thầy vẫn uống, uống như uống nước trà. Uống xong, Thầy vẫn ngồi đàm đạo với bọn chúng. Quân Nhật sợ quá, mới lấy kiếng hiển vi rọi lên ngực Thầy xem ruột gan Thầy có suy suyển gì không, thì chúng thấy trong ngực Thầy có ba ông Phật. Họ đặt ra như vậy mà vẫn có người tin được, chú Ba mầy thấy có lạ không? Nói thiệt với chú Ba mầy, tao không muốn gây xích mích với bà con làm gì, nhưng cái bữa đó, tao nghe, tức mình quá, tao mới bảo: “Nè Hai, nếu đúng là như vậy, thì em mời thầy đến đây - cha tôi vừa nói vừa đưa tay chỉ cái tủ thợ - át xít để thử vàng của anh kia, anh cho thầy em uống ba giọt thôi; chớ không cần uống tới một chén, xem miệng lưỡi với ruột gan của thầy em có cháy không cho biết”.

Nghe tao nói vậy, nó mới bảo: “Anh Hai sao cũng chứng nào tật ấy hoài, không biết chừng nào anh mới bỏ”.

Nếu tao mà không nói như vậy thì không biết chừng nào nó mới chịu xách nón ra về.

Chú Ba Giáo cười, cha tôi cũng cười, cả hai đều không cười ra tiếng, chỉ nhếch môi. Chú Ba Giáo lại hăng lên:

- Chuyện đồn đại vậy mà có ý nghĩa lắm đó anh Hai. Hoặc là họ muốn dựa vào Nhật để gây thêm thanh thế, hoặc là Nhật muốn dựa vào họ để nắm lấy tín đồ.

- Cả hai đều muốn dựa nhau.

- Đúng vậy! Họ đã bước vào con đường chính trị rồi đó, anh Hai! Theo tôi được biết thì bây giờ, đạo Phật giáo Hòa Hảo là cái túi đựng các phe phái chính trị người của Pháp, người của Nhật, bọn đệ tử cũng nhảy vô. Có một số đảng viên Cộng sản vì phải trốn tránh cái lưới mật thám của Pháp, Nhật, hoặc vì thất chí, hoặc vì muốn giành lại quần chúng, cũng đã vào đạo. Không hiểu cái cơ sự của đạo này rồi sẽ ra sao, anh Hai?

Câu chuyện bỗng dừng lại qua giọng nói buồn rầu của chú Ba Giáo.

Tôi lại cúi xuống cái bàn quấn thuốc, cái cây lăn trong tay tôi lăn đều, từng ba điếu thuốc rơi xuống manh đệm.

Chú Ba Giáo bỗng kêu lớn, giọng hốt hoảng:

- Chuyện gì mà người ta chạy rần rần vậy kia?

Tôi cũng chồm lên, nhìn ra. Ngoài đường, trước cửa nhà tôi và trên đường bên kia bãi cỏ, già có, trẻ có, đàn ông, đàn bà, từ trong các ngôi nhà túa ra đường, cắm đầu cắm cổ đổ ra chợ, vừa chạy vừa la. Tôi cũng định phóng xuống sân, thì cha tôi gọi giật lại.

- Chuyện gì lạ vậy, anh Hai?

Chú Ba Giáo hỏi với giọng lo lắng. Giọng của cha tôi bình tĩnh hơn:

- Cũng một tin đồn gì đó vậy thôi. Làng nầy bây giờ lâu lâu lại có một tin đồn, làm nhốn nháo cả làng. Cũng như hôm rồi, tàu chở lính Nhật ghé lại bến, có vài thằng lính Nhật đeo gươm lệt bệt đi lên chợ. Chỉ có vậy mà cả làng chạy lên xem, đồn là lính Nhật rút gươm ra, đòi lấy đầu thằng cò, trả thù cho dân An Nam.

Thấy người vẫn còn chạy trên đường, chú Ba vẫn chưa hết lo, hai tay nắm lấy hai thanh cửa, chân nhấp nhổm.

Tôi cũng không thể nào trở lại cái bàn quấn thuốc. Một chân vẫn để trên bậc cầu thang, tôi nhìn ra con sông qua khoảng trống. Người trong làng đang nhốn nháo, nhưng dòng sông vẫn yên tĩnh, những dề lục bình vẫn theo con nước trôi xuôi.

Một lâu sau, người ta lại lác đác trở về, và người trong nhà tôi vẫn chưa biết chuyện gì.

Trong số người trở về có chú Tư Khởi, ba của anh Hoàng đánh xe ngựa. Là người hàng xóm, nhưng chú ít sang chơi nhà tôi. Có lẽ cái nghề của chú với nghề của cha tôi khác nhau. Tôi để ý thấy chú chỉ đến khi có chú tôi ở nhà. Chú với chú Ba “cửa tủ” của tôi có vẻ tâm đầu ý hợp. Nhưng dạo này, dù chú tôi đi vắng, thỉnh thoảng chú cũng sang chơi. Chú cũng không vào đạo, nên gần gũi với cha tôi hơn.

Trong cái số người lác đác trở về, chú rẽ xuống đường, bước lên cây cầu khỉ bắc qua nhà tôi.

- Ai như anh Tư Khởi “xe ngựa” vậy, anh Hai?

- Nó chớ ai... Có nó thì thế nào cũng biết tin - Cha tôi đứa tay ngoắc - Vô mau Tư Khởi.

Chú Tư Khởi có cái tài bắn chim, cả làng ai cũng biết tiếng. Chú không bắn bằng sung mà bắn bằng giàng thun. Cái giàng thun của chú, đứa con nít nào thấy mà không mê. Cái nạng bằng căm xe, vừa đỏ màu gỗ, vừa bóng vì mồ hôi tay của chú. Hai sợi dây thun, không phải thứ dây thun ruột xe đạp của trẻ con đâu, dây thun bằng ruột xe hơi, dày và bề ngang bằng hai ngón tay của tôi. Tôi cũng đã từng cầm thử, tôi lấy hết sức cũng không thể nào giương nổi. Còn đạn của chú, chú vo bằng đất sét, viên nào viên nấy to bằng ngón cẳng cái. Chim sâu, chim sẻ, chim trao trảo, loại đó chú tha hết. Trên đường đi săn, nếu ai đem chim tới, đổi một con lấy một viên đạn của chú, chú cũng không thèm. Đạn của chú chỉ để dành bắn chim lớn, bắn con nào ra con nấy. Chú chỉ bắn chàng bè, gà đãi với hồng hoàng cao cát. Chú lặn lội trong đồng sâu, bắn những con chim đậu trên cây sao cao ngất. Chú chỉ nhắm ngay cái óc o của nó mà bắn, bắn như để. Mỗi lần chú đi bắn về là trẻ con hàng xóm rủ đến nhà chú; không chỉ có con nít chúng tôi, mà cả người lớn cũng đến xem chim. Chàng bè mỏ dài thượt, hai cái cánh của nó, nếu kéo banh ra, dài bằng sải tay của bọn con nít chúng tôi. Chú kể chú bắn những con chàng bè ấy lúc nó thả buồm trên mặt nước.

- Chàng bè thả buồm là sao chú Tư?

Chú kể:

- Chàng bè khi gặp một cái đầm nước, nó thả xuống, lật một cánh đưa lên trên, trông như cánh buồm vậy. Nó dùng cái cánh đó, bốc gió trôi đi...

Con cò thì không phải con cò nào chú cũng bắn. Chú chỉ bắn cò hương thôi.

Cò, thịt chẳng được bao nhiêu, toàn xương xóc, nhưng nó quý ở bộ lông ngực. Nếu ai bị đứt tay, đứt chân, chảy máu thì lấy cái lông của nó rịt vào vết thương, máu sẽ cầm ngay.

Hỏi về nghề săn chim của chú, chú nói, muốn bắn được chim lớn, phải lặn lội trong đồng sâu. Không để cho nó thấy mình. Gần tới nó, phải nhẹ chân, đầu phải đội cỏ, lúc trầm mình xuống nước thì phải đội lục bình, đội lá sen. Cốt yếu là không cho con vật thấy được con mắt mình. Với loài chim loài thú, mắt của con người sáng lắm, sáng như ngọn đèn xe hơi vậy. Thấy mắt người là nó rộ lên, bay hoảng đi.

Hèn gì, mỗi lần chú đi săn về, lần nào cũng thấy chú đội cái cát két có lưỡi trai thò ra khỏi trán thật dài, chẳng giống ai. Chắc là để che con mắt với loài chim?

Chú Tư Khởi, tóc loăn quăn đo đỏ như lông con ngựa Cu, lún phún một hàm râu quai nón, cái áo bà ba để hở bộ ngực đỏ au như ức chim và loắn xoắn một chùm lông.

Chú bước lên nhà tôi, chào chú Ba Giáo theo cái kiểu của chú, không bắt tay mà đưa tay nắm cái vai của chú Ba Giáo, cười há há. Với tôi thì chú xoa đầu, với cha tôi thì chú cười và lắc đầu:

- Thời buổi lộn xộn quá, anh Hai. Nghe tin gì thằng Ba “cửa tủ” không anh Hai?

- Nó vẫn ở bên Đốc Vàng.

- Nghe nói ảnh sắp về.

- Sao chú biết?

- Thời buổi này, trước sau gì ảnh cũng phải về. Tôi nghe nói như vậy.

- Chuyện gì hồi nãy vậy anh Tư?

Chú Ba Giáo vẫn sốt ruột. Chú Tư Khởi ngồi vào ghế, nhìn ra mặt đường và con sông.

- Có chuyện gì đâu. Đang ngồi trong nhà, thấy người ta chạy ùn ùn, tôi cũng chạy theo. Mọi người chạy ra chợ, người này hỏi người kia, không ai biết chuyện gì với chuyện gì, ai cũng bảo, thấy người ta chạy, mình cũng chạy theo.

- Tôi nói có đúng không? - Cha tôi chen vào.

- Hỏi riết rồi cũng có người nói.

- Nói sao?

- Nói ông đạo Cậy vừa mới tới.

- Đạo Cậy nào anh Tư? - Chú Ba Giáo vẫn sốt ruột.

- Anh Ba mới về, chắc anh chưa biết. Lâu nay trong đạo Hòa Hảo người ta đồn, đã sắp đến ngày đổi đời, ngày đổi đời thì tối trời, tối đất ba ngày ba đêm. Trong ba ngày ba đêm tối trời đó, hùm beo từ trên rừng sẽ xuống, sấu từ dưới nước sẽ lên. Hùm beo với sấu sẽ tha, sẽ bắt những người nào không vô đạo Hòa Hảo. Tới ngày đó ông đạo Cậy sẽ biến thành sấu. Người ta đồn là bây giờ, cái ót của ông đạo Cậy đã có vảy rồi. Vì vậy mà người ta chạy người ta xem. Rần rần chạy ra chợ, thì nghe là ông đã ra bến xe, lại rần rần ra bến xe. Ra bến xe thì có người nói là ông ta vừa lên xe ngựa đi rồi... Nếu người nào cũng có ngựa thì ngựa sẽ chạy lở hết mặt đường. Chuyện nghe lãng nhách, tức quá tôi mói nói: tôi mà gặp được ông đạo Cậy, tôi sẽ đè cái ót của ông xuống tôi giật vài cái vẩy chơi cho biết. Mấy người theo đạo Hòa Hảo họ nhìn tôi, lừ lừ như muốn nuốt sống tôi. Cái thời thế này, hết biết.

Cha tôi nối lời:

- Từ trước tới nay, nói tới ma là để nhát con nít, bây giờ người ta đem ma, đem quỷ ra nhát cả người lớn.

Rồi cha tôi kể với chú Ba Giáo về các tin đồn. Người trong đạo họ xầm xì với nhau: trong ba ngày ba đêm tối trời, tối đất ấy, bọn quỷ dương (1) sẽ nghễu nghện đầy đường. Chúng đi qua từng nhà, gọi tên từng người. Nếu ai lên tiếng thì bị chúng hốt hồn. Đức Thầy có dạy, nếu nghe nó gọi thì một người, người ấy phải là đàn bà, cầm một nắm giẻ rách mở cửa ra nói “Người của nhà tôi đã đi rồi, cho tôi gởi theo bó quần áo” rồi đưa nắm giẻ rách ấy cho quỷ, vậy là thoát.

Chú Tư Khởi nghĩ gì, ngửa mặt cười tiếp:

- Còn nữa. Mấy ngày đó, nhà không được nổi lửa nấu cơm. Cho nên người trong đạo họ xầm xì với nhau: Thầy dạy phải làm bánh tô, phải phơi cơm khô để ăn. Vậy là cả làng ai cũng xay gạo phơi cơm. Vợ tôi thấy vậy, cũng bày đặt phơi cơm, ngâm gạo để làm bánh tô. Tôi hét cho một trận, bả mói nói: “Mình không tin nhưng lỡ có thì cũng có cái để ông với mấy đứa nhỏ nó ăn. Nếu không có thì cũng còn đó, mất đi đâu?” Có người không tin nhưng vẫn sợ đó, chú Ba. Họ cũng lại xầm xì, lại rỉ tai: sau ba ngày đó thì núi Cấm sẽ nổ ra thành lâu đài của nhà vua. Thầy của họ sẽ trị vì thiên hạ. Người nào theo sẽ được Thầy rước về xem hội Long Hoa, có rồng bay phượng múa, nghe mà mê. Còn người nào không theo đạo thì hùm tha, sấu bắt, nghe mà lạnh đến xương khu.

Bây giờ, ngủ giựt mình thức dậy, họ mở miệng ra là Thầy, Đức Phật Thầy. Cái đám bà con của tôi ở ruộng ra chơi, lúc nào cũng thầy, thầy, tôi phát nổi nóng, tôi nói: “Nêu bây thấy thầy của bây đi ỉa mà thơm thì hẵng tin là Phật sống, còn như thầy bây mà cũng như tụi bây thì đừng có tin”.

Nói xong, chú bật cười, cười khậc khậc, cười rung cả lông ngực, bắt mọi người phải cười theo...

Đêm hôm ấy, dù trời đang giông mưa, dù cho nhà cửa ở trong làng với ngọn đèn nhỏ nhoi như hột đậu và le lói bị chìm ngập dưới bóng tối âm u của mây khói đen, dù cho dòng sông đang ầm ào nổi sóng, dù cho cây, cho lá trong vườn ngả nghiêng rơi rụng trong cơn giông, qua câu chuyện của chú Ba Giáo, chú Tư Khởi và cha tôi, tôi không còn sợ bóng đêm nữa. Tôi không còn sợ những con quỷ hình thù kỳ dị, thân người mặt ngựa với đầu trâu, rách rưới lang thang, với cái giọng kêu tên người đến rởn óc, cũng không còn sợ những con hùm, con beo rằn rện từ trên rừng tuôn xuống với những con sấu từ dưới đáy nước trôi lên, bươn bả leo lên bờ vây lấy quanh tôi.

Một mình tôi, tôi dám mở cửa, đứng trước bậc thang để chờ xem một trái xoài rụng, và dám nhìn thẳng ra con sông, dám ngửa mặt nhìn lên trời, xem những đám mây khói đen từ đâu kéo đến để đoán cơn mưa, và biết tìm những vì sao qua những khoảng trống của đám mây. Trên xa kia, vẫn nhấp nháy những vì sao.

Và mây đen, qua một cơn mưa, mây sẽ tan. Còn những vì sao kia, trên trời cao, thì mãi mãi đời đời...

* *

Chú Ba tôi về. Bà nội tôi chỉ có hai người con trai, cha tôi với chú tôi. Có lần chị tôi hỏi:

- Sao bà không đẻ thêm con gái cho tụi cháu gọi bằng cô?

Bà cười:

- Sao không nói trước? Mà thôi. Con gái ăn cơm nguội, ngủ nhà ngoài, đẻ làm gì cho cực cái thân của cô con.

Cha tôi tên Thành, chú tôi tên Công. Nhưng ít khi nghe ai gọi cha tôi với chú tôi bằng tên. Cha tôi được gọi là Hai thợ bạc, chú tôi là Ba “cửa tủ”. Chú tôi làm thợ mộc, bàn tủ giường ghế, cái nào chú cũng đóng được, nhưng cái món nghề giỏi nhất là nghề làm cửa tủ. Cánh cửa tủ do chú tôi làm khéo hơn tất cả những tay thợ ở trong làng. Cánh cửa tủ do tay chú tôi làm, mở ra đóng vô nghe vừa êm, vừa khít, không thể nào nhìn thấy được khe hở, cái đường khe nhỏ như sợi tóc, tưởng như miếng ván liền nhau. Khi cái cánh cửa tủ đóng lại, người ta nghe được cái tiếng gió dội ra, rất êm tai. Góc và cạnh của cửa tủ, chú tôi không bào bằng cây bào thường của các tay thợ thường dùng, mà chú tôi mài nó bằng mảnh chén kiểu, và chú tôi vuốt lại bằng tay, rất công phu. Vì thế mà chú tôi nổi tiếng là Ba “cửa tủ”. Tay nghề đang giỏi đang đắt hàng, bỗng dưng chú bỏ nghề. Chú chuyển một nghề khác, cũng nghề mộc nhưng rất tầm thường. Chú sắm một bộ đồ nghề, đựng trong một cái túi, khi mang trên vai, khi buộc trên yên xe đạp, đi chỗ này chỗ nọ, sửa bàn, sửa ghế. Có người hỏi chú, chú bảo chú không thích ngồi một chỗ, chú thích đi đây đi đó, cho biết. Nhỏ hơn cha tôi ba tuổi, nhưng trông chú có vẻ già hơn và khắc khổ hơn cha tôi. Lúc chú đi chẳng biết chú ở đâu, ở nhà ai, khi chú về làng thì chú ở nhà tôi, ngủ trên chiếc ghế bố, ngoài thảo bạt. Tôi thấy cha tôi vừa thương yêu, vừa nể trọng chú. Chú ít nói, thường ngồi một mình, trầm ngâm nghĩ ngợi đâu đâu, thỉnh thoảng mới nói với cha tôi một vài điều.

Chú đi biệt tăm từ năm làng bị lính Tây đốt và bắt người đày đi Côn Đảo. Nghe nói chú đã qua ở bên kia sông và đã cưới vợ rồi, tận trong ngọn. Vậy là gần bốn mươi chú mới lấy vợ, rất muộn. Bà nội mất (cuối năm 1944) chú cũng không về. (Sau này tôi được biết chú đi hoạt động cách mạng, chú cũng đã học thêm chữ của thầy Châu Văn Liêm).

Chú gõ cửa sau vào lúc nửa đêm. Hình như cha tôi vẫn thức để chờ chú. Vừa có tiếng gõ cửa, cha tôi đã choàng dậy. Nhà không thắp đèn. Tôi thấy hai cái bóng, cái bóng cao cao là cha tôi, cái bóng thấp hơn là chú.

- Nghe tin má mất mà em không về được.

- Thím khỏe không?

- Cũng như em, lặn lội đó đây. Bịnh tình của chị Hai có đỡ được chút nào không, anh Hai?

- Càng ngày càng trầm trọng, nan giải lắm.

- Cho em thắp ba cây nhang em lạy má. Mặt trận Việt Minh ra đời rồi. Cũng sắp rồi, anh Hai! Huỳnh Phú Sổ sắp về đây diễn thuyết. Trên phái em về luôn.

- Gặp Tư Khởi chưa?

- Tư Khởi qua sông đi bắn chim, đón em về.

Ba đốm lửa của ba cây nhang đưa lên đưa xuống trước bàn thờ ông nội, bà nội tôi...

Hai ngày sau, đúng như lời chú tôi nói, Huỳnh Phú Sổ về làng. Người trong đạo dựng một khán đài cao bằng cây sao giữa sân banh, sau nhà tôi.

Sáng sớm, chưa mở mắt dậy, tôi đã nghe tiếng người qua lại trên đường bên kia cây cầu khỉ nhà tôi, và tiếng vó ngựa chạy ngược chạy xuôi với tiếng kèn bí bo. Dưới bến, nào xuồng cui của người vượt sông, nào xuồng ba lá của xóm đồng, nào ghe có vẽ hai con mắt cá, đậu hai ba lớp.

Xe ngựa từ Long Xuyên qua, từ Chợ Mới xuống, từ Cái Tàu, Sa Đéc chạy lên, xe nào cũng xếp mui, đầy người. Xe đậu chật bến, đậu dài theo các con đường ra chợ. Người là người, không ai giống ai, nhưng lại giống nhau, đầu bới tóc và quần áo màu dà. Người đi chật đường, đi tràn lên cả lề đường, đi dọc theo các bãi cỏ. Chỉ có một màu, màu cánh con gián. Người với màu con gián nhấp nhô, cuồn cuộn đổ ra sân banh chờ chực đón Đức Phật Thầy. Cái thảo bạt nhà tôi tưởng có thể sập vì người. Bà con dòng họ tôi, những người theo đạo, ông bà cô chú, cả những đứa thuộc vai em, kẻ ngồi người đứng, áo quần cũng một màu cánh gián, người nói, người niệm Phật. Ông Tư tôi ngồi đó, giữa nhà, trên ghế, bệ vệ, đầu chải láng. Cái đầu tóc sau ót đã lớn bằng cái kèn bi bo của chiếc xe ngựa, bệ vệ oai phong với bộ ria mép vểnh ngược lên. Và hai con mắt. Hai con mắt mở tròn, như có một ngọn lửa đang cháy.

- Nghe tao dặn. Không phải chỗ nào, làng nào Thầy cũng tới, cũng không phải tín đồ nào cũng gặp được mặt Thầy, có người lên đến tận nơi mà cũng không được gặp mặt Thầy. Thầy đã xem xét, đã lựa chọn. Làng này có phước lớn. Nghe tao dặn, cho nên khi Thầy tới thì dù đứng đâu cũng phải quỳ xuống, lạy Thầy. Khi Thầy nói thì phải vểnh hai cái lỗ tai lên mà ghi nhớ lời của Thầy, nghe chưa?

- Dạ... ạ... dạ...

Cô Hai Thảo ngồi để một chân trên ghế, đưa tay xỉa cục thuốc để qua một bên, khiến cho cái mép môi trên như sưng lên, đế thêm:

- Ông Tư dặn bây nghe chưa?

- Dạ... nghe...

Ông Tư mặt vênh vênh nhìn lên tự đắc, còn cô Hai, cô nhìn xuống đàn con cháu, vẻ hài lòng lắm.

Theo lịnh của cha, chị em nhà tôi nhường nguyên cái thảo bạt cho bà con có đạo, chị em tôi rúc vào trong. Chỉ có tôi tò mò, thỉnh thoảng lại ló đầu ra cửa, khi tôi thấy ông tôi quay lại thì tôi thụt vào, nhìn ông qua kẽ vách. Tín đồ từ những nơi xa, nào chèo nào chống, đến làng tôi từ lúc gà mới gáy, mà đến xế chiều Đức Phật Thầy mới đến. Người ta vào sân banh, chiếm chỗ ngồi chờ, mở mo cơm ra ngồi ăn tại chỗ, dưới bãi cỏ.

Quả thật là tôi không thể biết Đức Phật Thầy đến làng tôi bằng đường nào, từ Sa Đéc lên, từ Long Xuyên qua, từ Chợ Mới xuống hay là từ trên trời rơi xuống. Tôi chỉ biết, bà con tôi bỗng từ trên thảo bạt tuôn xuống cầu thang, chạy ra sau hè nhà tôi, và những người ở chợ ùn ùn kéo vào sân banh. Tôi cũng phóng xuống cửa sau, chạy ra hàng chuối sau hè nhà. Sân banh đã đầy người, không phải chỉ đứng, chỉ ngồi bọc vòng theo sân như khi coi đá banh mà đứng chật cả bãi cỏ, từ dưới chân khán đài tràn ra vô đến tận lùm cây bụi chuối sau hè của cả xóm nhà dọc theo sân banh.

Người chật như nêm, tôi không thể nào len vô nổi. Tôi nhìn lên khán đài từ xa, cách hơn hai trăm thước. Tôi thấy người mà tín đồ Phật giáo Hòa Hảo gọi là Đức Phật Thầy, ông Huỳnh Phú Sổ, bước lên khán đài. Ông mặc quần áo trắng, áo vạt hồ màu cánh gián, tóc chấm ngang vai chẳng khác gì một cô gái. Khi ông bước lên từng bậc thang lên khán đài, người trong sân banh bỗng dậy lên, mỗi người mỗi giọng, không thể nghe rõ được người ta nói gì, rào lên như một cơn mưa.

Khi ông xòe một bàn tay đưa lên ngực thì bỗng lặng như tờ. Khi ông cúi chào thì tất cả những con người lô nhô với quần áo màu cánh gián ấy đều quỳ xuống, mạnh ai nấy lạy. Và tiếng niệm Phật như một cơn mưa đổ xuống mái nhà.

Trong số những người ở chợ đứng lấp ló sau hè nhà tôi, có một người bỗng kêu to:

- Coi kìa! Đĩ nó cũng lạy thầy! - Người ấy đưa tay chỉ mấy cô gái mặc áo trắng đang quỳ ở xa xa cái vòng người áo quần màu cánh gián.

- Hỡi thiện nam, tín nữ! - Tiếng của ông vọng tới và tôi chỉ nghe được có như vậy. Ông nói gì nữa, tôi và người ở quanh tôi không còn nghe gì được vì những tiếng lào xào của hàng ngàn tín đồ đang vây quanh ông.

Không lâu lắm, ông xòe một tay đưa lên ngực, cúi đầu chào bốn phương. Cái khối người quần áo màu cánh gián lại rào lên, chuyển động như một dòng nước xoáy.

Tôi liền chạy theo những người đứng bên tôi túa trở ra. Họ lại tràn lên cái thảo bạt nhà tôi, nhìn ra đường. Một lát sau, ông Huỳnh Phú Sổ ngồi trên một chiếc xe ngựa, một con ngựa bạch, không biết là xe của ai, xe sau là chiếc xe chở đầy đoàn tùy tùng của ông, chạy trên con đường qua cửa nhà tôi. Chiếc xe của ông như chạy giữa dòng người của tín đồ... Có một tốp người chạy trước, không phải ngồi trên xe mà chạy bằng hai chân, người chạy dọc theo hai bên lề, và sau là mật đoàn người cắm đâu cắm cổ chạy theo xe của ông.

Người người từ trong sân banh lại đổ ra bến sông, ra bến xe. Không mấy chốc mà sân chợ và các con đường ra chợ vắng hoe.

Lúc vắng vẻ này, người ta mới thấy lại con sông. Con sông mang theo những dề lục bình trôi qua, êm đềm.

Chú thích:

(1) Quỷ vương, nói chệch âm