- 8 -
Buổi sáng, cái thảo bạt nhà tôi chật người mộ đạo. Chiều lại, cái thảo bạt nhà tôi lại chật người chống đạo. Trong số ấy có cha tôi, chú tôi, chú Ba Giáo, chú Tư Khởi và một người ở xa mới về... Người ấy không phải là người trong dòng họ của tôi, nhưng gốc gác là người làng, mở tiệm chụp hình ở Tân Châu đã lâu. Vốn là bạn cũ của cha tôi và cũng lớn hơn cha tôi vài tuổi, nên tôi gọi bằng bác, bác Tám Bỉnh. Người bác thâm thấp, lại mập mạp, người bác cứ tròn tròn. Mặt tròn, mũi tròn, vai tròn, tay cũng tròn. Mắt lúc nào cũng mang kiếng, hai cái mặt kiếng (tất nhiên) cũng tròn. Tôi không lạ gì bác. Vì mỗi năm bác và cả gia đình đều về thăm mả ông bà, và lần nào cũng đến chơi với cha tôi.
Tôi vừa quấn thuốc, vừa nghe chuyện.
Tôi thấy bác hay đưa mắt nhìn xuống cái bàn quấn thuốc của tôi. Bác nói:
- Tôi từ Tân Châu về đây là có ý để nghe ông Huỳnh Phú Sổ nói gì, nhưng không làm sao xáp lại gần, tôi chỉ nghe có câu đầu “Hỡi thiện nam tín nữ”, với câu cuối cùng “Chào thiện nam tín nữ”, còn khúc giữa, cái gì, không nghe được.
- Tôi không nghe sót một lời - chú Tư Khỏi nói - tôi đứng ngay dưới chân khán đài chớ đâu. Ông ta kêu tín đồ đừng bỏ ruộng hoang, phải lo làm ruộng; tôi nói thầm trong bụng: muốn thành Phật cũng phải ăn, không thì thành Phật đói.
- Theo ý của anh Ba, anh thấy sao? - Chú Ba Giáo hỏi chú Ba tôi.
Chú tôi ngồi trên ghế sát vách, cũng ít nói như mọi khi. Tất cả đều quay nhìn chú, chờ chú nói:
- Theo tôi, chuyến đi này của Thầy Tư là kêu gọi tín đồ làm ruộng, chẳng qua là một cái cớ để che đậy cái ý đồ bên trong của ông ta thôi. Ông ta đi để tổ chức lại lực lượng.
- Đúng! Thằng Ba mầy nói đúng. - Bác Tám Bỉnh nói. - Tao cũng nghĩ vậy. Nhiều đêm tao tức, tụi mình chừng nầy tuổi mà thua một chàng trai trẻ. Mới có mấy năm mà trong tay có tới một triệu tín đồ, từ Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ lan dần ra khắp lục tỉnh. Nói trắng ra là chàng muốn làm vua. Tuổi nhỏ nhưng mưu lớn.
Tôi để ý thấy bác Tám Bỉnh luôn gọi Thầy Tư với giọng vừa coi thường vừa ghen, vừa tức. Bác nói tiếp:
- Có nhiều cái “tích tắc” lạ lắm, không biết ai dạy cho chàng hay là tự chàng nghĩ ra, chẳng biết. Ví dụ như vầy: lúc ở Sài Gòn, có một tín đồ kề cận, gốc là tên tướng cướp của Bình Xuyên, ngựa theo đường cũ, anh ta lại ăn cướp. Thầy gọi anh ta về, nói với tín đồ xung quanh là sẽ nghiêm trị. Thầy bảo sẽ giam tên tín đồ tội lỗi đó. Nhưng nhà giam đâu mà giam? Còng đâu mà còng? Thầy giam như vầy: Thầy lấy một sợi chỉ may quần áo của mình đây nè, rồi tự tay thắt thành một cái vòng, vòng vào cổ chân của tội nhân, còn đầu kia thì buộc vô cái cột giường. Chỉ có vậy mà tín đồ họ đồn một tên cướp võ nghệ đầy mình mà không bứt nổi sợi chỉ của Thầy. Họ còn thêm thắt, tên tướng cướp càng giãy giụa thì sợi chỉ càng siết chặt vào chân. Lại thêm một chuyện khác nữa. Sài Gòn bây giờ, người ta bỏ xe lôi rồi, lác đác mới có một vài chiếc. Vậy mà Thầy lục đâu ra một chiếc xe lôi. Đi đâu cũng đi xe lôi. Thằng kéo xe lôi của Thầy là một tín đồ vốn là một tay võ sĩ. Chỉ cái chuyện đi đường của Thầy cũng làm cho người ta để ý. Đúng là một tay mưu sĩ.
- Mưu sĩ như anh mà anh cũng sợ thua sao anh Tám? - Cha tôi hỏi.
Mọi người đều cười, bác đỏ mặt rồi cũng cười theo.
- Tao phải học Thầy. “Tích tắc. Tích tắc”. Làm gì cũng phải tích tắc.
Rồi mỗi người mỗi câu bàn về chuyến đi của Thầy Tư Huỳnh Phú Sổ. Chú Ba tôi nói câu cuối cùng, như câu kết luận buổi chuyện trò.
- Thầy là người lập đạo, nhưng bây giờ đã thành con cờ của các phe phái chính trị. Con người một khi đã trở thành một con cờ thì chỉ còn có việc phải đi dưới ngón tay của người khác, ông ta sẽ đi dưới ngón tay của Nhật, của Pháp hay là của ta? Không phải chỉ riêng ông ta, mà sau lưng ông ta, có cả một triệu người sẵn sàng tử vì đạo.
Chú Ba Giáo ngồi gật gù, nghĩ ngợi. Chú Tư Khởi ngồi lắc đầu than “thời thế thật nhiễu nhương”. Cha tôi ngồi lặng lẽ. Còn bác Tám Bỉnh thì như sốt ruột, bác đứng dậy nói như nói với mình:
- Tích tắc! Tích tắc!
Khi mọi người xuống cầu thang ra về, bác Tám Bỉnh còn ngồi lại bên cái bàn quấn thuốc của tôi, bác cầm cây thuốc ba điếu đưa lên vừa bóp vừa xem.
- Thằng nhỏ quấn khéo quá. Một ngày quấn được bao nhiêu điếu?
- Dạ hơn hai trăm điếu.
- Vậy là, một ngày cháu quấn hơn mười bao.
Rồi bác lẩm nhẩm gì đó, tôi không rõ. Bác quay qua với cha tôi:
- Thời buổi kinh tế nầy, tiệm chụp hình của tao cũng như cái tiệm thợ bạc của mầy, ế lắm. Tao mới xoay qua làm thuốc điếu, vừa cho mấy đứa nhỏ đi bán vừa đếm cho người ta. Thuốc tao chế không thua gì Cotab. Thuốc của người ta chế, hễ thơm thì đốt không cháy, hễ cháy thì không thơm, của tao vừa thơm, vừa cháy, bán chạy lắm.
- Anh chế bằng gì mà được vậy?
- Cũng không qua cái tích tắc. Hay là mầy cho thằng con mầy lên tao, tao trả công như người khác, cơm thì tao nuôi, sau này tao truyền nghề cho, về đây mà làm một hãng thuốc, không thì tao cho nó một phần hùn.
Bác quay qua tôi:
- Vậy được không con? Lên ở với bác cho biết chợ Tân Châu. Chợ Tân Châu là chợ quận, không như cái chợ làng này đâu, lớn lắm.
Tôi không dám trả lời, chỉ nhìn cha tôi. Bác lại quay sang cha tôi:
- Hai, mầy nhắm coi, nếu được, cho mai xuống tàu, đi luôn với tao.
- Anh để tôi tính lại.
- Ừ, tính lại đi.
Nếu ông Huỳnh Phú Sổ không về làng tôi diễn thuyết thì tôi không đến nỗi phải xa nhà giữa lúc má tôi đang đau ốm.
Như chú Ba tôi nói, sau khi ông lên khán đài diễn thuyết kêu gọi tín đồ không nên bỏ ruộng hoang, thì sau ngày ông đi chẳng thấy ra ruộng, đất vẫn cứ bỏ hoang, cỏ mọc um tùm, chuột đồng mỗi ngày một nhiều, cắn phá cả ruộng không để đất hoang.
Đêm đêm, những tín đồ họp lại từng nhóm, từng nhóm, họ lấy sân đình, sân phơi lúa làm nơi tập võ. Trẻ già, trai gái, ai là tín đồ Phật giáo Hòa Hảo đều ra sân tập. Người nào cũng hăm hở. Đầu xóm, giữa xóm, cuối xóm, chỗ nào cũng sân võ, họ tập huỳnh huỵch từ đầu hôm cho tới khuya. Họ tập dưới trăng, không có trăng thì tập dưới ánh đuốc, thật rầm rộ.
Trong lúc đó thì ở chợ, Thanh niên tiền phong xếp thành hàng, tập đi một hai, cũng rầm rộ trên các mặt đường. Và lại có một số người khác, không tập võ, không tập đi một hai, cũng nhóm thành từng nhóm, cũng rậm rịch nhưng âm thầm.
Ông Tư lại nhắn tôi xuống để vừa học võ (như người ta) vừa biên chép giấy tờ giúp ông. Nghe đâu ông đã làm tới chức phó ban trị sự của đạo.
Cha tôi tìm cách từ chối, còn tôi thì trốn. Trốn đâu, cũng chỉ trốn lẩn quẩn trong nhà, và tôi bị ông bắt tại chỗ, lúc tôi đang ngồi quấn thuốc. Ông lên nhà tôi vào buổi trưa, không ai để ý. Người nào muốn vào nhà tôi cũng đều đi từ trên đường và phải qua cây cầu khỉ. Mấy lần ông hoặc cô Hai Thảo tới, vừa bước chân lên cây cầu thì trong nhà tôi đã có người thấy rồi, vậy là tôi ra cửa sau, ra hè, vòng qua nhà khác, tuốt luôn ra chợ. Lần này, ông đi từ sau hè nhà, từ cửa sau ra cửa trước.
- Ông Tư!
Vừa nghe chị tôi kêu thì ông đã đứng trước mặt tôi rồi. Ông nhìn tôi, hai con mắt lừ lừ, cái ria mép vểnh ngược lên, hai cái đuôi ria nhọn liễu.
- Nói với thằng cha mầy, mai xuống đội lúa về ăn. Còn con, mấy lần ông cho cô Hai tìm con, con đi đâu?
- Dạ, con đi giao thuốc cho chủ, ở ngoài chợ.
- Nói thằng cha mầy, - ông Tư nói, - từ nay về sau con không vấn thuốc mướn nữa, nghe chưa! Xuống ông, ông nuôi. Chiều nay phải xuống, coi người ta học võ.
Nếu không vì mấy giạ lúa chắc cha tôi không cho tôi đi và cũng không muốn đi xem người ta đánh võ. Đứa con nít nào mà không thích xem đánh võ với học võ? Nhưng học võ rồi phải để tóc theo đạo thì tôi không muốn một chút nào.
- Con ráng đi một lần cho ông Tư khỏi giận, con! - Má tôi bảo tôi. - Con mà không đi thì mấy em con nó đói.
Cơm chiều xong, tôi leo lên chiếc xe ngựa xuống nhà ông. Cái sân của nhà ông, chỗ mà bà cố tôi vừa thơ thẩn vừa lần hột chuỗi, đã trở thành sân dạy võ. Tôi gặp nhiều người, nhiều chị, nhiều bạn xóm vườn mà mỗi ngày nghỉ hè tôi được họ rủ đi chơi, đá banh lá chuối, đào hang bắt dế, hớt loăng quăng nuôi cá lia thia, đi tắm sông, mò ốc gạo, trèo cây bẻ trái. Những người chị gái mà tên mới nghe một lần cũng đủ nhớ suốt đời. Chị Thơm, chị Tho, với chị Thảnh, chị Thơi. Chị Thơm, chị Tho, chị nào mà mái tóc không thơm mùi bông bưởi. Chị Thảnh, chị Thơi, hai chị vác hai cái lồng ra vườn hái mận, hái ổi cho tôi, hai chị đi dài dài theo bò con mương vườn, trong bóng mát, chị nào cũng đủng đỉnh thảnh thơi lắm.
- Thằng Năm nó xuống kia! Vô đây em.
Chị nào gặp tôi cũng mừng. Có chú Nguyễn Đa Điền của tôi ở đây nữa. Đã lâu, tù ngày theo đạo, chú về ở nhà ông Tư tôi nhiều hơn. Chú vốn ít nói, trông lù khù, nhưng khi chú bước ra sân võ thì chú như thành một người khác. Khi tất cả các ngọn đuốc dựng lên rừng rực, chú bước ra, không một chút rụt rè, vai ngang, ngực nở, từng bước chú bước giữa vòng người, chú cúi chào rồi chú bái tổ. Bàn tay, chú uốn, chú lượn, cánh tay dịu dàng như hai con rắn đang vờn lên ánh đuốc, rồi chú quỳ, chú đứng, chú đá, vừa nhanh, vừa gọn, vừa mạnh, đá trước, đá sau, ạch đụi, liền tay liền chân và cái mặt của chú như giận ai, thù ai, trông dữ quá.
Hết con trai rồi đến con gái ra sân võ. Hai chị em chị Thơm, chị Tho tập đánh đao. Lại một cặp hai chị em chị Thảnh, chị Thơi tập đánh kiếm. Rồi bốn người chia thành hai cặp, đao kiếm đánh nhau. Bên chém, bên đỡ, rồi bên đâm, bên gạt, đao kiếm đánh vào nhau rổn rảng, vờn trước mặt nhau loang loáng.
Đánh võ xong, họ xếp thành hàng, rồi vừa đi vừa hát. Họ hát bài “Hòn vọng phu”.
Lệnh vua hành quân trống kêu dồn
Quan với quân lên đường...
Tôi cũng ra đường trở về. Về đến gần chợ thì tôi gặp từng tốp Thanh niên tiền phong xếp hàng đi “một hai”, cũng rầm rập trên đường. Tôi biết đạo Hòa Hảo với Thanh niên tiền phong không thích nhau. Nếu đánh nhau thì một bên đánh bằng võ, còn một bên thì đánh bằng đi “một hai”. Bên biết võ mạnh hơn nhưng tiếng hát của họ sao mà ảo não, nghe buồn đến đứt ruột, đứt gan. Còn bên đi “một hai” là dân chợ, họ yếu hơn nhưng tiếng hát của họ lại mạnh hơn: “Này thanh niên ơi, đứng lên đáp lời sông núi!” họ hát nghe như sóng dậy.
Tôi về đến nhà thì chị em tôi không còn ai thức. Chỉ còn cha tôi ngồi bên ngọn đèn thắp bằng mỡ heo, và má tôi đang ho.
- Dưới nhà ông Tư người ta đang làm gì?
- Dạ, người ta đánh võ.
- Võ?
- Dạ! Ông Tư bảo nói với cha má xuống lấy lúa.
- Cha không mượn lúa nhà ông Tư nữa.
- Cha mượn đâu?
- Chuyện đó để cha lo. Nếu chiều cha có ở nhà, cha không để con đi. Nãy giờ cha bàn với má con rồi. Cha cho con lên Tân Châu với bác Tám cho khuất mắt ông Tư con. Con ở nhà mà cha không cho xuống với ổng, mích lòng lắm. Cha dặn con một điều. Bác Tám Bỉnh là một con người mưu sĩ. Hồi bác lên Tần Châu lập nghiệp, Tân Châu đã có sẵn một tiệm chụp hình rồi, lớn lắm. Tiệm của bác mới mở, không bằng người ta. Để hại người ta, để làm cho người ta sạt nghiệp, bác mới mướn một thằng du côn, không phải mướn chém ông chủ kia, mà mướn người ta chém mình. Vậy là sáng hôm đó, bác ra ngồi uống cà phê ngoài tiệm nước, lúc đông người. Theo kế của bác xếp đặt trước, tên du côn đó bước vô, vừa giơ con dao ra kêu đỡ, thì bác cầm cái ghế đưa lên, đánh rơi luôn con dao của tên du côn, rồi bác nhào tới chụp con dao, hô hoán lên. Tên du côn bị bắt. Vô tù, tên du côn khai là ông chủ tiệm chụp hình kia mướn nó chém bác. Bác vừa trả công cho tên du côn vừa lo tiền cho tên du côn ra tù. Còn ông chủ kia, biết ất giáp gì đâu, phải chạy, phải lo, cuối cùng thì bị sạt nghiệp. Cho nên, lên ở với bác, con chỉ có một việc quấn thuốc mướn ăn công thôi, cái gì bác nói thì phải để ngoài tai. Bác bảo làm cái gì khác thì phải nhắn về hỏi cha, cha cho mới được làm. Cha dặn hờ vậy, chớ với cha, với gia đình mình, bác vẫn còn nể nang. Cha đã lật mặt bác một lần, chắc là bác còn nhớ đời. Có một lần gặp cha, bác hỏi: “Hai! Tao gởi cho mầy mấy lá thư, mầy được chưa, Hai?”. Cha biết, bác chỉ chờ cha trả lời là chưa thì tức khắc bác sẽ chưởi mấy người đi thơ, tại họ mà thơ bị lạc. Cha biết là bác không có viết, bác nói để lấy lòng cho vui vậy thôi, cha mới trả lời: “Anh viết cái nào tôi được cái nấy”. Biết bị lật tẩy, ngượng quá, bác chỉ biết cười, vừa cười vừa xin lỗi: “Nói xạo với mầy chơi vậy thôi, chớ tao với mầy thơ từ làm gì?”. Với ai thì cha không biết, với cha bác hãy còn nể, một là một, hai là hai. Cha dặn hờ con vậy, yên tâm đi.
- Dạ thưa cha, chừng nào thì con đi?
- Có tàu thì đi, càng sớm càng tốt. Sao con khóc?
- Dạ...
Ngọn đèn cháy hết tim, tắt ngấm. Cha tôi vẫn ngồi, còn tôi thì đứng, lặng trang. Lúc nãy tôi chưa khóc mà cha tôi lại hỏi sao tôi khóc. Bây giờ thì tôi khóc rồi. Rất may, cha tôi không nhìn thấy được nước mắt của tôi.
Tôi không đi tàu Sài Gòn - Nam Vang, vì chuyến ấy còn lâu. Với lại cha tôi sợ khi tàu cập bến Tân Châu, tôi có thể ngủ quên, hoặc vì ngớ ngẩn chưa biết, tôi có thể đi thẳng lên xứ lạ. Tôi phải đi trên chiếc ca nô Cao Lãnh - Tân Châu, hễ tàu cập lại bến chợ thì đó là Tân Châu rồi.
Trước đây, những lần tôi đi học, người đưa tôi ra bến xe là má hoặc chị và các em tôi. Lúc má tôi chưa bịnh, thỉnh thoảng má tôi lên thăm tôi, sau này người thăm tôi là chú Ba tôi, chú đi sửa bàn, sửa ghế đâu đó, tạt qua. Vì công ăn việc làm, cha tôi không có thời giờ đưa đón. Và tính của cha tôi vốn không thích cảnh chia ly. Nhưng lần này thì cha tôi đưa tôi ra tận bến lúc chợ vừa mới nhóm, chỉ nghe tiếng lao xao mà không thấy rõ mặt người. Ca nô chạy sớm để chiều kịp đến chợ Tân Châu. Chiếc ca nô nhỏ và dài như con cá liềm kiềm, cũng chạy bằng máy nhưng không có còi để xúp lê một, xúp lê hai mà thổi bằng tù và. Tù và tiếng của nó nghe “bun bun” buồn lắm.
Cha tôi dặn tôi lần chót: “Đi làm công thì chỉ biết làm công, bác bảo làm điều gì khác thì phải hỏi cha. Chuyện nhà yên ổn, cha sẽ nhắn con về. Đi đó đi đây cho biết. Thôi! Tù và thổi hiệp hai rồi, con xuống ca nô đi”.
Chiếc ca nô tách bến, tôi nhìn lại còn thấy bóng của cha tôi.
Chiếc ca nô chạy ngược lên dòng sông Cửu Long, cũng chạy cặp theo mé trong sương mờ, không dám chạy ra giữa dòng. Chiếc ca nô xình xịch rẽ sóng, qua từng cái bến nước, thỉnh thoảng lại rúc tù và gọi khách. Khi chiếc ca nô cập lại Doi Lửa cho khách xuống, tôi nhớ đến bà nội tôi, có lần bà cắt nghĩa cho tôi cái tên Doi Lửa. “Cái doi đó, hồi xưa, đêm đêm ông bà mình hay đốt lửa để canh phòng quân giặc”. Nếu bà tôi còn sống, không biết bà có theo đạo Hòa Hảo không? Chắc không! Và bà lại là chị của ông Tư, bà có đủ sức giữ tôi trong vòng tay, bà sẽ không cho tôi đi một mình trên chiếc ca nô giữa những người xa lạ này.
Mãi đến trưa, ca nô mới đến Vàm Nao. Người trong ca nô lạnh vì gió và chiếc ca nô nhồi lên hụp xuống vì sóng. Tôi chưa bao giờ thấy biển, Vàm Nao với tôi đã là biển rồi. Tôi cảm thấy ngợp vì cảnh mênh mông trắng xóa sóng bạc đầu và tiếng gầm thét của con sông. Rặng cây bên kia bờ chỉ là một vệt xanh mờ đường chân trời. Những chiếc ghe, chiếc xuồng ở phía bên kia nhỏ như những chiếc lá tre bập bềnh trên sóng. Bà tôi có kể, Vàm Nao ngày xưa là vùng nước cạn có nhiều cá mập. Ngày xưa, những năm chiến tranh, có những tàn quân tháo chạy qua đây, đã làm mồi cho cá dữ.
Khi chiếc ca nô quay mũi băng qua bên kia bờ, thì chuyện của xung quanh bỗng im bặt, chỉ còn tiếng máy, tiếng sóng xô vào và đâu đó râm ran tiếng niệm Phật. Một ông già ngồi bên tôi, nghĩ gì, nói với người bạn đường của ông:
- Thời buổi bây giờ, mình như chiếc xuồng giữa dòng nước xoáy, không vững tay lái, đời sẽ chìm mất.
- Mình muốn yên thân, người ta cũng không để mình yên, phải theo một bên mà không biết bên nào.
Nghe họ nói, tôi nghĩ, cha tôi cho tôi đi chuyến này như thể kéo tôi ra khỏi vùng nước xoáy.
Chiếc ca nô dài nhỏ vẫn nổ máy, đâm thẳng ngay đâu sóng, vượt Vàm Nao