- 9 -
Chợ Tân Châu cũng như chợ làng tôi, cũng bên bờ sông Tiền, cũng có con đường qua chợ tỉnh. Cũng phố lầu, cũng có bến xe ngựa, xe hơi và bến tàu nhưng lớn hơn chợ tôi nhờ nhiều phố, dinh quận và một cái nhà cao của ông Bang người Tàu. Nhưng tôi không thể vui vì xa nhà, vì đã trở thành người làm công cho bác Tám Bỉnh. Thằng Cường, con của bác, cùng tuổi với tôi. Mỗi năm theo ba má về thăm làng, đến chơi nhà tôi, tôi với nó là bạn, tôi với nó ăn cùng mâm, và tôi thường rủ nó đi tắm sông, dẫn nó xuống vườn trèo cây, hái trái... Nó với tôi vẫn vậy, nhưng bây giò nó là con chủ, tôi là người làm công. Nó vẫn cắp sách đến trường. Đến bữa ăn, nó ăn với ba má, còn tôi, tôi ngồi ăn với những đứa quấn thuốc... Người quấn thuốc trong nhà bác chỉ lớn hơn tôi một vài tuổi, là những đứa cháu, cháu gần bên nội, ngoại của bác. Đúng như bác nói, cái tiệm chụp hình của bác vẫn còn để bảng hiệu, vẫn còn hình mẫu của những chàng trai đầu chải láng và những cô gái đẹp treo đầu tường, nhưng đã dẹp tiệm rồi, không thấy ai đến chụp. Cái chỗ chụp hình ở lầu trên thành chỗ quấn thuốc, năm cái bàn quấn bằng gỗ cho năm đứa nhỏ.
Còn chỗ pha thuốc, chế thuốc là chỗ khác, trong buồng, không đứa nào được tới. Tôi quấn được nhiều hơn mấy đứa khác, không phải vì tôi giỏi, mà vì tôi ngồi bên bàn quấn luôn cả buổi trưa. Mấy đứa kia, hoặc đi ngủ hoặc đi chơi. Tôi cố làm để dành tiền gởi cho má, cho em.
Một hôm, bác Tám Bỉnh gọi tôi tới cái bàn giấy của bác đặt bên cửa sổ, bác đưa cho tôi một lá thư đã viết sẵn.
- Ở Nam Vang có một người đang thiếu nợ bác. Cháu lên Nam Vang, đưa cái thư này, rồi mang tiền về. Những ngày cháu đi vắng, bác vẫn trả tiền công cho cháu; đòi được tiền, bác sẽ trả thêm. Trưa mai có tàu cập bến.
- Dạ, để cháu hỏi lại cha cháu.
- Bác như cha cháu rồi, còn hỏi cha cháu làm gì nữa.
- Dạ, cha cháu có dặn, không được đi đâu, muốn làm gì khác phải hỏi.
- Thằng cha mầy nhát quá, bị vậy mà nghèo. Lấy được tiền, bác sẽ mở cái hãng thuốc lớn hơn, bác sẽ cho cháu một phần hùn. Được không?
- Dạ, Nam Vang là xứ khác, lạ, cháu không đi.
- Xứ khác nhưng cũng có người mình. Cha cháu hồi trước cũng lên làm thợ ở trển, bây giờ cháu cũng lên ngay ở chỗ đó, tiệm vàng “Trái tim đỏ”. Thợ thầy ở đó, ai mà không biết cha cháu. Cháu chỉ nói cháu là con của Hai Thành thợ bạc, thì người ta sẽ coi cháu như con, như cháu. Được chưa?
- Dạ, để cháu hỏi lại cha cháu.
- Đã bước ra đời kiếm miếng ăn rồi thì phải biết tự lập con à. Chuyện gì cũng nhắn về hỏi cha hỏi mẹ thì còn gì cơ hội nữa. Sao?
- Dạ, khi nào cha cháu cho rồi, cháu đi.
- Thôi được, cháu không dám đi thì để bác sai thằng Cường đi.
Tôi biết bác giận nhưng tôi không thể cãi lại lời dặn của cha tôi.
Bác nói vậy chớ bác nào có sai thằng Cường.
May cho tôi biết bao, nếu đi chuyến đó thì tôi sẽ lưu lạc tới tận đâu, ở xứ người. Vì cái chuyến tàu Nam Vang - Sài Gòn ngày hôm sau là chuyến cuối cùng. Giữa hai nước không được quyền qua lại thông thương nữa. Có biết bao người bị kẹt ở trên đó, bơ vơ không nhà, không cửa.
Tôi tự biết thân, nên ít khi cho bác gặp mặt, dù ở cùng một nhà. Mỗi lần thấy bác là tôi cúi gằm mặt xuống cái bàn quấn thuốc.
Nhà bác còn một chuyện lạ nữa. Tôi tránh vỏ dưa thì gặp vỏ dừa. Bác cũng đang lập đạo. Đêm nào cũng cầu cơ. Mấy đứa nhỏ khác, đêm nó về nhà, có lẽ vì tôi ở lại nhà, nên đêm nào tôi với thằng Cường cũng phải ngồi lạy. Cái bàn cầu cơ hình chữ nhật, ngang bốn tấc, dài năm tấc. Miếng ván bàn cầu cơ theo bác nói là miếng ván hòm của con bác, đã chết từ lâu, phải đào mả lấy lên. Con gái đầu lòng của bác chết lúc còn trinh, hồn rất thiêng, chị tên Huyền, khi hiện về tự xưng là Huệ Huyền Cô đã đắc đạo, hiện về bảo bác nên lập đạo. Trên miếng ván của bàn cầu cơ là miếng giấy, một bên là chữ không, một bên là chữ có, dưới là vần a, b, c đủ hai mươi bốn chữ cái, chữ in, mực tím, chữ to bằng con ốc bươu. Trên nữa là một miếng kiếng đặt ở giữa. Mỗi khi cầu cơ, vái lạy xong, thì hai ngón tay của hai người đặt lên trái tim. Khi hồn về, trái tim sẽ chạy, sẽ đưa cái mũi nhọn của trái tim chỉ từng chữ; đủ một tiếng nói, trái tim lại lùi xuống, rồi lại chạy tới từng chữ cái khác. Cứ theo đó ráp lại thì đó là lời của hồn về. Hai ngón tay của hai người đặt lên trái tim, một là ngón tay của bác, hai là ngón tay của một người cùng lứa tuổi với bác, mặt thon, đầu lúc nào cũng chải mướt, làm nghề buôn bán vàng, thằng Cường gọi bằng chú Chín. Bác cũng có một số tín đồ, dân buôn bán ở chợ. Những tín đồ của bác đến cầu cơ đều xin được gặp người thân đã mất. Người nào cũng đem những thức ăn mà người chết lúc còn sống hay ăn, thích ăn.
Bác Tám với chú Chín (đã tắm rửa xong) ngồi xếp bằng trước bàn cầu cơ, hai người đặt ngón tay trỏ lên trái tim; người nào xin cơ thì thắp nhang, niệm Phật, rồi tất cả, người nào có mặt cũng quỳ lạy. Tôi chẳng cầu ai, cũng phải lạy. Lạy xong, ngồi im chờ.
Một lát, cái trái tim bắt đầu nhúc nhích, vậy là hồn đã về. Rồi trái tim quay tròn như hồn đang vui mừng đến cuống quýt được trở về. Sau lúc mừng rỡ, mũi trái tim bắt đầu chỉ từng chữ cái, xưng tên mình là ai, cả họ lẫn tên. Người xin cơ nghe được tên của người thân xúc động đến ứa nước mắt, có người khóc òa lên rồi vừa nức nở, vừa hỏi. Mũi trái tim lại chạy đến từng chữ cái, trả lời. Cuối cùng, trước khi thả hồn ra đi thì thân chủ đưa ra nào là trái cây, nào là hủ tiếu, nào nước đá hoặc cà phê. Hồn ăn rất lạ, mũi trái tim chỉ vào chỗ thức ăn, ăn xong một món lại rút ra, rôi chĩa lại món khác.
Những cái món ăn đó, sau cùng, tôi với thằng Cường chia nhau hưởng, no nê.
Cũng có đêm, sau khi xin gặp hồn người chết trở về, bác Tám Bỉnh lại cầu được gặp Huệ Huyền Cô để hỏi quốc sự. Huệ Huyền Cô về cho biết một vài tin tức như tin tức trong nhựt trình.
Tôi hỏi thằng Cường:
- Chị mầy hiện về thiệt hả Cường?
- Chừng nào tao chết, tao mới biết.
- Mầy không tin đạo của ba mầy sao?
- Tao theo má tao.
- Bác gái không tin sao?
- Mầy không thấy sao, đêm nào cầu cơ, má tao đâu có ra.
- Sao bác gái không tin?
- Nếu chị tao hiện về, thì chị tao phải bênh má tao chớ. Ba tao có vợ nhỏ, mầy nghe chưa. Một cô đào nhỏ lắm, ở xóm trong, bữa nào tao dẫn mầy đi coi. Thôi mầy đừng hỏi nữa. Tối nào tao với mầy cũng có hủ tiếu, bánh bao với nước đá, mầy không chịu sao?
Có nói chuyện với thằng Cường, tôi mới biết nó có nhiều ý nghĩ lạ và nó khôn hơn tôi nhiều.
- Đạo của ba mày, ai theo?
- Người nào không biết thì theo.
- Biết thì thôi?
- Chớ sao. Như má tao với tao, theo làm gì! Đạo nào rồi cũng chết, tu rồi cũng chết, tu làm mẹ gì cho mắc công.
- Vậy mầy thích theo đạo nào?
Con của một người đang lập đạo mà nói vậy, tôi nghe lạ quá.
- Bác Tám bằng Thầy Tư Huỳnh Phú Sổ không?
- Ba tao chịu thua. Tao nghe ba tao với chú Chín cầu cơ nói với nhau là đạo của Thầy Tư là đạo hạng nhứt thì đạo của mình phải đứng hạng nhì. Thầy Tư có một triệu tín đồ, ít nhất mình cũng phải có vài vạn. Cần thì sau này mình nhập vô, mình làm phó.
- Tín đồ bác tới mấy vạn lận?
- Chưa, mới loe loe có mấy người ở chợ thôi.
- Chừng nào mới lên tới mấy vạn?
- Ai biết được. Thôi tao về, tao ngủ.
Tôi bắt đầu cảm thấy biết được hai tiếng “tích tắc” mà bác đã nói ở nhà tôi và cũng bắt đầu hiểu câu nói của cha tôi đối với bác: “người mưu sĩ”...
Từ buổi nói chuyện với thằng Cường, tôi có thêm một nỗi lo. Nếu bác bảo tôi vào đạo của bác, tôi sẽ nói sao? Được rồi, tôi sẽ hỏi lại cha tôi. Cũng may, đêm nào tôi với thằng Cường cũng được hưởng phần cúng, nhưng chưa bao giờ bác bảo tôi vào đạo. Dù vậy, tôi vẫn cứ lo và cứ muốn về.
Một hôm bác gọi tôi tới, cũng đứng bên bàn giấy của bác. Bác tính, tôi đã ở được một tháng hai mươi ngày mỗi ngày quấn được bao nhiêu điếu, bác đều ghi rõ; tính xong, bác đưa cho tôi năm mươi đồng chẵn.
- Tiền của cháu đây. Cha cháu nhắn cháu về gấp.
- Dạ.
Được trở về và trong tay có được một số tiền mà từ nhỏ tới lớn tôi chưa bao giờ được cầm số tiền lớn như vậy. Tiền công đầu tiên của tôi.
Trước khi xuống tàu, tôi mua ngay một ốp trầu. Trầu Tân Châu ngon nổi tiếng. Dù không biết ăn trầu, thấy trầu Tân Châu cũng biết là trầu ngon. Lá trầu lớn bằng bàn tay xòe, thấy rõ những đường gân, đặc biệt là cái màu của trầu, vàng như nắng.
Tàu cập bến chợ lúc trời vừa chiều. Trong nhà không có ai ra đón. Một tay xách cái rương giấy đựng quần áo, tay cầm ốp trầu vàng, tôi về nhà. Qua khỏi dãy phố cuối cùng sau chợ, tôi đã thấy được nhà. Nhà tôi sao đông người quá? Khói hương nghi ngút và dội lên tiếng kèn, tiếng trống nghe thảm thiết.
Tôi thấy ông Chín Hết của tôi, từ trong sân chạy qua cây cầu khỉ, bước lên đường, chạy ra đón tôi:
- Tội nghiệp con, má con đã liệm rồi, tối qua. Còn để đợi con đêm nay nữa.
Má tôi mất mà tôi không được thấy mặt.
Người anh thứ ba của tôi lưu lạc ở Sài Gòn mấy năm, đã về kịp lúc má tôi đang hấp hối. Đầu chít khăn tang, theo ông Chín, anh chạy qua cầu đón tôi. Đám tang má tôi, có người khóc nhiều có người khóc ít, có người buồn nhưng không khóc. Qua một đêm và một ngày, anh chị em tôi và bà con trong dòng họ như đã cạn hết nước mắt rồi.
- Con mua trầu vàng chi vậy? - Khi ông Chín đưa tôi đi đến quan tài, gặp lại cha, anh, chị, và các em, ông chợt hỏi tôi.
- Con tưởng má con còn sống, con mua trầu vàng về cho má ăn.
- Trời tội nghiệp!
Tôi không nhớ ai đã kêu lên, nức nở, và cũng không biết ai là người khóc trước, tiếng khóc xung quanh tôi lại dậy lên.
Lần đầu tiên trong đời, tôi thấy hai dòng nước mắt trên gương mặt hốc hác của cha tôi.
Chiếc quan tài của má tôi để ở nhà trong. Những ngọn đèn cầy không sáng được ngôi nhà mà thêm vẻ âm u. Những lá trầu của tôi mang về, ông Chín để lại trên chiếc quan tài màu đỏ của má tôi. Những lá trầu như những đốm nắng từ trên cao rơi xuống, cho ấm cái quan tài lạnh lẽo.
Má tôi không phải chôn ở nghĩa trang trong đồng mà được chôn trong đất nhà của ông cậu tôi, trong vườn cây trâm bầu bên con đường: má tôi nằm về hướng đông, cái hướng theo con đường mòn qua cụm xoài xuống bến. Từ chỗ má tôi nằm, lúc nào cũng được nghe sóng của con sông.
Nỗi đau của đứa con mồ côi mẹ không đến với anh chị em tôi cùng một lúc mà theo từng bước của cuộc đời chúng tôi.