- 10 -
Tôi trở lại cái bàn quấn thuốc ngoài thảo bạt và lại được nghe đủ thứ chuyện của người lớn. Tôi coi em thay chị để chị đi bán bánh tầm. Buổi trưa, tôi lên võng, đưa thằng em út, dỗ nó ngủ bằng nhũng câu hát của má:
Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi...
Không phải một mình tôi, cũng không riêng gia đình tôi đi trên cái “cầu tre lắt lẻo” mà cả làng đang trên cái cầu “gập ghềnh khó đi”. Những người tới chơi nhà vẫn chuyện thời thế, và chuyện sôi nổi nhất là chuyện Hai Quang đi lính Nhật, trở về làng đánh cò Tây. Anh là dân đứng bến xe hơi, thuộc dân anh chị nổi tiếng từ bến xe Sài Gòn dài theo các bến về làng tôi. Anh là người ở Chợ Mới, con của một nhà làm rẫy, bỏ nhà, theo xe đi hoang từ tuổi mười ba, mười bốn... Quang hay Hoang, người làng tôi đều nói như nhau. Cho nên với người làng, tên của anh cũng đồng nghĩa với cuộc đời đi hoang của anh. Anh ít khi ở Chợ Mới, thường ở làng tôi nhiều hơn, vì làng tôi có bến xe, và cái hãng xe mướn anh đứng bến là hãng xe chạy từ Sài Gòn, Sa Đéc và dừng lại ở làng tôi. Trong làng, tôi không thấy ai khỏe mạnh bằng anh. Người cao nhất trong làng cũng chỉ đứng đến ngang tai anh, ai cũng thấp hơn anh một cái đầu. Anh cao nhưng không thấy anh lêu nghêu, người anh to, vai tròn, ngực nở, bụng nhỏ và cặp đùi (khỏi chê) như đùi ếch, vạm vỡ và liền lạc. Anh độ ba mươi tuổi, đầu lúc nào cũng đội kết có lưỡi trai, vì đầu hớt trọc, hớt theo kiểu mấy ông cha cố, phía trước có để vành móng ngựa. Như người ta nói, vì lúc nào anh cũng có thể đánh lộn hoặc đâm chém, để tóc dài sẽ bị người ta nắm tóc, hoặc nếu có lỡ bị ai chém vào đầu thì khỏi phải cạo đầu lúc băng bó. Một con người luôn luôn sẵn sàng nghinh chiến với bất cứ ai. Cái trán anh thấp, mắt ti hí như mắt lươn dưới cặp chân mày rậm như hai cái mái nhà đưa ra để che cặp mắt lì lợm của anh. Cái miệng của anh, khi anh cười, vừa thật lại vừa hiền. Con người như anh tất nhiên là phải xâm mình. Ngực xâm mặt cọp đang nhe răng. Bắp tay phải xâm đầu rắn, bắp tay trái xâm một mũi tên xỏ ngang qua trái tim.
Là dân anh chị nhưng lại được dân ở làng yêu mến lắm. Anh chửi thề văng tục ở đâu chẳng ai nghe; ở chợ, anh là một người lễ phép, biết trên, biết dưới, ai đáng anh thì gọi anh, ai đáng chú thì gọi chú, gọi bác, một dạ hai thưa, đáng em thì gọi em, xưng qua, cũng chẳng thấy anh đánh ai, chém ai ở cái bến xe của chợ làng. Đồn rằng anh là người võ nghệ cao cường, nhứt là cái cú đá của anh - đá gãy cả cây chuối hột - và hai ngón tay của anh, anh xỉa ngập cả thân cây chuối. Chuyện của anh, người ta kể nhiều lắm, nhưng tôi thích có hai chuyện. Chuyện anh đánh con chủ hãng xe. Con của chủ hãng xe - thằng Pôn - hôm đó lên xe đi Sài Gòn, xe đông người, anh xếp nó ngồi ở băng sau cùng.
- Ê! Đ. mẹ, mầy không biết tao là ai sao, thằng đứng bến?
Tài xế cũng như lơ xe tưởng Hai Quang nổi điên, không ngờ Hai Quang lại cúi đầu khúm núm:
- Dạ, không biết con chủ thì biết con ai.
- Biết, sao để tao ngồi băng sau với con mẹ bán cá?
- Dạ, người ta bán cá nhưng người ta mua vé, còn thầy, thầy đi không.
- Ê, muốn giỡn mặt tao sao Hai Hoang?
- Dạ, đâu dám, nếu thầy muốn, tôi sẽ đuổi khách xuống hết, cho thầy đi một mình một xe cũng được.
Anh tài xế chạy lại can:
- Thôi, mời thầy lên ngồi trên.
Xe chạy, Hai Quang vẫn không nói gì thêm. Anh lên mui xe, ngồi một mình với những giỏ trái cây chở lên Sài Gòn.
Xe chạy qua bắc (1) Mỹ Thuận. Khi bắc vừa tách bến, thằng Pôn đang dựa lưng vào thành bắc ngắm sông, Hai Quang đi thẳng tới, không nói không rằng, đưa tay thộp áo ngực thằng Pôn.
- Pôn, hồi ở bến, nếu tao đánh mầy thì chỉ đánh một hai cái, rồi mầy chạy, lùm xùm không tiện. Bây giờ thì tao đánh mầy, một là đứng để tao đánh, hai là nhảy xuống sông mà tự tử.
Ọc! Ọc! Anh móc mạng sườn nó, bên phải rồi bên trái, đánh nó không kịp đỡ, đánh cho đến lúc nó la làng, hộc máu.
- Đánh cho mầy nhớ thằng Hai Quang nầy.
Sau đó thằng Pôn lập kế trả thù. Trước nhất, anh bị đuổi ra khỏi hãng. Điều đó có lo gì. Hãng xe khác lại rước anh về. Thằng Pôn thuê đám anh chị khác chém anh. Và đã xảy ra một trận đánh lớn tại bến xe. Bọn nó ba đứa, ba con dao, còn anh một mình với một cây đòn gánh, chụp được của một cô bán chè. Bọn chúng ba thằng ba con dao không chém được anh, thằng nào cũng bị cây đòn gánh của anh đập sưng đầu, lỗ trán. Bọn lính lại ăn tiền của thằng Pôn bắt anh, giải anh về quê quán, tỉnh Long Xuyên cho anh vào tù.
Ở tù, lúc đi làm “cỏ vê”, đi ngang qua bến xe, anh thấy bọn kia vẫn đi xe và hay ngồi trên mui xe khi xe dừng lại bến. Anh xin cai tù cho anh đi bắt chó hoang. Cai tù nhìn cái thân hình lực lưỡng của anh, nó gật đầu.
Anh làm một cây vòng, nhưng lại không bắt chó bằng cây vòng mà bắt bằng tay. Anh chỉ cần chụp hai cái chân sau của con chó, rồi cứ vậy mà quay, quay cho con chó la đến tàn hơi kiệt sức. Cái vòng bắt chó, anh dùng vào việc khác. Anh ra bến xe, đợi đến lúc bọn kia leo lên mui sắp xếp đồ đạc cho hành khách, anh bước tới đưa cái vòng lên tròng vào cổ nó, giựt từ trên xe rớt xuống.
Tù chưa mãn lại bị chồng án ở thêm.
Người đời ở cái chợ làng có một cái tật rất lạ.
Ai đã nổi tiếng rồi thì người ta lại thêm thắt không biết bao nhiêu chuyện, chuyện nào nghe cũng lạ. Như những chuyện của ông Huỳnh Phú Sổ chẳng hạn. Với Hai Quang, người ta đồn lúc anh đi hoang anh đã tìm học với một ông thầy người Miên ở trên núi. (Hình như phải học qua người nước ngoài và phải ở trên núi thì mới giỏi hay sao ấy). Lệ của thầy, người nào muốn học, trước hết phải nhảy qua một cái hầm dài sáu, bảy thước; dưới hầm, chông cắm lên tua tủa như dao mác. Nhảy qua thì học, nhảy không qua được thì đổ ruột chết. Không dám nhảy, thầy không nhận, phải ôm gói trở về. Hai Quang cùng đi với mấy người bạn. Mấy người bạn của anh cúi mặt xuống cái hầm, tối tăm mặt mày, không dám nhảy.
Còn Hai Quang, anh khoanh tay thưa:
- Thưa thầy, con xin nhảy.
Rồi anh đứng từ xa, chạy lấy đà, chân đạp lên mé hầm nhảy qua. Anh mới qua được nửa hầm thì ông thầy đứng bên hầm đưa chân đá vào đít anh, đẩy anh bay qua. Hú hồn, hú vía!
- Sức con nhảy không qua mà sao con dám nhảy?
Anh khoanh tay lại, cúi đầu:
- Con đã đến đây, một là chết, hai là được học, chớ không trở về.
Chỉ một mình anh được nhận làm đệ tử.
Hằng ngày, ngoài việc học võ, anh nghe lời thầy, mỗi lần tắm đều tắm nước nóng, nước mỗi ngày mỗi nóng thêm, tập cho đến lúc tắm bằng nước sôi. Cho nên bây giờ anh là người mình đồng da sắt, dao chém không đứt, gươm đâm cũng không lủng. Anh học năm năm mới xuống núi, làm nghề du côn ở bến xe.
Toàn nghe đồn, nghe nói, tôi chỉ thấy được một chuyện. Buổi trưa, chiếc xe đò từ Sài Gòn về. Trên mui xe có một lính Nhật. Nghe tiếng kèn xe, thằng cò Tây từ trong bót chạy ra, dang tay bắt chiếc xe đò dừng lại. Từ trong nhà nhìn ra, tôi thấy tên lính Nhật từ trên mui xe nhảy xuống. Chiếc xe đò chạy vào bến. Thằng cò Tây, tên lính Nhật đứng giữa con đường trước cửa bót, nói gì với nhau, rồi hai thằng nhào tới đánh nhau. Khi hai thằng vừa đánh nhau thì người ta từ trong nhà tuôn ra, chạy đi xem. Tôi cũng phóng xuống, qua cây cầu khỉ, lên mặt đường đá, chạy tắt qua bãi cỏ. Người ở chợ đứng vây quanh, tôi tiến lên phía trước. Tên lính Nhật ngồi trên mui xe chính là anh Hai Quang. Người đứng coi, ai cũng kêu tên anh. Anh mặc đồ lính Nhật, đội mũ Nhật, xắn tay áo. Còn thằng cò Tây, nó cao lớn chẳng thua gì anh, thật cân sức, và nó lớn hơn anh một cái bụng. Nó đánh quyền Anh, còn anh thì đánh võ. Nó đấm, anh thoi, anh đá. Dang ra, vờn nhau, lại xáp vô, đánh đấm túi bụi. Lại dang ra, lại vờn. Bỗng anh quay mình, hét lên một tiếng. Đúng cái cú đá như tiếng đồn, cò Tây bị một cú đá, lảo đảo. Cũng vừa lúc đó thì có một phát súng nổ. Con đầm vợ nó đưa cây súng lục bắn chỉ thiên, rồi họng súng trong tay nó chĩa vào anh Hai Quang, họng súng hãy còn khói, và lại thêm ba họng súng dài của ba tên lính chĩa vô ngực anh. Anh Hai Quang đành bó tay cho tên cò Tây còng lại, đưa anh vào đồn.
Chuyện anh đánh thằng cò Tây, cuối cùng cũng phải thua, nhưng mọi người hả hê thán phục anh.
Sau đó, tôi nghe người lớn nói, cũng nói trong cái thảo bạt nhà tôi và tôi cũng nghe lúc ngồi bên cái bàn quấn thuốc: Cò Tây được lịnh truy nã bắt anh về tội trốn lính. Nó giải ngược anh về Sài Gòn.
Chẳng bao lâu, anh lại mặc đồ lính Nhật trở về. Anh đi thăm nhiều người ở chợ, và đến thăm cha tôi.
Anh đến nhà tôi vào buổi xế chiều, lúc nhà có nhiều người đến chơi. Bộ đồ lính Nhật màu cứt ngựa, hông đeo gươm dài, vì cao lớn nên cây gươm của anh không lệt bệt dưới đất như những tên Nhật mà tôi đã thấy, oai nữa là trước bụng có cả cây súng lục trong cái vỏ da được đánh bóng, mới tinh. Khi anh bước lên cầu thang nhà tôi, tôi có cảm tưởng từng bực thang có thể gãy vì cái thân hình lực lưỡng của anh. Anh chào từng người, chào người lớn trước, người nhỏ sau. Anh không chào theo kiểu nhà binh Nhật, cũng không bắt tay. Hai bàn tay nắm lại thành một nắm đấm để trước ngực, anh vừa lắc, vừa cúi đầu:
- Thưa anh Hai!
Anh chào cha tôi trước, kế chú Ba tôi đến chú Tư Khởi, chú Ba Giáo, cuối cùng anh vẫn không quên tôi:
- Nhỏ!
Khi anh ngồi vào ghế bắt đầu câu chuyện, chú Ba tôi hỏi:
- Theo Nhật thiệt sao Hai Quang?
Anh cười:
- Nếu tôi không vô lính Nhật, thì bây giờ, tôi ở bên Tây, đánh nhau với tụi Đức rồi. Mấy anh nghĩ coi, sau khi ra tù thì tới kỳ bắt thăm đi lính. Rủi cho tôi, tôi bắt ngay số một. Tôi nghĩ, thằng Tây nó qua đây đè đầu cỡi cổ mình, chớ có phải ông nội cha mình đâu mà mình đưa ngực ra đỡ đạn cho nó. Tôi nói vậy mấy anh nghe phải không? Nó đánh nước mình, bây giờ tới phiên nó bị đánh, sao lại bắt người ta đi đánh giùm. Bộ cha sao?! Tôi trốn. Nhưng Hai Quang trốn sao được. Mấy cái thằng lính kín chó đẻ ngày nào cũng mang kiếng đen lởn vởn ngoài bến xe, kiếm tôi. Phải sống nhờ em út, nhục quá! Tao đi lính Nhật cho mầy biết!
Thắng được bộ đồ lính Nhật rồi, tôi ra bến xe, đi thẳng lại mấy thằng lính kín: “Ê, bắt Hai Quang hả mầy? Dô tô nay, dô tô na dô tô cà”. Tôi vừa nói vừa rút gươm. Tụi nó giạt đi như đá ném xuống cái ao bèo. Bèo tan rồi hợp, đá vẫn nằm nguyên.
- Tụi Nhật nó giao cho chú việc gì chú Hai? - Chú Tư Khởi hỏi.
- Nó giao tôi về đây coi tình hình dân chúng, ai theo ai. Nó bảo nhớ ghi chép ai theo Việt Minh cộng sản.
- Chú ghi được nhiều chưa?
- Tôi mượn tiền nó tôi về chơi. Tụi nó quên là chữ A tôi cũng không thèm học, tôi biết gì mà ghi mấy anh!
Nói vậy rồi, anh đưa tay mở nắp cái bao súng. Tưởng anh móc súng ra để khoe hay làm gì, hóa ra đó là cái bao đựng thuốc. Khi anh rút ra một cục thuốc với một tờ giấy nhựt trình thì tất cả đều ngửa mặt cười. Anh điềm tĩnh quấn thuốc, lè lưỡi liếm rồi nhìn lại mọi người:
- Nó có tin tôi đâu mà giao súng; cây gươm này tôi mua ở Chợ Lớn, rung cây nhát khỉ thôi.
Rồi anh cười. Nụ cười thật thà và hiền lành. Nhưng con mắt của anh, hai con mắt ti hí, vừa liếc vừa híp lại, thật điếm.
Thằng Sườn lớn hơn tôi mới một hai tuổi thôi - mười bốn mười lăm - mà đã thành người lớn rồi. Người nó cũng có vẻ khác thường: nó có một thân hình nói là xấu cũng được, nói kỳ kỳ thì đúng hơn. Cái đầu của nó không tròn, tóc của nó lại hớt vừa cụt vừa bằng bằng, cho nên cái đầu của nó thành hình vuông. Cổ rụt như cổ rùa và cái ngực của nó cũng bè bè theo hình vuông, cái áo bành tô bằng vải ka ki cũ lúc nào cũng phanh ngực với cái quần đùi đen dài đến tận gối. Người như nó không thể trắng trẻo được, mặt đen sì sì như màu đất. Nhà cha mẹ nó trong ngọn kinh, nhưng suốt ngày nó ở bến xe, ở chợ, đêm cũng ngủ trong chợ, trên thớt thịt. Nó tập tành đứng bến xe, nguyện làm đệ tử cho Hai Quang, cũng giành khách và thỉnh thoảng được leo lên xe đi Sài Gòn. Cái tôi thấy nó thành người lớn là nó biết hút thuốc, thở khói ra lỗ mũi hẳn hoi.
Ngày đầu ôm cái thùng thuốc lá ra chợ, tôi đang lớ ngớ thì chính nó là người mua mở hàng.
- Ê, con chú Hai hả?
Tôi gật đầu.
- Thuốc gì ngon cho vài điếu.
- Anh hút thuốc nào?
- Anh cái con mẹ gì. Thằng Sườn.
Thằng Sườn nghèo nhưng lại coi tiền như rác. Tiền nó cuộn trong lưng quần, lấy thuốc xong, nó cầm nắm tiền thả xuống cái bàn thuốc của tôi không cần đếm. Tôi gọi nó lại, trả lại tiền dư, cái đầu vuông của nó lắc quầy quậy trên cái cổ rùa:
- Để đó, còn hút nữa.
Nó quay lưng, nghĩ gì nó quay lại:
- Thằng nào ăn hiếp cho tao biết nghen. Không hiểu sao nó lại thương tôi vậy! Một buổi chiều, nó qua cây cầu khỉ, vào tận nhà tìm tôi, lúc tôi đang ở trước sân:
- Mấy hôm nay đâu không ra chợ?
Nghe nó hỏi, tôi mới chợt nhớ, tôi không ra chợ cũng hơi lâu, từ ngày cha tôi xoay được một việc làm kiếm ra tiền.
Có một ngôi nhà vốn là lò thợ bạc lâu đời, từ đời ông nội đến đời con... Đến đời cháu thì không làm thợ bạc nữa. Người chủ cuối cùng của ngôi nhà theo đạo Hòa Hảo, nghĩ thế nào lại dỡ nhà về đất Láng Linh (đất Láng Linh đã trở thành đất Phật của Phật giáo Hòa Hảo).
Cha tôi không mua nhà mà mua cái nền nhà.
Vậy là anh chị em tôi, mỗi người một tay, đào lấy đất nền cứng, đưa về cho cha tôi đãi vàng.
Nhà tôi toàn đất. Cha tôi dùng một cái chảo đụng, buộc hai sợi dây ở hai quai, treo lên cái sườn nhà sau bếp. Tôi xúc đất đổ vô chảo, anh tôi xách nước từ dưới kinh lên, đổ vào, còn cha tôi ngồi đãi. Đãi mãi, đãi mãi, đãi mãi cho đến lúc dưới đít chảo còn một nắm cát với những hạt bụi anh ánh. Cái nắm cát ấy đưa vào lò nấu. Rồi những hạt bụi anh ánh ấy tụ lại thành một cái hạt như hạt đậu. Chưa phải là hạt vàng nhưng trong cái hạt ấy có vàng. Ban ngày thì đãi, ban đêm thì nấu. Cha tôi ngồi coi, còn anh tôi với tôi thì thay nhau quay lò.
Có một lần, chú tôi về vào lúc nửa đêm, thấy ba cha con tôi vẫn ngồi bên lò lửa, chú tôi thở dài:
- Đãi cát tìm vàng, cực quá hả anh Hai?
- Đã nói là đãi cát tìm vàng thì làm sao không cực! Nhưng đâu có cực bằng anh em. Đãi người, để người quy về một mối mới là khó. Người lúc đầu tưởng là vàng lại hóa ra là cát.
Cha tôi mỉm cười lắc đầu và thở dài. Cha tôi không nói gì thêm nhưng tôi lại hiểu là cha tôi muốn nói đến ông Tư tôi.
Vì lo giúp việc nhà mà tôi bỏ cả nghề quấn thuốc và cũng quên ra chợ là vậy. Thằng Sườn rủ:
- Tối nay đi chơi với tao.
- Không được.
- Một lát thôi!
- Đi đâu?
- Nghe giảng đạo.
Lại đạo. Đạo gì nữa đây? Tôi nhìn lại nó. Nó biết ý lắc đầu:
- Không phải Hòa Hảo đâu.
- Cao Đài?
- Không.
- Đạo gì?
- Không phải Thiên chúa mà cũng như Thiên chúa vậy - đạo Tin lành.
- Thôi, tao không đi.
- Đi mầy, tối nay vui lắm. Trước khi giảng nó có đờn, có hát. Người ta tới nghe, nó cho ăn kẹo, ngon lắm. Kẹo đen, đăng đắng ngọt ngọt, thơm thơm, kẹo... kẹo... sôcula.
- Nó bỏ bùa bỏ ngải cho mình mê làm sao?
- Mê cái c..., tao ăn mấy bữa rồi.
- Ừ. Mầy đi trước đi...
Thằng Sườn chờ tôi ở ngoài cửa. Hóa ra cái chỗ giảng đạo là cái căn nhà chơi bóng bàn, ở cuối phố, thỉnh thoảng tôi cũng tới lui. Cái bàn bị xếp lại một bên tường, thay vào đó là ghế ngồi. Người đến nghe giảng đạo, tôi thấy toàn lũ trẻ ở chợ, có gần hai mươi đứa, người lớn chỉ có đôi ba người. Người đến nghe có vậy mà sao họ làm rình rang quá. Thời buổi không có dầu để thắp, phải thắp bằng mỡ hoặc dầu mù u, họ lại thắp đèn măng sông cháy khè khè, sáng ra tới tận ngoài đường. Lại có tiếng đàn ắc coóc.
Thằng Sườn nắm tay tôi, đưa tôi lên ngồi ghế hàng đầu, phía sau là lũ nhỏ lao nhao.
Rồi một ông cha đầu hớt theo kiểu vành móng ngựa, cũng áo dài đen chẳng khác gì mấy ông cha của đạo Thiên chúa. Ông phát cho mỗi đứa một quyển kinh nhỏ bằng bàn tay để bỏ túi, và đúng như thằng Sườn nói, kèm theo một thỏi sôcula. Sau khi mọi đứa đều có sách có quà, ông trở lên bục, mặt trang nghiêm, mở to mắt nhìn xuống đầu lũ nhỏ, ông nói giọng vừa vang vừa ấm:
- Trước khi giảng, các em ôn lại bài hát. Nhớ chưa? “Ai mến yêu Giê-su vô cùng. Càng yêu tha thiết ngày thêm...”
Lập tức, tiếng đàn ắc coóc kéo lên. Ông bắt giọng:
- Mến yêu... Một, hai, ba.
Cái lũ nhỏ trong phòng cất tiếng hát, rên lên. Mới hát được một câu “Mến yêu Giê-su vô cùng” thì thằng Sườn bật đứng dậy, cất cao tiếng với câu vọng cổ:
- Boong boong văng vẳng tiếng chuông... ở chùa.
Một tiếng hét giật nảy người, ông cha vừa hét vừa nhào xuống. Thằng Sườn quá nhanh, thót một cái, nó tuôn ra cửa. Bàn ghế xô đổ lốp bốp.
- Bắt nó! Bắt nó!
Tôi có cảm tưởng là thằng Sườn đã nhảy qua đầu mọi đứa để thoát thân. Còn bọn chúng tôi chen nhau đạp nhau hốt hoảng, tán loạn, nhưng khi gặp lại nhau ở chợ thì đứa nào cũng vui cười. Thằng Sườn họp tất cả lại, đãi mỗi đứa một tô hủ tiếu giữa nhà lồng chợ. Số tiền đó nó nhận được của một người đạo Phật giáo Hòa Hảo và một người đạo Cao Đài, nó bảo là tiền “phá đám”. Trả tiền hủ tiếu xong cho cả gần hai mươi đứa, phần còn lại đủ riêng cho nó một gói thuốc. Chỉ có vậy mà sáng hôm sau, ông cha đạo Tin lành phải dọn đồ xuống ghe, nhổ sào như một cái gánh hát Sơn Đông.
Đêm ấy, tôi trở về, hãy còn sớm, chị và các em tôi hãy còn thức, tôi chia cho mỗi người một viên sôcula.
Xuống bếp, cha tôi với chú tôi bắc ghế ngồi bên cái lò, anh tôi thì ngồi quay lò. Cái bếp lò đỏ rực, cái lưỡi của lửa thì xanh lè. Tôi dúi vào tay anh một miếng sôcula, như để đền ơn anh ngồi thay cho tôi.
- Hồi chiều, thằng Sườn rủ con đi đâu?
Tôi kể cái lúc thằng Sườn bỗng đứng bật dậy, cất giọng “Boong boong văng vẳng...” thì cha tôi với chú tôi ôm bụng cười ngả nghiêng. Anh tôi thì trách:
- Sao mầy không rủ tao? Cái kẹo sôcula này bây giờ hiếm lắm. Còn hết?
- Hết!
- Mai mầy ở nhà quay lò, tao đi...
Cười xong, cha tôi châm thuốc, vừa bập vừa hỏi:
- Ba, mầy thấy chưa? Cái đám nầy nó như chuyến tàu vét, nó không muốn để cho ai đứng ngoài, vét từ đứa con nít. Tụi nó là tụi nào vậy, Ba?
Chú tôi lại trầm ngâm nhìn vào ngọn lửa, một hồi lâu:
- Em chưa biết rõ lắm. Đạo Tin lành thường thường là của tụi Anh với Mỹ, Mỹ bây giờ là đồng minh, nhưng cũng là tụi nó.
- Như chuyến tàu vét, vét tụi con nít.
- Nguy hiểm lắm đó, anh Hai, nó nghĩ đến đường dài.
Sau khi nhai hết viên kẹo sôcula, anh tôi nhóc mỏ nghe chú tôi nói, rồi người anh như bị ngứa ngáy, không yên, cứ loay hoay, anh nhặt từng cục than ném thêm vào lửa nhìn cha tôi, lại nhìn qua chú tôi:
- Cha à! Con vô Thanh niên cứu quốc nghe cha!
Hóa ra anh tôi lại biết nhiều hơn tôi, biết cái điều mà tôi chưa nghe tới bao giờ. Thanh niên cứu quốc! Cứu quốc! Nghe thiêng liêng làm sao! Tôi vừa nghĩ vừa quay lò mạnh hơn, và ngọn lửa cũng bốc cao hơn.
- Mầy hả?
Cha tôi chỉ nói có vậy mà anh tôi hiểu ý, anh xị mặt:
- Cái gì của con, cha cũng chê! Đi hoang cha chê, đi Thanh niên cứu quốc cha cũng chê.
Cha tôi nhìn anh tôi với đôi mắt nghiêm khắc:
- Được vậy cha mừng. Nhưng phải nghĩ cho kỹ. Đã đi thì đi đến cùng, chớ bỏ nửa chừng. Cha nghiệm thấy trong đời, không ai tệ bằng những kẻ bỏ cuộc, ông Tư của tụi con cũng là người bỏ cuộc đó.
Anh tôi ngồi im, nhìn đăm đắm vào ngọn lửa. Cái lưỡi lửa không nói nhưng tỏa sáng mặt người.
Đêm đó, sau khi dọn dẹp, anh tôi không ngủ nhà, chú tôi cũng không ngủ trên chiếc ghế bố ngoài thảo bạt nữa. Hai chú cháu dẫn nhau đi đâu mất, tôi đoán là hai người đi qua cầu, lên xóm Cột dây thép.
Vậy là người làng tôi, không còn ai giấu ai nữa, ra mặt hết rồi. Gặp một người nào đó ngoài đường, không cần quen biết, cũng không cần hỏi, thấy mặt là biết ngay họ là ai, theo đạo nào. Người theo đạo Hòa Hảo: quần áo màu dà, để râu, để tóc, vừa nghênh ngang, vừa to nhỏ xì xầm chuyện cơ mật của thời thế. Người theo đạo Cao Đài cũng để râu tóc, quần áo thì toàn trắng: áo trắng, quần trắng, khăn trắng, nón mũ đội trên đầu cũng trắng. Từ tòa thánh ở Tây Ninh đến làng tôi quá xa xôi, như bị đuối sức, lác đác chẳng có mấy người nhưng lại nổi bật với đồ trắng giữa những đám đồ màu dà. Tuy ít, nhưng dựa vào thế của Nhật, cũng vẫn nghênh ngang.
Còn đạo Thiên chúa? Cái nhà thờ lớn với cái lầu chuông vẫn còn đó, sừng sững ở bên kia sông. Tây tuy thất thế, nhưng buổi sáng, buổi chiều, chuông vẫn đổ rền.
Thanh niên tiền phong thì mặc quân phục, vừa đi đều vừa hát.
Còn những người cùng với chú tôi, cha tôi, anh tôi thì không hề ra mặt. Và cũng vì không ra mặt mà trong con mắt của họ tôi cũng đã ra mặt rồi. Những người ấy, những người mà tôi mới biết tên, những người Cứu quốc, họ âm thầm nhưng dữ dội, như sóng ngầm của con sông Cửu Long chảy qua làng. Còn những người kia Hòa Hảo, Cao Đài hay Thanh niên tiền phong, họ là những ngọn sóng trên mặt sông đang trào lên ầm ĩ.
Đêm ấy, biết anh tôi với chú tôi không ngủ nhà, tôi không sao ngủ được. Tôi cứ trăn trở với một câu hỏi. Tôi thấy đạo Thiên chúa, đạo Hòa Hảo hay đạo Cao Đài, cha mẹ theo đạo nào thì con cái cũng phải theo đạo ấy. Còn “anh em mình” thì cha mẹ sao không buộc con cái phải theo? Sao cha tôi, chú tôi và mới đây, cả anh tôi, sao không bắt tôi phải theo “anh em mình”?
Lâu nay, mọi người như đi trên con sông, tôi thấy bạn bè và thiên hạ, ai ai cũng có một chỗ trên chiếc thuyền của mình, còn tôi, không tìm đâu thấy chiếc thuyền của mình, cứ phải lặn hụp, ngoi ngóp trên mặt sông.
Đêm ấy, tôi như thấy được bóng dáng chiếc thuyền của mình, tôi sẽ bơi tới.
Chú thích:
(1) Phà