← Quay lại trang sách

DORDOGNE (4 )

Động cơ máy bay vẫn rền vang khi chiếc Gulfstream V lăn về phía họ, dòng chữ “ITC” viết hoa màu bạc nổi lên ở phần đuôi. Cầu thang hạ xuống, và một tiếp viên mặc đồng phục trải một cuộn thảm đỏ chạy xuống tận chân cầu thang.

Mấy nghiên cứu sinh cứ đứng nhìn.

“Không đùa chứ,” Chris Hughes nói. “Đó thực sự là một tấm thảm đỏ đấy.”

“Đi nào,” Marek nói, Anh ta quàng chiếc ba lô qua vai và dẫn họ lên máy bay.

Marek đã từ chối trả lời mọi câu hỏi của họ, coi như không biết gì hết. Anh ta nói với họ kết quả của mẫu giám định các bon. Anh ta nói với họ là mình chẳng thể giải thích được vì sao lại thế. Anh ta cũng nói với họ là ITC muốn họ tới giúp Giáo sư, và việc đó rất cấp thiết. Ngoài ra thì anh ta chẳng nói gì thêm nữa. Và anh ta nhận thấy rằng cả Stern cũng cứ im thin thít.

Vào bên trong, chiếc máy bay toàn màu xám và bạc. Cô tiếp viên hỏi họ muốn uống gì. Tất cả những thứ xa hoa sang trọng này đối nghịch với người đàn ông trông rắn rỏi với mái tóc hoa râm cắt gọn đang đi tới chào họ. Dù người đàn ông đó mặc một bộ vét thương gia, Marek vẫn nhận ra vẻ quân nhân khi anh ta bắt tay mỗi người bọn họ.

“Tên tôi là Gordon,” anh ta nói. “Phó chủ tịch của ITC. Chào mừng lên máy bay. Thời gian bay tới New Mexico là chín tiếng bốn mươi phút. Tốt hơn là nên thắt dây an toàn nhé.”

Họ vừa ngồi phịch xuống ghế thì đã cảm thấy chiếc máy bay bắt đầu chuyển động trên đường băng. Một lát sau, động cơ đã rú lên, Marek nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy vùng đồng quê nước Pháp đã ở lại phía sau.

*

Tình hình có thể còn tệ hơn ấy chứ, Gordon nghĩ khi đang ngồi ở phía đuôi máy bay và nhìn vào đội khảo cổ. Đúng thật, họ đều là những học giả. Họ có hơi bối rối một chút. Và chẳng hề có cảm giác gì về một nhóm hay sự hợp tác giữa họ.

Nhưng mặt khác, tất cả họ dường như đều có thể trạng khá tốt, đặc biệt là anh chàng ngoại quốc, Marek. Anh ta trông rất cường tráng. Và người phụ nữ cũng không tệ. Bắp tay khá rắn chắc, bàn tay chai sạn. Cách ứng xử đầy tự tin. Nên có lẽ cô ta có thể chịu được áp lực, anh nghĩ thế.

Nhưng cái cậu nhóc trông bắt mắt thì có vẻ khá vô dụng. Gordon thở dài khi thấy Chris nhìn ra ngoài cửa sổ, bắt gặp hình ảnh phản chiếu của mình trên tấm gương và lấy tay vuốt ngược mái tóc.

Và Gordon cũng không thể đoán định được cậu nhóc thứ tư, cậu mọt sách. Cậu ta rõ ràng là có dành thời gian ra ngoài; quần áo bạc phếch và kính thì rạn. Nhưng Gordon cũng nhận ra rằng cậu ta là một người thạo công nghệ. Biết tất cả mọi thứ về trang thiết bị và mạch điện, nhưng chẳng biết chút gì về thế giới. Khó nói được là cậu ta sẽ hành xử thế nào khi có chuyện.

Người to cao, Marek nói, “Anh có định nói cho chúng tôi biết là có chuyện gì đang xảy ra không?”

“Tôi nghĩ anh đã biết rồi, anh Marek,” Gordon nói. “Không phải sao?”

“Tôi có một mảnh giấy có niên đại sáu trăm năm với chữ viết của Giáo sư trên đó. Bằng loại mực sáu trăm năm tuổi.”

“Phải. Đúng là các anh có nó đấy.”

Marek lắc đầu. “Nhưng nó khó tin quá.”

“Vào lúc này,” Gordon nói, “nó đơn giản là một hiện thực công nghệ mà thôi. Nó có thật đấy. Nó có thể xảy ra thật đấy.” Anh đứng khỏi ghế và đi ra ngồi cùng cả nhóm.

“Anh muốn nói về chuyện du hành vượt thời gian,” Marek nói.

“Không,” Gordon nói. “Tôi không ám chỉ gì đến du hành vượt thời gian hết. Du hành thời gian là không thể. Tất cả mọi người đều biết chuyện đó.”

*

“Bản thân khái niệm du hành vượt thời gian chẳng có ý nghĩa gì hết, vì thời gian không trôi đi. Việc chúng ta nghĩ rằng thời gian có trôi chỉ là một sự lầm lẫn trong hệ thống thần kinh của chúng ta mà thôi – về cái cách mọi thứ diễn ra trong mắt chúng ta. Thực tế, thời gian không hề trôi đi; chúng ta mới trôi đi. Bản thân thời gian là bất biến. Bản chất nó vẫn là thế. Vì thế, quá khứ và tương lai không phải là những địa điểm cách biệt, New York và Paris mới là những địa điểm cách biệt. Và vì quá khứ không phải là một địa điểm cụ thể, nên chúng ta không thể du hành đến đó được.”

Tất cả đều im lặng. Họ chỉ nhìn chằm chằm vào anh ta,

“Phải thật rõ ràng về việc này,” Gordon nói. “Công nghệ của ITC chẳng liên quan gì đến du hành vượt thời gian hết, ít nhất là không theo cách trực tiếp. Thứ chúng tôi đang nghiên cứu phát triển là một dạng du hành vượt không gian. Nói chính xác, chúng tôi dùng công nghệ lượng tử để tạo sự biến đổi tọa độ đa vũ trụ trực giao.”

Họ đần mặt nhìn anh.

“Nghĩa là,” Gordon nói, “chúng ta có thể du hành tới một địa điểm khác ở trong vùng không gian đa vũ trụ.”

“Và đa vũ trụ là gì vậy?” Kate nói.

“Vùng không gian đa vũ trụ là thế giới được định nghĩa bởi thuyết cơ học lượng tử.”

“Thuyết cơ học lượng tử?” Chris nói. “Cơ học lượng tử là cái gì?”

Gordon ngừng lại. “Khá là khó giải thích. Nhưng vì mọi người là các nhà sử học,” Gordon nói, “để tôi giải thích nó theo kiểu lịch sử nhé.”

*

“Một trăm năm trước,” Gordon nói. “Các nhà vật lý nghĩ rằng năng lượng – như ánh sáng, từ trường hay điện – được truyền dưới dạng sóng liên tục. Chúng ta vẫn hay nói tới sóng vô tuyến và sóng ánh sáng. Trên thực tế, việc nhận ra rằng tất cả các dạng năng lượng đều có cùng bản chất sóng là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của vật lý học thế kỷ mười chín.

Nhưng có một vấn đề nhỏ. Hóa ra là nếu anh chiếu đèn lên một mặt kim loại, anh sẽ có một dòng điện. Nhà vật lý học Max Planck đã nghiên cứu mối liên hệ giữa lượng ánh sáng chiếu lên lá kim loại và lượng điện được tạo ra, và ông ta đã rút ra kết luận rằng năng lượng không có dạng sóng truyền liên tục. Thay vào đó, năng lượng dường như được cấu tạo từ những hạt đơn lẻ riêng biệt, ông gọi mỗi hạt đó là một hạt lượng tử. Khám phá ra năng lượng có dạng hạt lượng tử là khởi nguồn của vật lý lượng tử. “Vài năm sau, Einstein chỉ ra rằng ta có thể giải thích được các hiện tượng quang điện bằng việc giả thiết rằng ánh sáng được tạo nên từ các hạt, mà ông gọi là các photon. Các photon ánh sáng này đập vào lá kim loại và đánh bật các hạt electron ra, tạo thành dòng điện. Xét về mặt toán học thì các đẳng thức đều đúng. Chúng ứng với cách nghĩ là ánh sáng được tạo thành từ các hạt. Đến giờ vẫn hiểu cả chứ?”

“Ừm…”

“Và chẳng mấy chốc, các nhà vật lý bắt đầu nhận ra rằng không chỉ ánh sáng, mà tất cả các loại năng lượng đều có cấu tạo dạng hạt. Thực tế, tất cả các dạng vật chất trong vũ trụ đều có cấu tạo dạng hạt. Nguyên tử cấu tạo từ các hạt nặng trong hạt nhân nguyên tử, các hạt electron nhẹ thì chuyển động xung quanh ở phía ngoài. Do đó, theo như cách nghĩ mới thì, vạn vật đều được cấu tạo từ các hạt. Được chứ?”

“Được rồi…”

“Các hạt ở đây là những đơn vị rời rạc, gọi là lượng tử. Và lý thuyết mô tả sự vận động của những hạt này được gọi là thuyết lượng tử. Một phát hiện quan trọng của vật lý thế kỷ hai mươi.”

Tất cả đều gật đầu.

“Các nhà vật lý học tiếp tục nghiên cứu những hạt này, và bắt đầu nhận ra rằng chúng là những thực thể rất kỳ lạ. Anh không thể biết chắc được chúng ở đâu, anh không thể đo đạc chúng một cách chính xác được, và anh càng không thể dự đoán được chúng sẽ làm gì. Thỉnh thoảng chúng hoạt động như các hạt, thỉnh thoảng như sóng. Thỉnh thoảng hai hạt lại tương tác với nhau dù chúng ở cách nhau tới hàng triệu dặm, và chẳng có mối liên hệ nào giữa chúng hết. Và cứ thế cứ thế. Lý thuyết này bắt đầu có vẻ đã trở nên kỳ cục.

Và giờ, có hai vấn đề xảy đến với lý thuyết lượng tử. Đầu tiên là nó đã được thừa nhận, rất nhiều lần. Nó là lý thuyết được chứng minh nhiều nhất trong lịch sử khoa học. Các máy quét ở siêu thị, laser và chip máy tính đều dựa vào ứng dụng thuyết lượng tử. Thế nên chẳng có nghi ngờ gì rằng thuyết lượng tử là cách mô tả toán học chính xác nhất về vũ trụ.

Nhưng vấn đề là, nó chỉ là một cách mô tả toán học mà thôi. Nó chỉ là một tập hợp các phương trình. Và các nhà vật lý học không thể hình dung ra cái thế giới được mô tả từ các phương trình kia – nó quá kỳ cục, quá mâu thuẫn. Einstein là một minh chứng cụ thể, ông không hề thích chuyện đó. Ông nghĩ rằng như thế có nghĩa là lý thuyết đó chưa hoàn hảo. Nhưng lý thuyết lại cứ được thừa nhận liên tục, và mọi sự cứ càng ngày càng xấu đi. Cuối cùng, thậm chí cả những nhà khoa học đã đoạt giải Nobel vì những thành tựu cống hiến cho thuyết lượng tử cũng phải thừa nhận rằng họ chẳng hiểu gì về nó hết.

Thế là, chuyện này đã tạo nên một tình huống rất quái lạ. Trong gần như suốt thế kỷ hai mươi, đã tồn tại một lý thuyết về vũ trụ mà tất cả mọi người đều dùng, mà tất cả mọi người đều đồng ý là đúng – nhưng chẳng ai có thể nói cho anh biết là nó đang nói gì về thế giới hết.”

“Tất cả những điều này thì có liên quan gì đến đa vũ trụ không?”

“Tôi sắp nói đến đoạn đó rồi,” Gordon nói.

*

Gordon nói rằng đã có rất nhiều nhà vật lý học cố diễn giải các phương trình. Mỗi cách diễn giải lại thất bại không vì lý do này thì cũng vì lý do khác. Rồi vào năm 1957, một nhà vật lý học tên là Hugh Everett đã nêu ra một lời giải đáp mới mẻ và đầy táo bạo, Everett tuyên bố rằng vũ trụ của chúng ta – vũ trụ mà chúng ta thấy đây, vũ trụ của đá và cây cỏ và con người và các hệ ngân hà ngoài không gian đây – chỉ là một trong vô số những vũ trụ khác nhau, tồn tại bên cạnh nhau mà thôi.

Mỗi vũ trụ này lại liên tục phân chia, thế nên sẽ có một vũ trụ mà Hitler thất trận, và một vũ trụ khác mà hắn ta thắng; một vũ trụ nơi Kennedy chết, và một vũ trụ khác nơi ông ta sống. Và cũng có một thế giới nơi bạn đánh răng buổi sáng và, một thế giới nơi bạn không làm thế. Và cứ thế, cứ thế, cứ thế. Vô hạn các thế giới.

Everett gọi đây là cách diễn giải “đa thế giới” ứng dụng thuyết lượng tử. Cách giải thích của ông ta hợp với các phương trình lượng tử, nhưng các nhà vật lý học thấy rất khó chấp nhận nó. Họ chẳng thích cái ý tưởng là tất cả các thế giới cứ liên tục phân chia như thế. Họ thấy hiện thực mà lại có cái dạng ấy thì thật không thể tưởng tượng nổi.

“Hầu hết các nhà vật lý học giờ vẫn còn chưa chịu thừa nhận nó,” Gordon nói. “Dù chưa ai chứng minh được là nó sai hết.”

Bản thân Everett cũng chẳng có chút kiên nhẫn nào trước sự phản đối của mấy đồng nghiệp của mình. Ông ta khăng khăng là lý thuyết đó đúng, dù anh có thích nó hay không. Nếu anh không tin lý thuyết của ông ta, anh cũng chỉ là kẻ thiếu trí tưởng tượng và cổ hủ lạc hậu y như bọn khoa học gia không tin thuyết nhật tâm của Copernicus – vốn cũng là điều không tưởng vào thời đó. “Vì Everett đã khẳng định rằng khái niệm nhiều thế giới cùng song song tồn tại thực sự là đúng. Thực sự đã có nhiều vũ trụ. Và chúng chuyển động ngay bên cạnh vũ trụ của chúng ta. Tất cả những vùng vũ trụ này cuối cùng đều được gọi là ‘đa vũ trụ’.”

“Đợi chút,” Chris nói. “Anh đang định nói với chúng tôi rằng chuyện đó là có thật à?”

“Phải,” Gordon nói. “Nó có thật đấy.”

“Sao anh biết được?” Marek nói.

“Tôi sẽ cho mọi người xem,” Gordon nói. Và anh với lấy một cặp giấy màu nâu có ghi “ITC/Công nghệ CTC”.

*

Anh lấy ra một tờ giấy trắng trơn, bắt đầu vẽ. “Thí nghiệm rất đơn giản. Nó đã được thực hiện từ hai trăm năm nay rồi. Dựng hai bức tường, bức này trước bức kia. Bức đầu tiên có một đường cắt dọc.”

Anh chỉ cho họ bức tranh.

.

“Giờ ta sẽ chiếu đèn vào giữa đường cắt. Trên bức tường phía sau chúng ta sẽ thấy…”

“Một sọc thẳng màu trắng,” Marek nói. “Đến từ ánh sáng đã đâm xuyên qua đường cắt.”

“Chính xác. Nó sẽ trông dạng dạng như thế này.” Gordon lấy một bức ảnh vẽ trên một tấm bìa cứng ra.

.

Gordon lại tiếp tục phác thảo. “Giờ, thay vì chỉ có một đường cắt, ta sẽ có một bức tường với hai đường cắt. Chiếu đèn lên nó, và trên bức tường phía sau, ta sẽ thấy…”

.

“Hai sọc thẳng dựng đứng,” Marek nói.

“Không. Ta sẽ thấy một chuỗi các sọc sáng và sọc tối.” Anh chỉ cho họ xem.

.

“Và,” Gordon tiếp tục. “Nếu ta chiếu đèn qua bốn đường cắt, ta sẽ chỉ được một nửa số sọc so với lúc trước thôi. Vì những sọc ở vị trí giữa đều chuyển thành màu đen hết cả rồi.”

.

Marek chau máy. “Thêm khe thì lại bớt vạch sao? Tại sao lại thế?”

“Lời giải thích thông thường là thứ tôi vừa vẽ – ánh sáng xuyên qua những đường cắt có nguyên lý giống như hai con sóng gối lên nhau. Ở vài chỗ thì chúng hợp lại với nhau, và ở vài chỗ khác thì chúng triệt tiêu nhau. Thế là đã có một chuỗi những sọc sáng tối xen kẽ nhau hiện lên trên bức tường. Chúng ta nói rằng hai sóng đó giao thoa, và đây là một mẫu giao thoa.”

Chris Hughes nói: “Thì sao? Chuyện đó có gì không ổn à?”

“Thứ không ổn,” Gordon nói, “là tôi chỉ mới cho mọi người xem cách lý giải của người thế kỷ mười chín thôi. Nó hoàn toàn có thể chấp nhận được khi tất cả mọi người đều tin rằng ánh sáng có dạng sóng. Nhưng từ thời Einstein, chúng ta đều biết ánh sáng được cấu tạo từ các hạt gọi là photon. Sao ta có thể giải thích được việc một chùm các hạt photon có thể tạo nên mẫu hình này?”

Im lặng. Tất cả đều lắc đầu.

David Stern giờ mới bắt đầu cất tiếng. “Các hạt không đơn giản như anh vừa miêu tả đâu. Các hạt có một vài đặc tính dạng sóng, phụ thuộc vào từng trường hợp. Các hạt cũng có thể giao thoa với nhau. Trong trường hợp này, các photon trong tia sáng giao thoa với nhau để tạo nên cùng một mẫu như trên.”

“Nói thế nghe thì rất logic,” Gordon nói. “Gì thì gì, một tia sáng là tập hợp của hàng tỷ tỷ photon. Chẳng khó hình dung ra là chúng sẽ giao thoa với nhau theo cách này hay cách kia, và tạo ra các mẫu giao thoa.”

Tất cả đều gật đầu. Phải, không quá khó để hình dung ra đâu.

“Nhưng có thật là thế không?” Gordon nói.”Có thật đó là những gì đang diễn ra không? Có một cách để tìm ra, đó là triệt tiêu mọi liên kết giữa các photon. Hãy thử chỉ nghiên cứu một photon một lúc thôi. Việc này đã được thử tiến hành. Ta tạo ra một tia sáng yếu đến nỗi chỉ có duy nhất một photon xuất hiện một lúc. Và ta có thể đặt những thiết bị dò cực nhạy vào phía sau đường cắt – thật nhạy, nhạy đến nỗi chúng có thể nhận ra sự va chạm của một photon. Được chứ?”

Họ gật đầu, lần này chậm hơn một chút.

“Giờ, chẳng còn có giao thoa gì từ những photon khác nữa, vì chúng ta đang chỉ giải quyết có một photon một lúc thôi. Thế nên: những photon cứ đâm xuyên qua, mỗi lần một hạt. Các máy dò ghi lại nơi photon đã dừng lại. Và sau vài giờ, chúng ta đã có được kết quả, một thứ gì đó kiểu thế này.

.

“Thứ chúng ta đang thấy là các hạt photon riêng biệt chỉ hạ xuống một vài nơi nhất định, và không bao giờ hạ xuống những nơi khác. Chúng hoạt động y hệt như lúc ở trong cả một chùm sáng thông thường. Nhưng chúng đang tiến vào lần lượt từng hạt một. Chẳng có hạt photon nào giao thoa với chúng hết. Nhưng có gì đó đang giao thoa với chúng, vì chúng vẫn đang tạo ra mẫu giao thoa giống như bình thường. Thế thì cái gì đang giao thoa với những hạt photon đơn lẻ này đây?”

Im lặng.

“Anh Stern?”

Stern lắc đầu. “Nếu ta tính toán tất cả các khả năng…”

“Đừng trốn vào toán học. Cứ ở lại với hiện thực đi. Gì thì gì, thí nghiệm này đã được tiến hành – các photon thật sự, va chạm với những máy dò thật sự. Và có một cái gì đó đã thực sự giao thoa với chúng. Câu hỏi đặt ra, nó là cái gì?”

“Nó hẳn phải là các photon khác,” Stern nói.

“Phải,” Gordon nói, “nhưng chúng ở đâu? Chúng ta có máy dò, và chúng ta không thể phát hiện được bất cứ một photon khác nào. Vậy những photon giao thoa từ đâu mà ra?”

Stern thở hắt ra, “Được rồi,” anh ta nói. Rồi vung hai tay lên.

Chris nói, “Ý anh là sao, Được rồi? Được cái gì?”

Gordon gật đầu với Stern. “Nói cho họ đi.”

“Điều anh ta đang muốn nói là hiện tượng giao thoa đơn photon chứng minh rằng thực tế còn vĩ đại hơn những gì chúng ta thấy trong vũ trụ của mình nhiều. Sự giao thoa vẫn đang diễn ra, nhưng chúng ta không thể nhìn thấy bất cứ nguyên nhân nào trong vũ trụ của mình có thể gây ra nó. Vì thế, các hạt photon gây giao thoa phải nằm ở vũ trụ khác. Và điều đó chứng minh rằng có tồn tại những vũ trụ khác.”

“Chính xác,” Gordon nói. “Và chúng thỉnh thoảng có tương tác với vũ trụ của chính chúng ta.”

*

“Tôi xin lỗi,” Marek nói. “Anh có thể nói lại được không? Tại sao lại có một vũ trụ nào đó khác tương tác với vũ trụ của chúng ta chứ?”

“Đó là bản chất của đa vũ trụ,” Gordon nói. “Nhớ rằng, trong đa vũ trụ, các vũ trụ liên tục chia tách, có nghĩa là sẽ có rất nhiều vũ trụ khác có điểm tương đồng với vũ trụ của chúng ta. Và những vũ trụ tương đồng thì sẽ tương tác với nhau. Mỗi lần chúng ta tạo một tia sáng trong vũ trụ của chúng ta, những tia sáng khác sẽ đồng thời được tạo ra ở các vũ trụ tương đồng khác, và những photon từ các vũ trụ kia sẽ giao thoa với các photon trong vũ trụ của chúng ta và tạo ra mẫu hình chúng ta vừa thấy đây.”

“Anh đang nói với chúng tôi rằng đó là sự thật phải không?”

“Hoàn toàn thật. Thí nghiệm đó đã được thực hiện rất nhiều lần rồi.”

Marek nhíu mày. Kate nhìn chằm chằm vào mặt bàn. Chris gãi gãi đầu.

Cuối cùng David Stern nói, “Không phải tất cả các vũ trụ khác đều tương đồng với vũ trụ của chúng ta chứ?”

“Và tất cả chúng đều diễn ra cùng lúc với vũ trụ của chúng ta chứ?”

“Không phải tất cả, không.”

“Thế có nghĩa là sẽ có vài vũ trụ tồn tại ở một giai đoạn thời gian sớm hơn?”

“Phải. Thực tế thì, vì các vũ trụ vô hạn về số lượng, ở mọi điểm thời gian sớm hơn đều có một vũ trụ đang tồn tại.”

Stern nghĩ một thoáng. “Và anh đang định nói với chúng tôi rằng ITC có những công nghệ giúp du hành tới các vũ trụ kia?”

“Phải,” Gordon nói. “Đó là điều tôi đang muốn nói với các bạn.”

“Bằng cách nào?”

“Chúng tôi tạo những hố không-thời gian được nối với nhau bằng bọt lượng tử.”

“Anh muốn nói tới bọt Wheeler23? Những biến thiên hạ nguyên tử của không-thời gian?”

“Đúng.”

“Nhưng việc đó là không thể.”

Gordon mỉm cười. “Mọi người sẽ tự tay kiểm chứng được mà. Nhanh thôi. “

“Chúng tôi sẽ? Anh nói thế là có ý gì?” Marek nói.

“Tôi nghĩ là anh đã hiểu,” Gordon nói. “Giáo sư Johnston đang ở thế kỷ mười bốn. Chúng tôi muốn các bạn quay lại đó, đưa ông ấy trở về.”

*

Chẳng ai nói gì hết. Nữ tiếp viên ấn nút và tất cả các ô cửa sổ trong khoang đều đồng loạt đóng kín lại, chắn hết ánh nắng. Cô đi vòng quanh ca bin, đặt chăn và mền lên những chiếc ghế dài, biến chúng thành giường. Mỗi chiếc ghế được đặt một bộ tai nghe với chụp tai lớn ở bên cạnh.

“Chúng ta sẽ quay lại quá khứ à?” Chris Hughes nói. “Bằng cách nào?”

“Chỉ cho mọi người xem thì sẽ dễ hơn nhiều,” Gordon nói. Anh đưa cho mỗi người bọn họ một túi giấy bóng kính đựng viên con nhộng. “Ngay bây giờ, tôi muốn mọi người uống thứ này.”

“Chúng là gì thế?” Chris nói.

“Ba loại thuốc an thần,” anh nói. “Rồi tôi muốn tất cả mọi người nằm xuống và nghe tai nghe. Cứ ngủ nếu mọi người thích. Chuyến bay chỉ kéo dài mười tiếng, nên mọi người cũng chẳng tiếp thu được nhiều lắm đâu. Nhưng ít nhất thì cũng có thể quen được với ngôn ngữ và cách phát âm.”

“Ngôn ngữ gì cơ?” Chris nói, cầm lấy mấy viên thuốc.

“Tiếng Anh cổ, và tiếng Pháp thời Trung cổ.”

Marek nói, “Tôi đã biết những ngôn ngữ đó rồi.”

“Tôi ngờ là anh không biết được cách phát âm chuẩn đâu. Đeo tai nghe vào đi.”

“Nhưng chẳng ai biết cách phát âm chuẩn hết,” Marek nói. Ngay khi nói thế, anh ta nhận ra mình đã nói hớ.

“Tôi nghĩ anh sẽ nhận ra,” Gordon nói, “là chúng tôi có biết.”

Chris nằm xuống một chiếc giường. Anh kéo chăn lên và đeo tai nghe vào. Ít nhất chúng cũng át đi tiếng ồn ào của động cơ máy bay.

Những viên thuốc này chắc chắn phải rất mạnh, anh nghĩ, vì anh đột ngột cảm thấy rất thư thái. Anh không thể mở mắt ra được. Anh chăm chú lắng nghe khi băng bắt đầu chạy. Một giọng nói cất lên, “Hít thật sâu. Tưởng tượng bạn đang ở trong một khu vườn ấm áp và thật tươi đẹp. Mọi thứ đều rất thân thuộc và dễ chịu với bạn. Thẳng trước mặt, bạn thấy một cánh cửa dẫn xuống tầng hầm. Bạn mở cánh cửa. Bạn biết tầng hầm rất rõ, vì đó chính là tầng hầm trong nhà bạn. Bạn bắt đầu bước xuống những bậc đá, tiến vào trong căn hầm ấm áp và dễ chịu. Từng bước một, bạn nghe thấy những tiếng nói. Bạn thấy chúng thật dễ thương, thật dễ nghe.”

Rồi tiếng nam nữ bắt đầu luân phiên nhau.

“Đưa mũ cho tôi nào, Yiff may mean haht.”

“Mũ của anh đây. Hair baye thynhatt.”

“Cảm ơn. Grah mersy.”

“Không có gì. Ayepray thee.”

Các câu bắt đầu dài hơn. Chẳng mấy chốc Chris đã thấy khó theo kịp họ rồi.

“Tôi lạnh quá. Có áo khoác không? Ayem chilllingcold, ee wolld leifer half a coot?”

Chris từ từ, nhẹ nhàng thả lỏng người vào giấc ngủ với cảm giác rằng mình vẫn đang bước xuống cầu thang máy bay, ngày càng sâu vào một nơi thoải mái, giống như hang động, với những âm thanh vang vang. Anh cảm thấy thanh thản, mặc dù hai câu cuối cùng nghe được khiến anh thoáng lo lắng:

“Sẵn sàng chiến đấu. Dicht theesely to ficht.”

“Gươm của tôi đâu? Whar beest mee swearde?”

Nhưng rồi anh thở mạnh ra và chìm vào giấc ngủ.