BLACK ROCK
“Được ăn cả ngã về không.”
GEOFFREY DE CHARNY, 1358
*Đêm lạnh và bầu trời tràn ngập ánh sao khi họ từ trong máy bay bước ra đường băng ẩm ướt. Về phía Đông, Marek thấy những đường đen ngòm của núi mặt bàn bên dưới những đám mây chỉ chực sà xuống. Một chiếc Land Cruiser đang đứng đợi bên đường.
Chẳng mấy chốc họ đã lái xe trên đường cao tốc, dọc xuống những hàng cây dày đặc ở cả hai bên đường. “Chính xác là chúng ta đang ở đâu vậy?” Marek nói.
“Khoảng một giờ về phía Bắc Albuquerque,” Gordon nói. “Thành phố gần nhất là Black Rock. Đó là nơi chúng tôi đặt viện nghiên cứu.”
“Có vẻ là một nơi đồng không mông quạnh,” Marek nói.
“Chỉ vào đêm thôi, Thực ra có tới mười lăm công ty phát triển công nghệ cao tại Black Rock cơ. Và dĩ nhiên, Sandia ở ngay cuối đường. Los Alamos cách khoảng một giờ, Xa hơn nữa thì có White Sands.”
Họ tiếp tục đi dọc con đường thêm khoảng vài dặm nữa. Họ tới một biển chỉ đường cao tốc xanh-trắng nổi bật có ghi PHÒNG THÍ NGHIỆM ITC BLACK ROCK. Chiếc Land Cruiser rẽ phải, phóng thẳng lên con đường ngoằn ngoèo để tới những ngọn đồi cây cối um tùm.
*Từ hàng ghế sau, Stern nói, “Anh đã nói với chúng tôi lúc trước rằng các anh có thể kết nối đến các vũ trụ khác.”
“Đúng.”
“Bằng bọt lượng tử.”
“Đúng thế.”
“Nhưng nó chẳng có logic gì hết,” Stern nói.
“Tại sao? Bọt lượng tử là gì?” Kate nói, cố ngăn một tiếng ngáp.
“Nó là phần còn sót lại của thời kỳ vũ trụ được sinh ra,” Stern nói. Anh ta giải thích rằng vũ trụ khởi nguồn là một khối vật chất đơn nhỏ, cực kỳ đặc. Rồi, khoảng mười tám tỷ năm trước, nó nổ tung khỏi khối vật chất điểm đó – trong cái mà người ta vẫn gọi là vụ nổ Big Bang.
“Sau vụ nổ, vũ trụ bành trướng ra thành hình khối cầu. Có điều nó không phải là một khối cầu thực sự hoàn hảo. Bên trong khối cầu đó, vũ trụ không hoàn toàn đồng nhất – đó là lý do tại sao bây giờ chúng ta lại có các thiên hà trong vũ trụ dính và co kết với nhau không theo bất cứ quy luật gì hết, thay vì được phân bố một cách đồng nhất. Dù vậy, vấn đề là, khối cầu không ngừng bành trướng kia có một số điểm không hoàn hảo nhỏ, rất nhỏ bên trong nó. Và những phần không hoàn hảo đó không bao giờ được giải quyết. Chúng cứ mãi là một phần của vũ trụ.”
“Chúng là gì? Ở đâu?”
“Ở các chiều không gian hạ nguyên tử. Bọt lượng tử chỉ là một cách nói rằng ở những chiều không gian cực kỳ nhỏ, không gian-thời gian có những bọt bong bóng và gợn sóng siêu nhỏ. Nhưng bọt thì nhỏ hơn cả một nguyên tử đơn nữa. Có thể có hoặc không có các lỗ thông trong khối bọt đó.”
“Có đấy,” Gordon nói.
“Nhưng làm sao các anh có thể dùng nó để du hành được? Anh không thể cho một người qua cái lỗ nhỏ như thế. Anh không thể cho bất cứ cái gì qua cái lỗ nhỏ như thế.”
“Chính xác,” Gordon nói. “Chúng ta cũng không thể cho một mảnh giấy qua một đường dây điện thoại. Nhưng chúng ta có thể gửi fax.”
Stern chau mày, “Đó là chuyện hoàn toàn khác.”
“Sao lại thế?” Gordon nói. “Ta có thể truyền bất cứ thứ gì, miễn là chúng ta có cách nén và mã hóa nó. Chẳng phải vậy sao?”
“Về mặt lý thuyết, đúng,” Stern nói. “Nhưng anh đang nói đến việc nén và mã hóa thông tin của cả một con người.”
“Đúng.”
“Không thể làm thế được.”
Gordon mỉm cười, và giờ đã tỏ ra rất thích thú. “Sao lại không chứ?”
“Vì bản mô tả hoàn chỉnh của một con người – hàng tỷ những tế bào như thế, cách chúng liên kết với nhau, tất cả những chất hóa học và phân tử chúng nắm giữ, trạng thái sinh hóa của chúng – bao gồm quá nhiều thông tin để cho bất cứ cỗ máy tính nào có thể xử lý được.”
“Chỉ là thông tin thôi mà,” Gordon nói, nhún vai.
“Phải. Quá nhiều thông tin.”
“Chúng tôi nén nó bằng cách sử dụng thuật toán hình phân dạng bảo toàn dữ liệu đầu vào.”
“Thậm chí thế đi nữa, nó vẫn quá lớn…”
“Xin lỗi,” Chris nói. “Có phải anh đang nói là anh có thể nén cả một con người được không?”
“Không. Chúng tôi chỉ nén những thông tin tương đương với một con người.”
“Và nó được thực hiện thế nào vậy?” Chris nói.
“Bằng các thuật toán nén các phương thức để gói gọn dữ liệu vào máy tính, để chúng bớt tốn diện tích. Như định dạng JPEG và MPEG cho các dữ liệu hình ảnh vậy. Anh rõ những thứ đó chứ?”
“Tôi có các phần mềm xử lý việc đó, nhưng cũng chỉ đến thế mà thôi.”
“Được rồi,” Gordon nói. “Tất cả các chương trình nén đều có cùng một nguyên tắc hoạt động. Chúng tìm những điểm tương đồng trên hệ dữ liệu. Giả sử là anh có một bức tranh vẽ một bông hồng, được tạo nên từ một triệu điểm ảnh. Mỗi điểm ảnh lại có vị trí và một màu sắc riêng biệt. Vậy sẽ có tới ba triệu mẫu thông tin, rất nhiều dữ liệu nhỉ. Nhưng hầu hết các điểm ảnh đó sẽ có màu đỏ, được bao quanh bởi các điểm ảnh màu đỏ khác. Thế là chương trình quét tấm ảnh đó từng đường từng đường một, và xem xem liệu các điểm ảnh gần nhau có cùng một màu hay không. Nếu chúng cùng màu, nó sẽ viết chỉ thị cho máy tính là biến điểm ảnh này thành màu đỏ, và cả năm mươi điểm ảnh tiếp theo trong cùng một hàng ấy nữa. Rồi chuyển tới màu xám, và biến mười điểm ảnh tiếp theo thành màu xám. Và cứ thế mãi. Nó không lưu trữ thông tin của mỗi điểm đơn lẻ. Nó lưu trữ các chỉ dẫn để làm thế nào có thể tái tạo lại bức tranh. Và dữ liệu được cắt còn bằng một phần mười lúc đầu.”
“Dù thế đi nữa,” Stern nói, “anh không nói về một bức tranh hai chiều, anh đang nói về một sinh vật sống ba chiều, và cấu tạo của nó đòi hỏi quá nhiều dữ liệu…”
“Cái đó anh sẽ phải cần đến cả một hệ thống với số lượng lớn máy tính chạy song song với nhau,” Gordon nói, gật đầu. “Đúng là thế.”
Chris chau mày. “Chạy song song là thế nào?”
“Anh nối vài chiếc máy tính lại với nhau và chia nhỏ công việc ra cho chúng, để chúng có thể thực hiện được nhanh hơn. Một hệ thống máy tính song song lớn cần phải có tới mười sáu nghìn bộ vi xử lý được nối lại với nhau. Với một cái thực sự lớn, cần có tới ba mươi hai nghìn bộ vi xử lý. Chúng tôi có ba mươi hai tỷ bộ vi xử lý được gắn với nhau.”
“Tỷ?” Chris nói.
Stern nhoài người về phía trước. “Điều đó là không thể. Dù anh có cố thử tạo ra một cái…” Anh ta nhìn chằm chằm vào nóc ô tô, nhẩm tính.
“Nói xem, giả sử mỗi bo mạch chủ cách nhau hai phân rưỡi… như thế sẽ thành một chồng… ừm… cao tám trăm mét. Dù có được sắp xếp thành một khối lập phương, nó cũng phải có kích cỡ của một tòa nhà khổng lồ. Anh không thể tạo ra nó được. Anh không thể làm mát nó được. Và kiểu gì thì nó cũng chẳng hoạt động được đâu, vì các bộ vi xử lý sẽ ở cách nhau quá xa.”
Gordon ngồi xuống và mỉm cười. Anh đang nhìn về phía Stern, chờ đợi.
“Cách duy nhất để có thể làm được chu trình lớn như thế,” Stern nói, “là phải dùng tới các đặc tính lượng tử của các electron đơn. Nhưng như thế tức là anh đang nói tới một chiếc máy tính lượng tử: Và chưa ai làm được một chiếc như thế hết.”
Gordon chỉ mỉm cười.
“Phải không?” Stern nói.
*“Để tôi giải thích những gì David đang nói tới,” Gordon nói với những người kia. “Các máy tính thông thường xử lý các phép toán với hai trạng thái electron, được gọi là một và không. Đó là phương thức hoạt động của tất cả các máy tính, bằng việc xoay quanh một và không. Nhưng hai mươi năm trước, Richard Feynman đã nêu ra giả thuyết rằng ta có thể chế tạo được một cỗ máy tính tối tân sử dụng được toàn bộ ba mươi hai trạng thái lượng tử của một electron. Rất nhiều phòng thí nghiệm bây giờ đang cố chế tạo những chiếc máy tính lượng tử như thế. Lợi thế của chúng là khả năng lớn đến không thể tưởng tượng được – lớn đến mức chúng thực sự có thể tóm được và nén lại một vật thể sống có dạng ba chiều vào một dòng electron. Y hệt như một chiếc máy fax. Rồi anh sẽ có thể truyền dòng electron đó qua một lỗ thông bọt lượng tử và tái tạo nó trong một vũ trụ khác. Và đó là những gì chúng tôi đang làm. Nó không phải là di chuyển tức thời bằng công nghệ lượng tử. Nó không phải là hiện tượng rối hạt. Nó là sự vận chuyển trực tiếp tới một vũ trụ khác.”
*Cả nhóm lặng đi, nhìn chằm chằm vào anh. Chiếc Land Cruiser đi tới một khu đất trống. Họ thấy một dãy các tòa nhà hai tầng, gạch cùng kính. Chúng trông bình thường đến đáng ngạc nhiên. Đây có thể là bất cứ một khu công nghiệp nhỏ nào đặt tại ngoại ô những thành phố lớn trên khắp nước Mỹ. Marek nói, “Đây là ITC sao?”
“Chúng tôi muốn tránh dư luận,” Gordon nói. “Thực ra, chúng tôi chọn địa điểm này là vì ở đây có một khu mỏ cũ. Những khu mỏ tốt giờ rất khó kiếm. Rất nhiều dự án vật lý đòi hỏi phải có chúng.”
Dạt về một phía, làm việc dưới những ngọn đèn pha, vài người đàn ông đang chuẩn bị phóng một chiếc khinh khí cầu dự báo thời tiết. Chiếc khinh khí cầu có đường kính gần hai mét, màu trắng nhạt. Họ dõi theo khi nó nhanh chóng vút lên trời, một thiết bị nhỏ được gắn bên dưới. Marek nói, “Cái đó để làm gì vậy?”
“Chúng tôi rà soát hình mây hàng giờ, đặc biệt là khi có bão. Đó là một dự án nghiên cứu đang trên đà phát triển, để xem thời tiết có ảnh hưởng gì đến sự giao thoa không.”
“Giao thoa tới cái gì?” Marek nói.
Chiếc xe dừng lại trước một tòa nhà lớn. Một nhân viên bảo vệ ra mở cửa. “Chào mừng mọi người tới ITC,” anh ta vừa nói vừa cười rất hồ hởi. “Ngài Doniger đang chờ mọi người.”
*Doniger bước vội trên hành lang với Gordon. Kramer theo sau. Vừa đi, Doniger vừa liếc qua tờ giấy đề họ tên và tiểu sử của mọi người. “Họ trông thế nào vậy, John?”
“Khá hơn tôi nghĩ. Họ đều có thể trạng tốt. Họ biết vùng này. Họ biết thời kỳ đó.”
“Và có cần phải thuyết phục họ thêm nữa không?”
“Tôi nghĩ họ đã sẵn sàng rồi. Ta chỉ cần phải cẩn thận khi nói về những bất trắc có thể xảy ra thôi.”
“Anh đang muốn nói là tôi không nên thành thật hết lòng với họ chứ gì?”
“Chỉ là nên cẩn thận cách nói thôi,” Gordon nói. “Họ rất thông minh đấy.”
“Thật không? Nào, xem qua chút nào.”
Và gã mở tung cánh cửa ra.
*Kate và những người khác đang ngồi đợi trong một phòng họp trống trải, có vẻ giản dị – chiếc bàn formica đầy vết xước, những chiếc ghế gập xếp xung quanh. Ở một bên là một tấm bảng nguệch ngoạc đầy những công thức. Những công thức đó dài đến nỗi chúng chạy hết cả chiều dài của tấm bảng. Đó hoàn toàn là một bí ẩn đối với cô. Cô đang định hỏi Stern những công thức ấy là về cái gì, thì Robert Doniger bước nhanh vào phòng.
Kate thực sự bất ngờ khi thấy anh ta trẻ đến vậy. Anh ta trông chẳng già hơn họ gì hết, đặc biệt là lại đi giày thể thao, quần jean và mặc một chiếc áo phông có chữ Quicksilver. Dù là đã tối muộn, anh ta trông vẫn tràn đầy sinh lực, nhanh chóng đi vòng quanh chiếc bàn, bắt tay từng người trong bọn họ, gọi họ bằng tên. “Kate,” anh ta nói, mỉm cười với cô. “Rất hân hạnh được gặp cô. Tôi đã đọc những nghiên cứu sơ bộ của cô về nhà nguyện. Nó rất ấn tượng.”
Thực sự bất ngờ, cô trả lời, “Cảm ơn,” nhưng Doniger đã tiến sang bên cạnh rồi.
“Và Chris. Rất vui được gặp lại anh. Tôi thích cách tiếp cận mô phỏng-máy tính cho cây cầu cối xay kia; tôi nghĩ nó sẽ có kết quả tốt đấy.”
Chris chỉ có đủ thời gian để gật đầu trước khi Doniger nói, “Và David Stern. Chúng ta chưa gặp nhau. Nhưng tôi được biết rằng anh cũng là một nhà vật lý học, như tôi đây.”
“Đúng thế…”
“Chào mừng nhập hội. Và André. Không hề thấp đi chút nào hết! Nghiên cứu của anh về những cuộc đấu thương của Edward đệ nhất thực sự đã dạy ngài Contamine một bài học. Rất tuyệt. Vậy thì: xin mời, tất cả mọi người, mời ngồi.”
Họ ngồi xuống, và Doniger đi ra phía đầu bàn.
“Tôi sẽ đi thẳng vào vấn đề,” Doniger nói. “Tôi cần sự giúp đỡ của các bạn. Và tôi sẽ nói cho các bạn biết tại sao. Trong vòng mười năm qua, công ty của tôi đã tiến hành phát triển một công nghệ mới mang tính cách mạng. Nó không phải công nghệ để phục vụ chiến tranh. Nó cũng chẳng phải một công nghệ mang tính thương mại, để đem bán vì lợi nhuận. Ngược lại, nó là một công nghệ hoàn toàn lành mạnh và hòa bình có thể mang lại lại ích cực kỳ lớn lao cho loài người. Một lợi ích vĩ đại. Nhưng tôi cần sự giúp đỡ của mọi người.”
*“Thử cân nhắc một chút,” Doniger nói, “Về việc công nghệ đã ảnh hưởng không đồng đều đến các lĩnh vực tri thức trong thế kỷ hai mươi như thế nào. Vật lý học đã ứng dụng những tiến bộ khoa học hiện đại nhất – bao gồm những vòng gia tốc có đường kính hàng dặm. Hóa học và sinh học cũng vậy. Một trăm năm trước, Faraday và Maxwell chỉ có những phòng thí nghiệm tí hon. Darwin làm việc với cuốn sổ tay và chiếc kính hiển vi. Nhưng ngày nay, chẳng phát kiến khoa học nào có thể được thực hiện với những dụng cụ đơn giản như thế hết. Khoa học hoàn toàn phụ thuộc vào công nghệ. Nhưng thế còn các ngành khoa học nhân văn thì sao? Cùng trong suốt khoảng thời gian này, chuyện gì đã xảy ra với chúng?”
Doniger ngừng lại, kiểu như đang hùng biện. “Câu trả lời là, chẳng có gì hết. Chẳng có công nghệ nào đáng kể cả, Các học giả lịch sử hay văn học làm việc y hệt các bậc tiền bối một trăm năm về trước. Ồ, cũng có chút thay đổi nho nhỏ về việc xác thực tài liệu, và việc ứng dụng đĩa CD-ROM, và cứ thế cứ thế. Nhưng công việc cơ bản, hằng ngày của học giả đó thì hệt như cũ.”
Gã lần lượt nhìn về phía từng người bọn họ. “Thế nên chúng ta có một sự bất cân đối ở đây. Các lĩnh vực tri thức của con người không hề cân bằng. Các học giả về thời Trung Cổ tự hào rằng trong thế kỷ hai mươi thì cách nhìn của họ đã trải qua một cuộc cách mạng vĩ đại. Nhưng vật lý học đã trải qua ba cuộc cách mạng cùng trong thế kỷ đó. Một trăm năm trước đây, các nhà khoa học đã tranh luận về tuổi của vũ trụ và nguồn của năng lượng mặt trời. Chẳng ai trên thế giới biết câu trả lời hết. Ngày nay, tất cả những học sinh tiểu học đều biết. Ngày nay, chúng ta đã thấy được chiều dài chiều rộng của cả vũ trụ, chúng ta hiểu được nó từ cấp thiên hà tới cấp hạt hạ nguyên tử. Chúng ta đã nghiên cứu được nhiều đến nỗi chúng ta có thể nói một cách chính xác về những gì đã xảy ra trong vòng vài phút đầu tiên hình thành nên vũ trụ bùng nổ này. Liệu các học giả Trung Cổ có gì sánh được với những tiến bộ như thế này trong lĩnh vực của chính họ không? Một từ thôi, không. Sao lại không? Vì chẳng có công nghệ hiện đại nào hỗ trợ cho họ hết. Chẳng ai thèm phát triển một công nghệ mới để trợ giúp cho các nhà sử học – cho tới tận bây giờ.”
*Một màn trình diễn bậc thầy, Gordon nghĩ. Một trong những màn tuyệt vời nhất của Doniger – cuốn hút, đầy nhiệt huyết, thậm chí đôi lúc còn hơi cường điệu. Nhưng sự thật là, Doniger vừa mới cho họ một lời giải thích thú vị về dự án – mà không nói một lời đến mục đích thực sự của mình. Còn chẳng buồn nói cho họ biết chuyện gì đang thực sự diễn ra.
“Nhưng tôi đã nói với các bạn rằng tôi cần các bạn giúp đỡ. Và tôi thực sự rất cần.”
Thái độ của Doniger thay đổi. Gã giờ nói thật chậm rãi, nghiêm túc, đầy lo âu. “Mọi người biết là Giáo sư Johnston tới gặp chúng tôi ở đây vì ông ấy nghĩ chúng tôi đang che giấu thông tin. Và theo một cách nào đó, đúng là chúng tôi có làm thế thật. Chúng tôi có những thông tin nhất định mà không hề muốn chia sẻ, vì chúng tôi không thể giải thích vì sao lại có chúng được.”
Và, Gordon nghĩ, là vì Kramer đã làm rối tung hết lên.
“Giáo sư Johnston đã thúc chúng tôi,” Doniger nói. “Tôi chắc là mọi người cũng biết cách làm việc của ông ấy rồi. Ông ấy thậm chí còn dọa sẽ nói chuyện với giới báo chí. Cuối cùng chúng tôi đã cho ông ấy xem thứ công nghệ tôi sắp cho mọi người xem đây. Và ông ấy đã rất hứng thú y như mọi người sắp tới sẽ thế. Nhưng ông ấy cứ đòi đi ngược trở lại quá khứ, để tự mình kiểm chứng.”
Doniger ngừng lại. “Chúng tôi không hề muốn ông ấy đi. Ông ấy lại đe dọa lần nữa. Cuối cùng chúng tôi chẳng còn cách nào khác là phải để ông ấy đi. Chuyện đó là từ ba ngày trước. Ông ấy vẫn đang ở đó. Ông ấy đã gọi mọi người tới cứu bằng lời nhắn ông ấy biết mọi người sẽ tìm thấy. Mọi người biết khu khảo cổ và thời đại đó rõ hơn bất cứ ai khác trên cả thế giới. Mọi người phải quay lại đó và đưa ông ấy về. Mọi người là cơ may duy nhất của ông ấy.”
*“Chính xác là đã có chuyện gì xảy ra với thầy khi thầy quay trở lại quá khứ vậy?” Marek hỏi.
“Chúng tôi không biết,” Doniger nói. “Nhưng ông ấy đã phá luật.”
“Luật?”
“Mọi người phải hiểu cho là công nghệ này vẫn còn rất rất mới mẻ. Chúng tôi đã rất thận trọng trong việc sử dụng nó. Chúng tôi đã gửi đặc phái viên quan sát về lại quá khứ trong vòng hai năm trở lại đây – dùng những cựu lính thủy đánh bộ, các quân nhân được đào tạo bài bản. Nhưng dĩ nhiên họ không phải là các nhà sử học, và chúng tôi đã giám sát họ rất sát sao.”
“Nghĩa là sao?”
“Chúng tôi vẫn chưa cho những người quan sát đó bước vào thế giới quá khứ ấy. Chúng tôi chưa bao giờ để ai được ở lại đó quá một giờ. Và chúng tôi chưa bao giờ để ai được đi quá năm mươi mét khỏi cỗ máy. Chưa có ai bỏ máy lại và bước vào thế giới đó hết.”
“Nhưng Giáo sư đã làm thế?” Marek nói.
“Ông ấy hẳn là đã làm thế, phải.”
“Và chúng tôi cũng sẽ phải đi nữa, nếu chúng tôi muốn tìm được thầy ấy. Chúng tôi sẽ phải tiến vào thế giới đó.”
“Phải,” Doniger nói.
“Thế anh đang nói rằng chúng tôi sẽ là những người đầu tiên làm việc này. Những người đầu tiên bước vào quá khứ?”
“Phải. Mọi người, và Giáo sư trước mọi người.”
Im lặng.
Bất thình lình, Marek bật cười toét. “Tuyệt,” anh ta nói. “Tôi không thể đợi lâu hơn được nữa.”
Nhưng những người khác chẳng nói gì hết. Họ trông không hề thoải mái và rất bồn chồn.
Stern nói, “Thế còn người đàn ông họ tìm thấy trong sa mạc…”
“Joe Traub,” Doniger nói. “Ông ấy là một trong những nhà khoa học giỏi nhất của chúng tôi.”
“Ông ấy làm gì trong sa mạc vậy?”
“Hiển nhiên là ông ấy đã lái xe đến đó. Họ đã tìm thấy chiếc xe của ông ấy. Nhưng chúng tôi không biết tại sao ông ấy lại đến đó nữa.”
Stern nói, “Người ta nói là người ông ấy lung tung hết cả lên, và còn có gì đó với mấy đầu ngón tay của ông ấy nữa…”
“Cái đó không có trong bản khám nghiệm tử thi,” Doniger nói. “Ông ấy chết vì bị đau tim.”
“Thế tức là cái chết của ông ấy chẳng liên quan gì đến công nghệ của các anh à?”
“Chẳng hề,” Doniger nói.
*Lại có thêm một khoảng lặng nữa. Chris trượt người lại vào ghế. “Theo ngôn ngữ của những người không chuyên thì công nghệ này an toàn đến đâu?”
“An toàn hơn lái xe ô tô nhiều,” Doniger nói không chút do dự. “Mọi người sẽ được hướng dẫn cẩn thận, và chúng tôi sẽ cho những quan sát viên giàu kinh nghiệm nhất đi cùng. Chuyến đi sẽ kéo dài tối đa là hai giờ đồng hồ. Mọi người chỉ phải quay lại và đưa ông ấy về.”
Chris Hughes gõ gõ ngón tay lên mặt bàn. Kate cắn môi. Chẳng ai nói gì hết.
“Nhìn này, chuyện này hoàn toàn là tự nguyện thôi,” Doniger nói. “Có đi hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào mọi người, Nhưng Giáo sư đã gửi lời cầu cứu đến cho mọi người. Và tôi không nghĩ mọi người sẽ làm ông ấy thất vọng.”
“Sao anh không gửi những người giám sát đi?” Stern nói.
“Vì họ không biết đủ, David ạ, Như mọi người cũng nhận thấy, ở đó là một thế giới hoàn toàn khác. Mọi người có lợi thế tri thức. Mọi người biết khu di tích, và mọi người biết thời đại đó, cực kỳ chi tiết. Mọi người biết ngôn ngữ và phong tục thời đó.”
“Nhưng kiến thức của chúng tôi chỉ là hàn lâm mà thôi,” Chris nói.
“Không chỉ còn là thế nữa đâu,” Doniger nói.
*Cả nhóm rời khỏi phòng, cùng Gordon đi tới chỗ những cỗ máy. Doniger nhìn họ đi, rồi quay người lại khi Kramer bước vào. Cô đã quan sát mọi thứ từ camera an ninh.
“Cô nghĩ gì, Diane?” Doniger nói. “Họ có đi không?”
“Có. Họ sẽ đi đấy.”
“Liệu họ có thể thành công không?”
Kramer ngừng lại. “Tôi sẽ nói là năm mươi-năm mươi.”
*Họ đi xuống một cái dốc bê tông rộng mênh mông, đủ cho cả một cái xe tải đi vào. Ở phía cuối là một đôi cửa thép nặng trịch. Marek thấy gần chục camera an ninh cắm ở các góc khác nhau xung quanh dốc. Các camera chuyển động, bám lấy họ khi họ bước tới bên những cánh cửa. Ở chân dốc, Gordon ngước nhìn lên những chiếc camera an ninh, và đợi.
Những cánh cửa bật mở.
Gordon dẫn họ đi qua một cánh cửa nhỏ ở phía trước. Những cánh cửa thép đóng sập lại phía sau lưng. Gordon tiến tới chỗ những cánh cửa ở phía trong, rồi lại chờ đợi.
Marek nói, “Anh không thể tự mở cửa được à?”
“Không.”
“Tại sao? Họ không tin anh à?”
“Họ không tin ai hết,” Gordon nói. “Tin tôi đi, không ai vào đây được trừ khi chúng tôi cho họ vào.”
Những cánh cửa bật mở.
Họ bước vào một cái lồng thép công nghiệp. Không khí thật lạnh, có mùi hơi mốc. Những cánh cửa đóng lại phía sau họ. Vài tiếng vù vù, cái lồng bắt đầu hạ xuống.
Marek nhận ra họ đang đứng trong một cái thang máy.
“Chúng ta sẽ đi xuống ba trăm mét dưới lòng đất,” Gordon nói. “Hãy kiên nhẫn.”
*Thang máy dừng lại và cánh cửa bật mở. Họ đi dọc một đường hầm bê tông dài dằng dặc, những tiếng bước chân vang vọng khắp nơi. Gordon nói, “Đây là tầng điều khiển và bảo dưỡng. Các cỗ máy chính nằm ở tầng dưới cách chúng ta một trăm năm mươi mét nữa.”
Họ tới trước một đôi cửa nặng nề màu xanh đậm và trong suốt. Lúc đầu, Marek nghĩ rằng chúng được làm từ một loại kính cực kỳ dày. Nhưng khi những cánh cửa tự động trượt mở, anh ta thấy có những chuyển động rất khẽ bên dưới bề mặt. “Nước,” Gordon nói. “Chúng tôi sử dụng rất nhiều màng chắn bằng nước ở đây. Công nghệ lượng tử rất nhạy cảm với những ảnh hưởng từ bên ngoài – tia vũ trụ, trường điện từ nhân tạo, tất cả những thứ ấy. Đó là lý do tại sao từ đầu chúng tôi lại ở dưới đây.”
Phía trên đầu, họ thấy thứ trông có vẻ như là những cánh cửa dẫn mở vào hành lang dẫn tới các phòng thí nghiệm rất bình thường. Đi qua một cánh cửa thủy tinh nữa. Họ bước vào một hành lang được sơn trắng chống khuẩn, với những cánh cửa mở cả hai phía. Cánh cửa đầu tiên ở bên trái viết ĐÓNG GÓI TRƯỚC. Cánh cửa thứ hai, CHUẨN BỊ TRANG PHỤC. Và đi xuống cuối hành lang, họ thấy một tấm bảng chỉ đề đơn giản là CHUYỂN.
Gordon xoa hai tay vào nhau. Anh nói, “Đi thẳng tới khu đóng gói nào.”
*Căn phòng khá nhỏ làm Marek liên tưởng tới một phòng thí nghiệm trong bệnh viện; nó làm anh ta cảm thấy không thoải mái. Ở giữa phòng có một ống dài thẳng đứng, cao khoảng hơn hai mét mốt và có đường kính độ một mét rưỡi. Các khớp nối được mở. Ở bên trong là những dải xám xịt. Marek nói, “Máy làm rám nắng à?”
“Thực ra nó là một máy tạo ảnh cộng hưởng tiên tiến, về cơ bản, nó là một chiếc máy MRI công suất cao. Nhưng mọi người sẽ thấy đây là cách tập dượt tốt trước khi vào máy dịch chuyển. Có lẽ anh nên vào trước, Tiến sĩ Marek.”
“Vào trong đó?” Marek chỉ vào cái ống. Nhìn gần hơn, trông nó giống như một cỗ quan tài màu trắng vậy.
“Chỉ cần bỏ phục trang và trèo vào đó. Nó y hệt như một máy MRI vậy – anh sẽ không cảm thấy gì hết. Cả quá trình chỉ kéo dài trong một phút. Chúng tôi sẽ ở ngay phòng bên.”
Họ đi qua một cánh cửa phụ với một ô cửa sổ nhỏ, bước vào một căn phòng khác. Marek không thể thấy có gì đang ở trong đó. Cánh cửa đóng sập lại.
Anh ta thấy một chiếc ghế ở trong góc. Anh ta tiến lại gần và cởi quần áo ra, rồi bước đến chỗ chiếc máy quét. Có một tiếng cách của hệ thống liên lạc các trung khu điều khiển và anh ta nghe tiếng Gordon nói, “Tiến sĩ Marek, anh hãy nhìn xuống dưới chân mình đi.”
Marek nhìn xuống dưới chân.
“Anh thấy vòng tròn trên nền nhà chứ? Cố làm sao để chân anh hoàn toàn ở trong vòng tròn ấy.” Marek chuyển vị trí.
“Cảm ơn, được rồi. Cửa sẽ đóng lại bây giờ.”
Với một tiếng rì rầm của máy móc, cánh cửa gắn bản lề được đóng sập lại. Marek nghe thấy một tiếng rít khi nó đóng kín lại. Anh ta nói, “Kín hơi?”
“Đúng, bắt buộc phải thế. Anh sẽ cảm thấy có chút không khí lạnh tràn vào bây giờ. Chúng tôi sẽ cấp thêm ô xy trong khi cân chỉnh lại các thông số. Anh không mắc chứng sợ không gian hẹp đấy chứ?”
“Không, cho tới bây giờ,” Marek đang nhìn quanh căn phòng. Những dải xám xịt, giờ anh ta đã thấy rõ, là những miệng hở dài che nhựa bên ngoài. Phía sau lớp nhựa anh ta thấy những ngọn đèn, những cỗ máy đang gầm rú. Không khí mát hơn một cách đáng kể.
“Chúng tôi đang cân chỉnh thông số đây,” Gordon nói, “cố đừng chuyển động nhé.”
Đột ngột, những cái dải đơn lẻ xung quanh anh ta bắt đầu xoay, các cỗ máy kêu lạch cạch. Những dải ấy xoay càng lúc càng nhanh hơn, rồi đột ngột dừng khựng lại.
“Tốt rồi. Vẫn ổn chứ?”
“Giống như là ở trong một cái cối xay hạt tiêu ấy,” Marek nói.
Gordon phá lên cười. “Cân chỉnh đã xong. Còn lại thì đòi hỏi tính thời gian chính xác, nên phần sau là tự động. Chỉ cần vừa nghe vừa làm theo những chỉ dẫn là xong. Được chứ?”
“Được.”
Một tiếng cách. Marek chỉ còn một mình.
Một giọng nói thu sẵn cất lên, “Quá trình quét bắt đầu. Chúng tôi đang bật laser lên. Nhìn thẳng về phía trước. Và đừng nhìn lên.”
Ngay lập tức, phần trong cái ống ngập đầy thứ ánh sáng xanh da trời rực rỡ, chói lọi. Bản thân không khí cũng có vẻ như đang phát sáng.
“Laser đang phân cực khí xenon được bơm vào phòng. Năm giây.”
Marek nghĩ: Khí xenon à?
Màu da trời rực rỡ xung quanh anh ta càng lúc càng đậm. Anh ta nhìn xuống tay mình và hầu như không thấy vì bầu không khí lấp lánh đang bao trùm khắp mọi nơi.
“Chúng ta đã đạt tới ngưỡng tập trung xenon. Giờ chúng tôi muốn anh hít một hơi thật sâu.”
Marek nghĩ, Hít thật sâu? Hít xenon á?
“Giữ nguyên vị trí ấy và không di chuyển trong vòng ba mươi giây, sẵn sàng chưa? Đứng yên – mở mắt – hít thật sâu – giữ nguyên thế… Rồi!”
Những dải dài đột ngột xoay một cách điên loạn, rồi từng cái từng cái một, chúng bắt đầu rung lắc liên tục. Gần như thể nó đang nhìn vậy, và thỉnh thoảng nó lại quay lại để nhìn lần thứ hai. Marek có một cảm giác kỳ lạ là mình đang bị hàng trăm cặp mắt săm soi.
Giọng nói được thu sẵn lại cất lên, “Xin hãy đứng thật yên lặng. Còn hai mươi giây nữa.”
Xung quanh anh ta, các dải rì rầm và rung lắc liên tục. Rồi tất cả đột ngột dừng lại. Vài giây tĩnh lặng. Cái máy kêu cách một tiếng. Giờ các dải bắt đầu chuyển động về trước rồi giật lùi lại và cả sang hai phía.
“Xin hãy đứng thật yên lặng. Mười giây.”
Các dải bắt đầu xoay tròn, dần dần đồng bộ cho tới khi cuối cùng tất cả đều xoay thành một khối. Rồi chúng dừng lại.
“Quy trình quét đã xong. Cảm ơn vì đã hợp tác.”
Ánh sáng xanh tắt ngấm, và cánh cửa bật mở. Marek bước ra ngoài.
*Trong phòng kế bên, Gordon đang ngồi trước bàn điều khiển máy tính. Những người khác đã lôi ghế ra ngồi xung quanh anh.
“Hầu hết mọi người,” Gordon nói, “không nhận ra rằng chiếc máy quét MRI bình thường ở các bệnh viện hoạt động bằng cách thay đổi trạng thái lượng tử của các nguyên tử trong cơ thể ta – nói chung là mô men góc của các hạt trong hạt nhân nguyên tử. Các trải nghiệm với MRI cho chúng tôi biết rằng thay đổi chỉ số lượng tử trong cơ thể ta sẽ không gây ra phản ứng xấu nào hết. Thực tế, ta thậm chí còn chẳng cảm thấy rằng nó đã xảy ra cơ.
“Nhưng các máy MRI thông thường thực hiện việc này với một trường từ cực mạnh – 1,5 tesla, mạnh gấp hai mươi lăm nghìn lần trường lực từ của trái đất. Chúng ta không cần nhiều đến thế. Chúng tôi sử dụng các thiết bị giao thoa lượng tử siêu dẫn nhạy đến nỗi có thể đo được độ cộng hưởng chỉ nhờ trường từ trái đất. Chúng tôi chẳng có cục nam châm nào ở đây hết.”
Marek bước vào phòng. “Trông tôi thế nào?”
Hình ảnh trên màn hình cho thấy một bức tranh trong suốt của tứ chi Marek, giữa những đốm sáng đỏ. “Mọi người đang nhìn vào phần tủy, bên trong những xương dài, vào cột sống, vào hộp sọ,” Gordon nói. “Giờ nó phát triển hướng ra ngoài, đến các cơ quan nội tạng. Đây là phần xương” – họ nhìn thấy một bộ khung xương hoàn chỉnh – “và giờ chúng ta sẽ thêm các cơ…”
Nhìn các tổ chức nội tạng xuất hiện, Stern nói, “Máy tính của anh nhanh quá sức tưởng tượng.”
“Ồ, chúng tôi đã làm nó chậm lại rồi đấy,” Gordon nói. “Nếu không thì mọi người sẽ chẳng nhìn thấy cái gì đang xảy ra đâu. Thời gian xử lý thực sự về cơ bản là bằng không thôi.”
Stern mở to mắt. “Không?”
“Thế giới khác mà,” Gordon nói, gật đầu. “Những cách suy nghĩ cố hữu không áp dụng được đâu.” Anh quay về phía những người khác. “Ai sẽ tiếp nào?”
*Họ đi xuống cuối hành lang, tới căn phòng có chữ CHUYỂN. Kate nói, “Sao chúng ta phải làm hết mấy cái đó?”
“Chúng tôi gọi nó là đóng gói trước,” Gordon nói. “Nó giúp chúng ta dịch chuyển nhanh hơn, vì hầu hết thông tin của các bạn đều đã được tải vào máy. Chúng tôi chỉ làm công đoạn cuối cùng là quét các điểm khác biệt, và rồi chúng ta sẽ dịch chuyển.”
Họ bước vào một cái thang máy khác, và đi qua một đôi cổng nước khác. “Được rồi,” Gordon nói. “Chúng ta tới rồi đây.”
*Họ bước vào nơi trông như một cái động khổng lồ được chiếu sáng rực rỡ. Âm thanh vang vọng khắp nơi. Không khí khá lạnh lẽo. Họ đang đi trên một hành lang kim loại, lơ lửng ba mươi mét phía trên nền nhà. Nhìn xuống dưới, Chris thấy ba bức tường bán nguyệt chứa nước được xếp lại để tạo thành một vòng tròn, với những khoảng trống ở giữa đủ lớn để một người có thể đi qua. Bên trong vòng tròn lớn này là ba hình bán nguyệt nhỏ hơn, tạo nên bức tường thứ hai. Mỗi hình bán nguyệt nối tiếp nhau này lại được xoay sao cho các khoảng trống không bao giờ thẳng hàng, làm cả khối đó trông như một mê cung.
Ở giữa những đường tròn đồng tâm ấy là một khoảng không rộng khoảng sáu mét. Ở đây có nửa tá thiết bị dạng lồng, mỗi cái có kích thước bằng khoảng một cái bốt điện thoại công cộng. Chúng được sắp xếp chẳng theo trật tự khuôn mẫu nào hết. Chúng có những phần đỉnh kim loại màu sắc trông thật ảm đạm. Những màn sương trắng lửng lơ trôi qua khoảng không ấy. Những chiếc thùng được đặt trên nền nhà, và những cuộn cáp điện nặng nề màu đen lổn nhổn khắp nơi. Nó trông giống như một phòng thí nghiệm vậy. Và thực tế là cũng có vài người đang thao tác trên một trong những cái lồng ấy.
“Đây là khu chuyển dịch của chúng tôi,” Gordon nói. “Được che chắn cẩn thận, như mọi người cũng thấy. Chúng tôi đang cho xây khu thứ hai ở đằng kia nhưng phải vài tháng nữa mới đi vào sử dụng được.” Anh chỉ qua vùng không gian sâu như hang động ấy, về phía chuỗi các bức tường đồng tâm thứ hai đang mọc lên. Những bức tường này vẫn trong suốt; chúng chưa được đổ nước vào.
Từ hành lang kim loại, một chiếc thang máy dây cáp chạy xuống khoảng trống giữa các bức tường kính.
Marek nói, “Chúng ta đi xuống đó được chứ?”
“Chưa được đâu.”
Một kỹ thuật viên ngước nhìn lên và vẫy tay. Gordon nói, “Kiểm tra ghi dữ liệu mất bao lâu vậy, Norm?”
“Độ vài phút. Gomez sắp tới rồi.”
“Tốt quá.” Gordon quay về phía những người kia. “Đi lên phòng điều khiển để quan sát nhé.”
*Tắm trong ánh sáng màu xanh đậm, những cỗ máy đứng sừng sững trên một bệ cao. Chúng có màu xám mờ đục và kêu rì rì. Hơi nước trắng xóa cứ túa ra khắp nơi, che khuất nền nhà, đế và máy. Hai kỹ thuật viên mặc áo khoác da kiểu của người Eskimo màu xanh da trời quỳ rạp xuống, chỉnh sửa bên trong một cái chân đế.
Những cỗ máy về cơ bản là những ống trụ mở, với những tấm kim loại gắn ở đỉnh và đáy. Mỗi cỗ máy được đặt trên một đế kim loại dày. Ba chân chống dựng xung quanh để chống cho mái kim loại.
Các kỹ thuật viên đang kéo một chuỗi các cuộn dây cáp màu đen xuống khỏi một lưới điện mắc trên đầu và nối các cuộn cáp vào nóc của một cỗ máy, như các nhân viên trạm xăng đang đổ xăng vào một chiếc ô tô vậy.
Khoảng không giữa đế và trần máy hoàn toàn trống rỗng.
Trên thực tế, các cỗ máy dường như trông đơn giản đến đáng thất vọng. Những cái chân chống trông rất kỳ cục, có hình tam giác, và được đóng đinh tán dọc trên thân. Dường như có những luồng khói màu xanh nhạt không ngớt bay ra từ dưới phần mái của cỗ máy.
Cỗ máy trông chẳng giống những gì Kate tưởng tượng chút nào. Cô nhìn chằm chằm lên những màn hình khổng lồ bên trong cái phòng điều khiển chật hẹp. Đằng sau cô, hai kỹ thuật viên mặc áo cộc tay đang ngồi bên hai chiếc bàn máy tính. Màn hình trước mặt làm cô có ấn tượng rằng mình đang nhìn ra ngoài cửa sổ, dù sự thật là phòng điều khiển chẳng có cái cửa sổ nào hết.
“Mọi người đang nhìn thấy phiên bản mới nhất của công nghệ CTC,” Gordon nói. “Nó là viết tắt của Closed Timelike Curve24 – lý thuyết tôpô về không-thời gian mà chúng tôi sử dụng để quay về quá khứ. Chúng tôi đã phát triển những công nghệ hoàn toàn mới để tạo nên những cỗ máy này. Thứ các bạn nhìn ở đây thực ra đã là phiên bản thứ sáu, từ bản mẫu đầu tiên được chế tạo cách đây ba năm.”
Chris nhìn chằm chằm vào những cỗ máy và chẳng nói gì hết. Kate Erickson đang nhìn quanh phòng điều khiển. Stern đang bồn chồn và cọ cọ môi trên của mình. Marek đang nhìn Stern.
“Tất cả những kỹ thuật tiên tiến này,” Gordon tiếp tục, “được đặt ở phần đế, có bộ nhớ lượng tử indi-gali-ácxen, laser máy tính, và pin. Các bộ laser gây bốc hơi dĩ nhiên là ở trong những tấm kim loại. Thứ kim loại có màu xám xịt kia là niobi; những chiếc thùng áp suất kia làm bằng nhôm; các chất bảo quản là polymer.”
Một người phụ nữ trẻ có mái tóc ngắn đỏ sẫm và phong cách cứng cỏi đi vào phòng. Cô mặc một chiếc áo kaki, quần soóc và đi ủng; như chuẩn bị đi thám hiểm rừng rậm vậy. “Gomez sẽ là một trong những người hỗ trợ cho các bạn khi lên đường. Cô ấy sẽ quay lại ngay bây giờ để làm thứ chúng tôi gọi là một cuộc kiểm tra ghi dữ liệu. Cô ấy đã ghi xong các dữ liệu định hướng của mình, chỉnh thời điểm đến, và giờ cô ấy sẽ đi kiểm tra xem nó đã thực sự chính xác chưa.” Anh ấn nút liên lạc. “Sue? Cho chúng tôi xem bộ định hướng của cô có được không?”
Người phụ nữ giơ một con chip hình chữ nhật màu trắng lên, nó chỉ lớn hơn một cái tem thư một chút. Cô dễ dàng khum khum nó lại trong lòng bàn tay.
“Cô ấy sẽ dùng cái đó để trở lại quá khứ. Và để gọi cỗ máy đến khi quay trở về – cho chúng tôi xem cái nút được không, Sue?”
“Có hơi khó nhìn đấy,” cô nói, xoay cạnh của con chip lên. “Có một cái nút nhỏ ở đây, mọi người lấy móng tay cái ấn vào nó. Nó sẽ gọi cho cỗ máy khi các bạn đã sẵn sàng trở lại.”
“Cảm ơn, Sue.”
Một trong những kỹ thuật viên nói, “Nhảy trường.”
Họ quay lại nhìn. Trên bàn điều khiển, một màn hình hiện lên mặt phẳng ba chiều có dạng sóng với một đường răng cưa ở chính giữa vọt lên trên, như một đỉnh núi. “Đẹp lắm,” Gordon nói. “Rất kinh điển.” Anh giải thích với những người còn lại. “Vì các thiết bị cảm ứng của chúng tôi được thiết kế dựa trên công nghệ giao thoa lượng tử siêu dẫn, chúng tôi có thể dò tìm những gián đoạn cực kỳ nhỏ trong trường từ lân cận – chúng tôi gọi nó là ‘nhảy trường’. Chúng tôi sẽ ghi nhận sự bắt đầu của chúng hai giờ trước khi xảy ra. Và thực tế là chúng đã bắt được tín hiệu từ cách đây hai giờ rồi. Có nghĩa là một cỗ máy khác sắp trở lại đây.”
“Cỗ máy nào?” Kate nói.
“Cỗ máy của Sue.”
“Nhưng cô ấy đã đi đâu.”
“Tôi biết,” anh nói. “Nó có vẻ chẳng hợp lý gì. Các biến cố lượng tử vẫn luôn trái ngược với các logic thông thường mà.”
“Anh đang nói là anh có tín hiệu là cô ấy đang quay trở lại trước cả khi cô ấy rời đi à?”
“Phải.”
“Sao thế được?” Kate nói.
Gordon thở dài. “Khá phức tạp. Trên thực tế, những gì chúng ta đang nhìn trên trường từ đây là một hàm phân phối xác suất – nghĩa là khả năng một cỗ máy sẽ quay về. Chúng ta thường không nghĩ theo cách ấy. Chúng ta chỉ nói là nó sẽ quay về mà thôi. Nhưng để nói một cách chính xác, nhảy trường thực ra cho chúng ta biết rằng có một xác suất rất lớn là cỗ máy đó sẽ quay lại.”
Kate lắc đầu. “Tôi không hiểu.”
Gordon nói, “Hãy cứ nói rằng trong thế giới thông thường chúng ta vẫn có những niềm tin vào mối quan hệ nhân quả. Nguyên nhân xảy ra trước, kết quả xảy ra sau. Nhưng trật tự hành động đó không phải lúc nào cũng xảy ra trong thế giới lượng tử. Kết quả có thể xảy ra đồng thời với nguyên nhân, và kết quả cũng thể xảy ra trước nguyên nhân. Đây là một ví dụ nhỏ của điều đó.”
*Người phụ nữ tên Gomez bước vào một trong những cỗ máy ở đó. Cô ấn con chip trắng vào một cái khe trên chiếc bệ kim loại trước mặt. “Cô ấy vừa mới cài bộ định hướng của mình đấy, thứ sẽ hướng cho cỗ máy đi và về.”
“Và sao anh biết là anh có thể quay lại được?” Stern nói.
“Một chu trình di chuyển giữa các đa vũ trụ,” Gordon nói, “tạo ra một dạng năng lượng tiềm ẩn, như một chiếc lò xo bị kéo dãn ra chỉ muốn được bật lại như cũ. Thế là cỗ máy có thể trở lại một cách khá dễ dàng. Bắt đầu hành trình là một phần khá hóc. Đó là thứ được mã hóa trong con chip ấy.”
Anh nhoài người về trước để ấn vào một cái nút liên lạc. “Sue? Cô định đi bao lâu thế?”
“Tôi sẽ quay lại trong khoảng một, có lẽ là hai phút nữa.”
“Được. Đồng bộ đã xong.”
Giờ các kỹ thuật viên bắt đầu nói, ấn nút trên bảng điều khiển, nhìn vào thông tin trên màn hình video trước mặt họ.
“Kiểm tra khí heli.”
“Đã đủ,” một kỹ thuật viên nói, nhìn vào bảng điều khiển của cô.
“Kiểm tra EMR25“
“Xong.”
“Chuẩn bị máy chiếu tia laser.”
Một kỹ thuật viên nhấn nút, và từ những tấm kim loại, một chùm những tia laser dày đặc bắn vào giữa cỗ máy, tạo nên hàng tá những đốm xanh lá cây trên mặt và người Gomez trong khi cô đứng yên bất động, hai mắt nhắm chặt.
Các thanh kim loại bắt đầu chầm chậm xoay. Người phụ nữ ở chính giữa vẫn tiếp tục đứng yên. Những tia laser tạo những đường sọc xanh lá cây lên khắp người cô. Rồi những thanh kim loại ngừng lại.
“Tia laser đã thẳng hàng.”
Gordon nói, “Gặp lại trong một phút nữa nhé, Sue.” Anh quay lại với những người kia. “Được rồi. Bắt đầu đây.”
*Các tường chắn nước cong bao xung quanh chiếc lồng bắt đầu phát ra một luồng ánh sáng xanh nhạt. Cỗ máy lại chầm chậm xoay thêm một lần nữa. Người phụ nữ đứng chính giữa vẫn bất động; cỗ máy chuyển động xung quanh cô.
Tiếng rì rì càng lúc càng to hơn. Vòng quay càng lúc càng nhanh hơn. Người phụ nữ vẫn đứng, bình thản và thoải mái.
“Để thực hiện chuyến đi này,” Gordon nói, “Cô ấy sẽ chỉ tốn một hoặc hai phút thôi. Nhưng cô ấy thực ra có tới ba mươi bảy giờ năng lượng trong pin đấy. Đó là giới hạn cho những cỗ máy này có thể duy trì tại một địa điểm nào đó mà không bị quay trở lại.”
Những thanh kim loại xoay vun vút. Giờ họ nghe thấy một chuỗi tiếng động chát chúa, như tiếng súng máy.
“Đó là bài kiểm tra khoảng trống: cảm ứng hồng ngoại xác định khoảng không xung quanh cỗ máy. Chúng sẽ không hoạt động nếu không có ít nhất hai mét trống ở các hướng. Chúng kiểm tra cả hai chiều. Đó là cách đảm bảo an toàn. Chúng tôi không muốn cỗ máy hiện ra giữa một bức tường đá. Được rồi. Chúng đang xả xenon đấy. Cô ấy đi đây.”
Tiếng rì rì giờ trở nên cực kỳ lớn. Vòng xoay nhanh đến nỗi những dải kim loại mờ hết cả đi. Họ có thể nhìn thấy người phụ nữ bên trong khá rõ.
Họ nghe thấy một giọng nói thu sẵn cất lên, “Đứng yên – mở mắt – hít thật sâu – giữ nguyên thế… Rồi!”
Từ đỉnh cỗ máy, một vòng tròn duy nhất hạ xuống, nhanh chóng quét xuống chân cô.
“Giờ nhìn kỹ nhé, nhanh lắm đấy,” Gordon nói.
Kate nhìn thấy những tia laser màu tím đậm bắn về chính giữa từ những thanh kim loại xung quanh. Người phụ nữ ở trong đó dường như trở nên sáng nóng lên trong giây lát, và rồi một nguồn ánh sáng trắng chói đến mờ mắt từ bên trong cỗ máy bắn ra. Kate nhắm mắt lại, quay mặt đi. Khi cô nhìn lại lần nữa, có những đốm sáng hiện ra trước mắt, và trong giây lát cô chẳng thể thấy chuyện gì xảy ra. Rồi cô nhận ra rằng cỗ máy đang nhỏ dần lại. Nó đã bị giật ra khỏi những cuộn cáp trên đỉnh, giờ đang treo lủng lẳng.
Một chớp sáng laser khác.
Cỗ máy lại nhỏ hơn. Người phụ nữ bên trong cũng nhỏ dần lại. Giờ cô chỉ còn cao có một mét, và thu nhỏ lại trước mắt họ giữa một chuỗi những tia laser sáng rực.
“Chúa ơi,” Stern vừa nhìn vừa nói. “Cảm giác thế nào nhỉ?”
“Chẳng gì hết,” Gordon nói. “Ta chẳng cảm thấy gì hết. Xung thần kinh chạy từ da tới não chỉ mất xấp xỉ một phần mười giây. Sự bốc hơi nhờ laser chỉ mất năm phần tỷ giây. Mọi người đã đi lâu rồi.”
“Nhưng cô ấy vẫn ở đó mà.”
“Không. Cô ấy có còn ở đó nữa đâu. Cô ấy đã đi từ chuỗi laser đầu tiên rồi. Máy tính giờ chỉ đang xử lý dữ liệu thôi. Thứ mọi người nhìn thấy chỉ là sót lại từ bước nén dữ liệu thôi. Mức độ nén giờ khoảng ba mũ âm hai…”
Có một tia chớp khác nữa. Chiếc lồng giờ vùn vụt nhỏ lại. Nó còn một mét, rồi hơn nửa mét. Giờ nó đã gần tới nền nhà – chỉ chưa tới ba mươi xăng ti mét. Người phụ nữ bên trong trông như một con búp bê bé xíu mặc áo kaki.
“Âm bốn,” Gordon nói. Lại có một quầng sáng nữa, gần sàn nhà. Giờ Kate chẳng còn nhìn thấy cái lồng nữa.
“Chuyện gì đã xảy ra với nó vậy?”
“Nó vẫn ở đó. Gần như là thế.”
Một luồng sáng nữa và giờ chỉ còn một đốm sáng lóe lên trên nền nhà.
“Âm năm.”
Những luồng sáng xuất hiện nhanh chóng hơn nữa, nhấp nháy như một con đom đóm, nhạt nhòa dần. Gordon đứng đếm.
“Và âm mười bốn… Đi rồi.”
Chẳng còn chút ánh sáng nào nữa.
Chẳng có gì hết.
Chiếc lồng đã biến mất. Nền nhà tối đen, trống trơn.
Kate nói, “Chúng tôi sẽ phải làm cái đó à?”
*“Đó không phải một trải nghiệm gì khó chịu đâu,” Gordon nói. “Các bạn sẽ hoàn toàn tỉnh táo trong suốt quá trình, một điều chúng tôi chưa thể lý giải. Tới các quy trình nén dữ liệu cuối cùng, các bạn sẽ ở trong những vùng cực kỳ nhỏ – những vùng hạ phân tử – và tỉnh táo là một điều đáng lý không thể nào xảy ra. Nhưng nó vẫn xảy ra. Chúng tôi nghĩ nó có thể là một hệ quả của quá trình thực nghiệm, một thứ ảo giác vắt qua sự truyền dẫn. Nếu thật là thế, nó sẽ tương tự với cái chân giả mà những người bị cụt cảm nhận được, dù chi đó không hề tồn tại. Đây có thể là một dạng não giả. Dĩ nhiên chúng ta đang nói về những khoảng thời gian rất ngắn ngủi, phần tỷ giây. Nhưng chưa có ai hiểu được nói chung ý thức là gì cả.”
Kate đang chau mày. Suốt một lúc, cô đã nhìn vào thứ mà cô xem xét dưới góc độ kiến trúc, một dạng tiếp cận “chức năng định dạng cấu trúc”: những cấu trúc khổng lồ dưới lòng đất có dạng đối xứng đồng tâm này trông không tuyệt sao – làm cô thoáng nhớ tới những tòa lâu đài thời Trung cổ – dù những kiến trúc hiện đại này được xây dựng chẳng với một mục đích thẩm mỹ nào. Chúng chỉ được dựng lên để giải quyết một vấn đề khoa học. Cô nhận thấy kết quả hiện ra thật quá hấp dẫn.
Nhưng giờ cô đang phải đối mặt với mục đích mà những cỗ máy này được tạo ra, cô cố hết sức để hiểu những thứ mình vừa nhìn thấy. Và khóa học kiến trúc hoàn toàn chẳng có chút hỗ trợ gì cho cô hết. “Nhưng cái này, ừm, cái phương pháp thu nhỏ một con người này, nó bắt mọi người phải đập nhỏ cô ấy ra…”
“Không. Chúng tôi tiêu hủy cô ấy,” Gordon nói cộc lốc. “Ta phải tiêu hủy bản gốc, để nó có thể tái tạo lại được ở đầu kia. Ta không thể có cái này mà thiếu cái kia được.”
“Thế cô ấy chết thật à?”
“Tôi sẽ không nói vậy, không. Mọi người xem…”
“Nhưng nếu anh tiêu hủy một người ở một đầu,” Kate nói, “chẳng phải họ sẽ chết à?”
Gordon thở dài. “Nghĩ theo cách thông thường thì khó hiểu lắm,” anh nói. “Vì các bạn sẽ được tái tạo lại ngay chính thời khắc các bạn bị tiêu hủy, thì làm sao có thể nói là các bạn đã chết được. Chỉ là các bạn vừa chuyển tới một địa điểm khác mà thôi.”
Stern cảm thấy chắc chắn linh cảm được rằng Gordon không hoàn toàn thành thật khi nói về công nghệ đó. Chỉ việc nhìn vào những màn chắn nước uốn cong, vào tất cả những thứ máy móc đặt trên sàn nhà kia, anh ta cũng có cảm giác rằng còn kha khá điều cần được giải thích. Anh ta quyết tìm cho bằng được.
“Thế là giờ cô ấy đã ở trong vũ trụ khác rồi à?” anh ta hỏi.
“Đúng.”
“Anh dịch chuyển cô ấy, và cô ấy tới một vũ trụ khác? Giống như máy fax ấy à?”
“Chính xác.”
“Nhưng để tái tạo cô ấy, anh cần có một cái máy fax ở đầu bên kia chứ.”
Gordon lắc đầu. “Không, không cần đâu,” anh nói.
“Sao lại không?”
“Vì cô ấy đã ở đó rồi.”
Stern chau mày. “Cô ấy đã ở đó rồi? Sao thế được?”
“Ở thời điểm dịch chuyển, người đó đã ở vũ trụ khác rồi. Và vì thế người đó không cần phải được chúng tôi tái tạo.”
“Sao thế được?” Stern nói.
“Hiện tại, cứ gọi nó là một đặc tính của đa vũ trụ. Chúng ta có thể thảo luận về chuyện đó sau nếu anh thích. Tôi không chắc là những người khác cần phải băn khoăn về những chi tiết này,” anh nói, hất hàm về phía những người kia.
Stern nghĩ, Có gì đó khác nữa. Có gì đó anh ta không muốn nói với chúng ta. Stern nhìn lại chỗ khu dịch chuyển. Cố tìm chi tiết không bình thường, cố tìm thứ không phù hợp. Vì anh ta chắc chắn rằng ở đây có gì đó không bình thường.
“Không phải anh vừa nói với chúng tôi rằng các anh mới chỉ đưa vài người về quá khứ thôi à?”
“Đúng, phải.”
“Hơn một người một lần?”
“Gần như không bao giờ. Hiếm khi hai người lắm.”
“Thế tại sao các anh lại cần nhiều máy thế?” Stern nói. “Tôi đếm thấy có tới tám chiếc đấy. Không phải hai là đủ rồi sao?”
“Anh chẳng qua đang thấy kết quả chương trình nghiên cứu của chúng tôi,” Gordon nói. “Chúng tôi vẫn đang cố gắng hoàn chỉnh các thiết kế.”
Gordon đã trả lời khá trơn tru, nhưng Stern chắc chắn rằng mình đã thấy gì đó – một tia khó chịu lóe lên trong mắt Gordon.
Chắc chắn là có gì đó nữa.
“Tôi cứ nghĩ là,” Stern nói, “các anh cải tiến cùng trên mấy cỗ máy ấy.”
Gordon lại nhún vai, nhưng không trả lời.
Chắc chắn thế.
“Những thợ máy kia làm gì ở đây vậy?” Stern nói, vẫn tiếp tục vặn hỏi. Anh ta chỉ về phía những người đang chống cả tay lẫn chân xuống đất, chỉnh sửa đế một cỗ máy. “Tôi muốn nói tới cỗ máy ở trong góc ấy. Chính xác là họ đang sửa cái gì vậy?”
“David,” Gordon nói. “Tôi thực sự nghĩ là…”
“Thứ công nghệ này có thực sự an toàn không?” Stern nói.
Gordon thở dài. “Anh tự xem đi.”
Trên màn hình lớn, mộ