← Quay lại trang sách

BLACK ROCK (2)

“Xin hãy nằm nghiêng về bên trái.” Kate xoay người trên bàn và nhìn một cách rất không thoải mái vào người đàn ông đứng tuổi mặc đồng phục thí nghiệm màu trắng đang giơ một thứ trông như khẩu súng bắn keo lên và đặt nó trên tai cô. “Thứ này ấm lắm.”

Ấm? Cô thấy nóng rực cả tai lên. “Cái đó là gì vậy?”

“Đó là polymer hữu cơ,” người đàn ông nói. “Không độc và không gây dị ứng. Để thế tám giây nhé. Được rồi, giờ hãy nhai nào. Chúng tôi muốn các cơ phải được thoải mái. Rất tốt, cứ tiếp tục nhai nhé.”

Cô nghe thấy ông ta đi xuống cuối dãy. Chris đang nằm trên chiếc bàn phía sau cô, rồi Stern, rồi Marek. Cô nghe tiếng người đàn ông đó nói, “Nằm nghiêng sang bên trái nhé. Thứ này sẽ ấm lắm…”

Chẳng mấy chốc ông ta đã quay lại. Ông ta giúp cô nghiêng người, và tiêm thứ polymer nóng ấy vào bên tai còn lại. Gordon đang đứng nhìn từ trong góc phòng. Anh nói, “Đây vẫn hơi mang tính thử nghiệm một chút nhưng tới giờ thì mọi thứ vẫn diễn ra khá tốt đẹp. Nó được làm từ một loại polymer sẽ tự phân hủy sau một tuần.”

Sau đó, ông ta bảo họ đứng dậy. Ông ta lấy miếng cấy bằng nhựa ra khỏi tai họ một cách rất chuyên nghiệp và đi sang người kế tiếp.

Kate nói với Gordon, “Thính giác của tôi rất ổn, tôi không cần máy trợ thính đâu.”

“Đây không phải máy trợ thính,” Gordon nói.

Ở phía đối diện, người đàn ông đó đang khoan phần chính giữa của những miếng gắn vào tai kia và gài những vi mạch điện tử vào. Ông ta làm nhanh đến kinh ngạc. Khi các vi mạch đã vào vị trí, ông ta trám lỗ hổng bằng một ít nhựa nữa.

“Đó là máy dịch và tai nghe điện đàm. Trong trường hợp các bạn cần phải hiểu người ta muốn nói gì với mình.”

“Nhưng thậm chí nếu tôi có hiểu được những gì họ nói đi nữa,” cô nói, “sao tôi đáp lại họ được?”

Marek huých nhẹ cô. “Đừng lo. Tôi nói được tiếng Occitan. Và cả tiếng Pháp Trung cổ nữa.”

“Ồ, tốt quá,” cô nói một cách mỉa mai. “Anh sẽ dạy cho tôi trong vòng mười lăm phút nữa đấy à?” Cô đang rất căng thẳng vì sắp sửa bị tiêu hủy, bị tan thành hơi hay thành bất cứ thứ gì họ làm trong cái máy ấy, và những từ đó cứ thế là thoát ra khỏi miệng cô.

Marek trông đầy vẻ ngạc nhiên. “Không,” anh ta nói một cách rất nghiêm trang. “Nhưng nếu cô đi cùng với tôi, tôi sẽ giúp cô.”

Có gì đó trong sự chân thành của anh ta làm cô thấy an tâm. Anh ta đúng là một chính nhân quân tử. Cô nghĩ, anh ta sẽ chăm sóc cho mình. Cô thấy thật nhẹ nhõm.

Chẳng bao lâu sau họ đều đã được trang bị những miếng gắn tai có màu da người. “Giờ chúng đã được tắt,” Gordon nói. “Để bật chúng lên, chỉ cần lấy ngón tay đập nhẹ vào tai là được. Giờ, mời mọi người lại đây…”

*

Gordon đưa cho mỗi người một cái túi da. “Chúng tôi đang phát triển một bộ đồ sơ cứu; đây là bản mẫu. Các bạn là những người đầu tiên trở về thế giới quá khứ đó, nên có lẽ các bạn sẽ cần chúng. Các bạn có thể giấu chúng đi, dưới lớp quần áo.”

Anh đưa cho mỗi người một chiếc túi xách và lấy ra một chiếc hộp nhôm cao khoảng mười xăng ti mét và có đường kính gần ba xăng ti mét. Nó trông khá giống một chiếc hộp nhỏ đựng kem cạo râu. “Đây là thứ tự vệ duy nhất chúng tôi có thể cung cấp cho các bạn. Nó chứa mười hai liều ethylene dihydride với chất nền protein. Chúng tôi có thể ví dụ cho các bạn thấy với con mèo này, H.G. Mày đâu rồi, H.G.?”

Một con mèo đen nhảy lên bàn. Gordon vuốt ve nó, rồi bắn một chùm khí vào mũi nó. Con mèo hấp háy mắt, cất tiếng khịt khịt, và ngã ra một bên.

“Bất tỉnh trong vòng sáu giây,” Gordon nói, “và làm nó mất trí nhớ trong thời gian đó. Nhưng phải nhớ là nó chỉ có tác dụng ngắn hạn thôi. Và các bạn phải bắn thẳng vào mặt đối tượng nếu muốn đảm bảo nó có tác dụng.”

Con mèo đã kịp xoay người và tỉnh lại khi Gordon quay về phía cái túi và lấy ba chiếc hộp đỏ hình lập phương, chỉ bé tương đương cục đường cà phê, mỗi chiếc được bọc trong một lớp sáp mờ. Chúng trông như những viên pháo hoa vậy.

“Nếu mọi người cần lửa,” anh nói, “những thứ này sẽ rất có ích đấy. Kéo sợi dây mảnh này lại, và chúng sẽ bắt lửa. Chúng được đánh số mười lăm, ba mươi, sáu mươi – số giây trước khi bén lửa. Sáp, để chống thấm nước. Cảnh báo một chút: thỉnh thoảng không có tác dụng đâu.”

Chris Hughes nói, “Bật lửa Bic thì có vấn đề gì vậy?”

“Không hợp với thời đó. Mọi người không thể mang nhựa về lại đó được.” Gordon quay lại chỗ cái hộp cứu thương. “Chúng ta có đồ sơ cứu cơ bản, chẳng có gì lạ lẫm hết. Thuốc chống viêm, thuốc chống tiêu chảy, thuốc chống co thắt, thuốc giảm đau. Mọi người sẽ không muốn nôn mửa trong lâu đài đâu,” anh nói. “Và chúng tôi cũng không thể đưa viên con nhộng cho mọi người được vì chuyện thấm nước.”

Stern nhìn vào tất cả những thứ đó với vẻ không tin. “Nôn mửa trong lâu đài?” anh ta nghĩ. “Nghe này, ừm…”

“Và cuối cùng, dụng cụ đa năng bỏ túi, gồm dao và cái bẻ khóa.” Nó giống như một con dao gấp Thụy Sĩ. Gordon cho mọi thứ vào lại trong cái hộp. “Có lẽ mọi người sẽ chẳng bao giờ phải dùng đến những thứ này đâu, nhưng cứ mang đi. Giờ hãy đi ăn vận chỉnh tề nào.”

*

Stern vẫn chưa thể giũ bỏ cái cảm giác không thoải mái của mình đi được. Một người phụ nữ đôn hậu, dịu dàng như bà ngoại đứng dậy khỏi chiếc máy khâu và đưa cho họ tất cả những trang phục cần thiết: đầu tiên là quần trong màu trắng bằng vải lanh – một dạng quần hộp, nhưng không có chun – rồi một chiếc thắt lưng da, và rồi quần tất len màu đen.

“Những thứ này là gì vậy?” Stern nói. “Quần tất?”

“Chúng được gọi là quần chẽn đấy, con ạ.”

Cũng chẳng có chun gì hết. “Mặc chúng kiểu gì đây ạ?”

“Luồn nó xuống dưới thắt lưng, phía dưới lần áo chẽn. Hoặc buộc nó vào đầu mút của cái áo ấy.”

“Đầu mút?”

“Đúng đấy, con ạ. Của cái áo chẽn ấy.”

Stern liếc nhìn những người khác. Họ đang bình lặng chất quần áo thành đống khi được đưa cho. Họ dường như biết tất cả mọi thứ là để làm gì; họ bình tĩnh cứ như đang ở trong một cửa hiệu tạp hóa vậy. Nhưng Stern đang rất lúng túng, và anh ta có cảm giác hơi hoảng loạn. Giờ anh ta được đưa cho một chiếc áo vải lanh màu trắng dài tới trên đầu gối, và một chiếc áo ngoài dài rộng hơn, gọi là áo chẽn ngoài, làm bằng nỉ chần. Và cuối cùng là một con dao găm gắn vào một sợi xích thép. Anh ta nhìn nó với vẻ đầy ngờ vực.

“Thời ấy ai cũng mang một con. Mọi người sẽ cần để cắt đồ ăn đấy, ít nhất cũng là thế.”

Anh ta hờ hững đặt nó lên đống đồ, xọc vào giữa chỗ quần áo, và vẫn đang cố tìm “đầu mút”.

Gordon nói, “Những bộ quần áo được thiết kế sao cho trông thông thường nhất, không giàu cũng chẳng nghèo. Chúng tôi muốn chúng giống với trang phục của một thương nhân hạng trung, một người giúp việc trong cung điện, hoặc một quý tộc nghèo xác xơ.” Stern được trao cho một đôi giày, trông giống như một đôi hài da mũi nhọn, trừ việc chúng có thêm đai thắt. Như giày của mấy anh hề trong cung, anh ta nghĩ với tâm trạng chẳng mấy vui vẻ.

Người phụ nữ đôn hậu mỉm cười: “Đừng lo, chúng có lỗ thông hơi đấy, y như đôi giày Nike của cậu thôi.”

“Sao mọi thứ trông cứ bẩn bẩn thế?” Stern nói, cau mày nhìn vào cái áo chùng.

“Ồ, cậu muốn hòa nhập mà, phải không?”

*

Họ thay đồ trong phòng thay quần áo. Stern nhìn những người đàn ông còn lại. “Chính xác là làm thế nào để chúng ta, ừm…”

“Anh muốn biết chúng ta mặc đồ thế kỷ mười bốn thế nào chứ gì?” Marek nói. “Đơn giản ấy mà.” Marek đã cởi hết quần áo, đi quanh một cách rất thoải mái. Cơ bắp cuồn cuộn. Stern thấy hơi không thoải mái khi anh ta từ từ cởi chiếc quần dài ra.

“Đầu tiên,” Marek nói, “mặc quần trong vào. Đây là loại vải lanh chất lượng rất tốt. Hồi đó họ có vải lanh chất lượng tốt lắm. Để giữ cái quần này, buộc dây lưng quanh vùng thắt lưng và cuộn phần đầu của chiếc quần quanh thắt lưng khoảng vài lần, thế là nó sẽ chắc thôi. Được chứ?”

“Thắt lưng của anh nằm ở dưới quần với áo à?”

“Đúng rồi đấy. Kéo cao quần đùi lên. Tiếp, mặc quần chẽn vào.” Marek bắt đầu kéo cái quần tất len màu đen của mình lên. Chiếc quần chẽn có cả phần tất chân nữa, như quần ngủ của trẻ em. “Chúng có mấy cái dây ở trên đầu này, thấy chưa?”

“Cái quần chẽn của tôi lụng thụng quá,” Stern nói, kéo nó lên, giật mạnh chỗ đầu gối.

“Ổn mà. Nó không phải quần chẽn hẳn nên không bó sát vào người đâu. Tiếp, áo thụng vải lanh. Chỉ cần chui qua đầu và kệ cho nó tuột xuống. Không, không, David. Phần cắt sâu ở cổ phải ra trước chứ.”

Stern rút hai tay ra và quờ quạng xoay chiếc áo ra trước.

“Và cuối cùng,” Marek nói, nhặt một chiếc áo chui đầu bằng nỉ lên, “mọi người mặc áo chẽn vào. Kết hợp với áo khoác ngoài và áo gió. Mọi người mặc nó cả lúc trong nhà và khi ra đường, không bỏ nó ra trừ khi trời cực kỳ nóng. Thấy đầu mút chưa? Chúng là phần diềm, phía dưới lớp nỉ. Giờ, buộc quần tất vào phần đầu mút của áo chẽn, qua những vết cắt trên áo ngoài ấy.”

Marek làm hết những việc này chỉ trong chốc lát; cứ như là ngày nào trong đời anh ta cũng làm thế hết vậy. Chris mất lâu hơn, Stern gật gù thỏa mãn. Bản thân Stern phải vật lộn mãi mới xoay người và buộc những nút thắt sau lưng lại được.

“Anh nói thế này là đơn giản à?” anh ta càu nhàu.

“Chỉ là anh không chú ý lắm đến quần áo của chính mình thôi,” Marek nói. “Những người phương Tây trung lưu ở thế kỷ hai mươi mặc từ chín tới mười hai món quần áo hằng ngày đấy. Này, ở đây có mỗi sáu thôi đấy.”

Stern kéo cái áo chẽn lên, thả nó xuống thắt lưng, cho nó tuột xuống đùi. Làm như thế khiến cái áo trong của anh ta bị kéo nhăn nhún lại và cuối cùng Marek phải giúp anh ta kéo thẳng nó ra, tiện thể làm cho cái quần chẽn của anh ta được khít hơn.

Cuối cùng, Marek buộc lỏng con dao và sợi xích quanh thắt lưng Stern, lùi lại để ngắm nghía.

“Đấy,” Marek nói, gật gật đầu. “Anh thấy thế nào?”

Stern lắc lắc vai với vẻ không thoải mái. “Cứ như một con gà bị bó chân ấy.”

Marek cười. “Anh sẽ quen nhanh thôi.”

*

Kate mặc sắp xong thì Susan Gomez, người phụ nữ trẻ vừa đi ngược về quá khứ tiến vào. Gomez đã mặc quần áo của thời đại đó và có đội thêm một bộ tóc giả nữa. Cô ném một bộ tóc giả khác cho Kate.

Kate nhăn mặt.

“Cô phải đội đấy,” Gomez nói. “Tóc ngắn đối với phụ nữ là điều ô nhục, hoặc còn là bị coi là theo dị giáo đấy. Không được để bất cứ ai ở thời đó thấy tóc thật của cô.”

Kate đội bộ tóc giả lên, tóc vàng sẫm xổ xuống vai. Cô quay lưng lại nhìn vào gương, và nhìn thấy khuôn mặt của một người xa lạ. Cô trông trẻ hơn, dịu dàng hơn, yếu đuối hơn.

“Một là thế,” Gomez nói, “hoặc là cắt tóc cô thật ngắn đi, như đàn ông ấy. Tùy cô chọn.”

“Tôi sẽ đội tóc giả,” Kate nói.

*

Diane Kramer nhìn Victor Baretto và nói, “Nhưng luật đã luôn là thế rồi, Victor. Anh biết thế mà.”

“Phải, nhưng cái chính,” Baretto nói, “là mọi người đang giao nhiệm vụ mới cho chúng tôi.” Baretto là một người đàn ông mảnh người, rắn rỏi hơn ba mươi tuổi, một lính biệt kích xuất ngũ đã làm ở đây được hai năm. Trong khoảng thời gian đó, anh ta đã được tiếng là nhân viên bảo vệ có năng lực, nhưng cũng hay tự ái vặt. “Giờ mọi người bảo chúng tôi trở lại quá khứ, nhưng lại không cho chúng tôi đem theo vũ khí.”

“Đúng rồi đấy, Victor. Không làm gì sai với lịch sử hết. Không một đồ vật của thế giới hiện đại nào được quay trở lại. Từ đầu luật đã thế rồi mà.” Kramer cố giấu sự bực tức.

Những người trong quân đội này rất khó chịu, đặc biệt là bọn đàn ông. Những người phụ nữ, như Gomez, thì còn được. Nhưng mấy người đàn ông cứ cố, như họ vẫn thường nói, “áp dụng những gì họ được rèn” cho những chuyến quay về quá khứ của ITC, và nó chẳng bao giờ thực sự được việc gì hết. Kramer thầm nghĩ rằng đó chỉ là một cách để những người đàn ông đó cố giấu đi sự lo lắng của mình, nhưng dĩ nhiên là cô chẳng bao giờ nói ra. Gì thì gì, ngay từ đầu, việc phải nghe lệnh từ một người phụ nữ như cô cũng đã là đủ khó khăn cho họ rồi.

Những người đàn ông cũng gặp vấn đề khi phải giữ bí mật về công việc của mình. Phụ nữ thì dễ hơn, nhưng đàn ông cứ thích khoe khoang về chuyện trở về quá khứ. Dĩ nhiên họ bị cấm bởi tất cả các thể loại hợp đồng có thể, nhưng hợp đồng sẽ bị quên ngay chỉ sau vài chầu rượu ở quán bar. Đó là lý do vì sao Kramer đã thông báo với họ tất cả mọi chuyện về sự tồn tại của vài con chip được ghi dữ liệu đặc biệt. Những con chip này đã đi vào huyền thoại của công ty, cùng với tên của chúng nữa: Tunguska, Vesuvius, Tokyo. Chip Vesuvius đưa bạn trở lại vịnh Naples vào lúc 7 giờ sáng ngày 24 tháng Tám năm 79 trước Công Nguyên, ngay trước khi bụi tro núi lửa Vesuvius giết sạch tất cả mọi người. Tunguska đưa bạn trở lại Siberia vào năm 1908, ngay trước khi sao chổi khổng lồ rơi xuống, tạo ra sóng xung kích có thể giết chết tất cả mọi sinh vật trong bán kính hàng trăm dặm. Tokyo đưa bạn trở lại thành phố đó vào năm 1923, ngay trước khi trận động đất khủng khiếp san phẳng nó. Mục đích là nếu thông tin về dự án bị đưa ra báo giới, bạn sẽ có thể dùng nhầm con chip cho lần du hành tới. Chẳng người lính nào chắc được chuyện này có đúng không, hay chỉ là truyền thuyết.

Đó chính là thứ Kramer thích.

“Đây là một nhiệm vụ mới,” Baretto lại nói, cứ như là cô chưa hề nghe thấy anh ta nói gì vậy. “Cô đang đề nghị chúng tôi trở lại quá khứ – đi vào giữa lòng địch, có thể nói là như vậy – mà không được mang theo vũ khí.”

“Nhưng tất cả các anh đều được đào tạo chiến đấu tay không hết. Anh, Gomez, tất cả mọi người.”

“Tôi không nghĩ thế là đủ đâu.”

“Victor…”

“Với tất cả sự tôn trọng có thể, cô Kramer, cô không chịu đối diện với sự thật gì hết,” Baretto ngoan cố nói. “Các vị đã mất hai người rồi. Ba, nếu tính cả Traub.”

“Không đâu, Victor. Chúng ta chưa mất ai hết.”

“Cô rõ ràng là đã để mất Traub.”

“Chúng ta không hề mất Traub,” cô nói. “Traub tự ý đi, và Traub còn bị khủng hoảng nữa.”

“Cô chỉ nghĩ là ông ta bị khủng hoảng thôi.”

“Chúng ta đều biết là ông ấy bị thế, Victor. Sau khi vợ chết, ông ấy cực kỳ suy sụp, và chỉ muốn tự sát. Dù đã quá giới hạn được quay lại, ông ấy vẫn cứ quay lại, để xem liệu mình có thể cải tiến công nghệ được không. Ông ấy nghĩ rằng mình có thể biến đổi các cỗ máy sao cho có ít lỗi dịch chuyển hơn. Nhưng rõ ràng là ý tưởng của ông ấy đã sai. Đó là lý do tại sao ông ấy lại ở trong sa mạc Arizona. Tôi thì không hề nghĩ là ông ấy thực sự có ý định quay về đâu. Tôi nghĩ đó là tự sát.”

“Và cô đã mất Rob,” Baretto nói. “Anh ta chẳng có dự định tự tử nào hết.”

Kramer thở dài. Rob Deckard là một trong những quan sát viên đầu tiên trở lại quá khứ, gần hai năm trước. Và anh ta là một trong những người đầu tiên gặp lỗi. “Lúc đó dự án mới chỉ bắt đầu, Victor. Công nghệ còn chưa ổn định. Và anh biết chuyện gì xảy ra rồi mà. Sau khi du hành vài lần, Rob bắt đầu có dấu hiệu chịu tác dụng phụ. Anh ta cứ đòi được đi tiếp. Chứ chúng ta có mất anh ta đâu.”

“Anh ta ra đi, và anh ta chẳng bao giờ quay lại,” Baretto nói. “Đó là vấn đề chính đấy.”

“Rob biết chính xác mình đang làm gì.”

“Và giờ là vị Giáo sư.”

“Chúng ta vẫn chưa mất Giáo sư,” cô nói. “Ông ấy vẫn còn sống.”

“Cô hy vọng thế thôi. Và cô thậm chí còn chẳng biết vì sao ông ta không quay lại được mà.”

“Victor…”

“Tôi chỉ đang nói là,” Baretto nói, “trong vụ này kế hoạch hậu cần chẳng ăn nhập gì với nhiệm vụ đặt ra hết. Cô đang bắt chúng tôi phải chịu mạo hiểm không cần thiết.”

“Anh không bắt buộc phải đi mà,” Kramer nhẹ nhàng nói.

“Không, trời ạ. Tôi chẳng bao giờ nói thế hết.”

“Anh không phải làm đâu.”

“Không. Tôi sẽ đi.”

“Vậy, đấy là luật đấy. Không công nghệ hiện đại nào được trở lại quá khứ hết. Hiểu rồi chứ?”

“Hiểu rồi.”

“Và không được nói chuyện này cho mấy vị học giả biết.”

“Không, không. Không đời nào. Tôi chuyên nghiệp mà.”

“Được rồi,” Kramer nói.

Cô dõi theo khi anh ta rời đi. Anh ta đang dỗi, nhưng anh ta sẽ chịu theo thôi. Họ lúc nào cũng thế mà, kiểu gì rồi cuối cùng cũng thế. Và quy định này luôn quan trọng, theo như cô nghĩ. Dù Doniger có thích cho vài bài diễn thuyết nhỏ xinh về chuyện đằng nào ta cũng chẳng thể làm thay đổi lịch sử, sự thật là chẳng ai thực sự biết – và cũng chẳng ai muốn mạo hiểm hết. Họ không muốn các thứ vũ khí, đồ vật, hay nhựa tổng hợp từ hiện tại trở lại quá khứ.

Và họ chưa bao giờ để chuyện đó xảy ra hết.

*

Stern ngồi với những người khác trên những chiếc ghế tựa cứng trong một căn phòng đầy rẫy bản đồ. Susan Gomez, người phụ nữ vừa trở về từ chiếc máy du hành quá khứ, nói bằng một giọng lanh lảnh, nhanh đến mức Stern thấy là có hơi vội quá mức.

“Chúng ta sẽ tới,” cô nói, “tu viện Sainte-Mère, trên sông Dordogne, ở miền Tây Nam nước Pháp. Chúng ta sẽ tới đó vào lúc 8 giờ 4 phút sáng ngày thứ Năm, mùng 7 tháng Tư năm 1357 – đó là ngày có tin nhắn của Giáo sư. Rất may cho chúng ta là hôm đó có một cuộc đấu thương ở Castelgard, và việc đó sẽ hút cả đám đông từ các vùng lân cận về, nên chúng ta sẽ không bị chú ý.”

Cô gõ nhẹ lên một tấm bản đồ. “Chỉ để định hướng thôi, tu viện nằm ở đây. Castelgard ở đằng này, bên kia sông. Và thành La Roque ở trên vách đá này, phía trên tu viện. Có thắc mắc gì không?”

Họ đều lắc đầu.

“Được rồi. Tình hình ở vùng này không được ổn định lắm. Như mọi người đều biết, tháng Tư năm 1357 đặt chúng ta vào khoảng năm thứ hai mươi của Cuộc chiến một trăm năm. Bảy tháng sau chiến thắng của Anh tại Poitiers, nơi họ cầm tù vua Pháp. Vua nước Pháp giờ bị giam lại để đòi tiền chuộc. Và nước Pháp, không vua, đang là một nơi cực kỳ hỗn loạn.

Ngay lúc này, Castelgard đang trong tay ngài Oliver de Vannes, một hiệp sĩ người Anh sinh ra tại Pháp. Oliver cũng đã chiếm La Roque, ông ta đang củng cố khả năng phòng ngự của lâu đài. Hiệp sĩ Oliver là một người chẳng mấy dễ chịu gì và nổi tiếng là nóng tính. Họ gọi ông ta là ‘Đồ tể thành Crécy’, vì màn tắm máu trong trận chiến ấy.”

“Vậy Oliver quản cả hai thành phố đó?” Marek nói.

“Tại thời điểm này thì đúng vậy. Tuy thế một nhóm các hiệp sĩ phe đối lập, dẫn đầu bởi một thầy tu bị rút phép thông công tên là Arnaut de Cervole…’“

“Đại Tư tế,” Marek nói.

“Đúng, chính xác, Đại Tư tế – đang tới khu này, và chắc chắn là với mục đích cố chiếm tòa thành từ tay Oliver. Chúng tôi tin là Đại Tư tế còn vài ngày nữa mới tới. Nhưng chiến trận có thể xảy ra bất cứ lúc nào, nên chúng ta phải làm thật nhanh.”

Cô đi tới chỗ tấm bản đồ khác, với tỷ lệ lớn hơn. Nó vẽ các khối nhà của tu viện.

“Chúng ta sẽ tới gần chỗ này, ở mé bìa rừng Sainte-Mère. Từ điểm này, chúng ta có thể nhìn thẳng xuống tu viện. Vì lời nhắn của Giáo sư đến từ tu viện, chúng ta sẽ đến thẳng đó trước. Như mọi người cũng biết, tu viện dùng bữa chính vào lúc mười giờ sáng, và Giáo sư có nhiều khả năng là đang ở đó vào lúc ấy. Nếu may mắn, chúng ta có thể tìm thấy ông ấy ở đó và đưa ông ấy về.”

Marek nói, “Sao cô biết mọi chuyện này? Tôi đã nghĩ là chưa hề có ai khác đi vào quá khứ mà?”

“Đúng là thế. Chưa từng có ai hết. Nhưng những quan sát viên ở gần máy vẫn có thể mang về đủ dữ liệu về thời điểm đặc biệt này. Còn câu hỏi nào khác không?”

Họ lắc đầu.

“Được rồi. Đưa Giáo sư về khi ông ấy còn trong tu viện là rất quan trọng. Nếu ông ấy dời tới Castelgard hay La Roque, sẽ khó khăn hơn rất nhiều. Chúng ta có một nhiệm vụ khá vất đấy. Tôi mong là ở đó khoảng hai đến ba giờ. Chúng ta sẽ ở bên cạnh nhau mọi lúc. Nếu ai đó trong chúng ta bị tách khỏi những người còn lại, hãy dùng tai nghe để gọi nhau. Chúng ta sẽ đi tìm Giáo sư, và trở lại ngay lập tức. Được chứ?”

“Được.”

“Các bạn sẽ có hai người hỗ trợ, tôi và Victor Baretto, ở trong góc đằng kia. Chào nào, Vic.”

Người đi cùng thứ hai là một người đàn ông có dáng dấp cựu lính thủy đánh bộ và có vẻ không thân thiện – một người đàn ông cứng cỏi và có năng lực. Quần áo quá khứ của Baretto trông nông dân và chùng hơn, làm từ loại vải như vải bao bố. Anh ta gật đầu và vẫy nhẹ tay. Anh ta dường như đang không vui.

“Được chứ?” Gomez nói. “Còn câu hỏi nào không?”

Chris nói, “Giáo sư Johnston đã ở đó được ba ngày rồi à?”

“Đúng thế.”

“Người ở đó nghĩ thầy là gì vậy?”

“Chúng tôi không biết,” Gomez nói. “Chúng tôi không biết tại sao lúc đầu ông ấy lại rời cỗ máy nữa. Ông ấy chắc phải có lý do gì đó. Nhưng vì ông ấy đang ở thời đại đó, việc dễ dàng nhất cho ông ấy có lẽ là đóng giả làm một thầy tu hoặc một học giả đến từ London, hoặc làm một người hành hương tới Santiago de Compostela ở Tây Ban Nha. Sainte-Mère nằm trên lộ trình của chuyến hành hương, và cũng chẳng có gì là bất thường khi những người hành hương có dừng lại, nghỉ một ngày hay một tuần, đặc biệt nếu họ đánh bạn được với cha tu viện trưởng, người có phẩm chất khá tốt. Giáo sư có thể đã làm thế. Hoặc không. Chúng ta không thể biết được.”

“Nhưng đợi chút đã,” Chris Hughes nói. “Không phải sự xuất hiện của thầy ở đó đã thay đổi lịch sử của vùng rồi hay sao? Không phải thầy sẽ tác động đến kết cục sau này sao?”

“Không. Ông ấy không thay đổi được đâu.”

“Sao cô biết?”

“Vì ông ấy không thể.”

“Nhưng còn chuyện nghịch lý thời gian thì sao?”

“Nghịch lý thời gian?”

“Đúng đấy,” Stern nói. “Cô cũng biết đấy, như việc quay lại quá khứ và giết chết ông cố của mình vậy, thế là ta cũng sẽ không được sinh ra và cũng chẳng thể quay lại và giết ông cố của mình được…”

“Ồ, cái đó,” Cô lắc đầu với vẻ thiếu kiên nhẫn. “Chẳng có nghịch lý thời gian nào hết.”

“Cô nói thế là ý gì? Dĩ nhiên là có chứ.”

“Không, không có đâu,” một giọng nói chắc nịch cất lên từ phía sau họ. Họ quay người lại; Doniger đang đứng ở đó. “Nghịch lý của thời gian không hề tồn tại.”

*

“Anh nói thế là sao?” Stern nói. Anh ta cảm thấy câu hỏi của mình đang bị xem thường.

“Thứ gọi là nghịch lý thời gian ấy,” Doniger nói, “thực ra chẳng hề liên quan gì đến thời gian hết. Chúng bao hàm những ý tưởng về lịch sử nghe rất hấp dẫn nhưng hoàn toàn sai lầm. Hấp dẫn, vì chúng dụ các bạn vào cái suy nghĩ rằng các bạn có thể có tác động nào đó tới dòng chảy thời gian. Và rất sai, vì dĩ nhiên là, các bạn không thể.”

“Ta không thể tác động đến dòng sự kiện sao?”

“Không.”

“Dĩ nhiên là ta có thể chứ.”

“Không. Ta không thể. Sẽ dễ hơn nếu ta lấy một ví dụ trong thời hiện đại. Giả sử anh đến xem một trận đấu bóng chày. Đội Yankee và đội Mets – đội Yankee sắp thắng đến nơi, hiển nhiên là thế. Anh muốn thay đổi kết quả để đội Mets có thể thắng. Anh có thể làm gì? Anh chỉ là một người đơn độc trong cả đám đông mà thôi. Nếu anh cố lẩn ra khu đường hầm vào sân, anh sẽ bị cản lại. Nếu anh cố nhào vào sân, anh sẽ bị đuổi ra. Hầu hết các hành động thông thường anh có thể làm được đều sẽ thất bại và chẳng thể thay đổi kết quả trận đấu được.

“Hãy thử chọn một hành động có vẻ cực đoan hơn xem: anh sẽ bắn vào người ném bóng của đội Yankee. Nhưng cái giây phút anh rút súng, khả năng cao là anh sẽ bị đám cổ động viên cuồng nhiệt kia đè bẹp. Thậm chí nếu anh có bắn được đi nữa, anh cũng gần như là sẽ trượt. Và thậm chí nếu anh có bắn trúng người ném bóng đi chăng nữa, kết quả sẽ là gì? Một người ném bóng khác sẽ thế vị trí của anh ta. Và đội Yankee sẽ vẫn thắng trận đấu đó.

“Hãy thử chọn một hành động thậm chí còn cực đoan hơn. Anh sẽ xịt khí độc và giết tất cả mọi người trong sân vận động. Một lần nữa, anh lại khó có khả năng thành công, với cùng tất cả những lý do có thể làm cho anh bắn trượt. Nhưng thậm chí anh có thể giết được tất cả mọi người, anh cũng chẳng thể có cơ hội thay đổi kết quả trận đấu. Anh có thể tranh luận rằng anh đã đẩy lịch sử đi theo một hướng khác – và có lẽ là thế thật – nhưng anh vẫn không thể làm cho đội Mets thắng trận đấu. Thực tế là anh chẳng làm được gì để giúp đội Mets thắng hết. Anh sẽ cứ mãi ở vai trò của anh thôi: một khán giả.

“Và cái định luật này cũng sẽ ứng dụng đối với phần lớn các sự kiện khác trong lịch sử. Một con người đơn thuần chẳng làm được mấy để thay đổi mọi sự theo một cách có ý nghĩa được. Dĩ nhiên là số đông quần chúng có thể ‘thay đổi được dòng chảy của lịch sử’. Nhưng với chỉ một người? Không.”

“Có lẽ thế,” Stern nói, “nhưng tôi có thể giết được ông cố của mình. Và nếu ông cụ chết thì tôi sẽ không được sinh ra nữa, thế nên tôi sẽ không tồn tại, và thế là tôi sẽ không thể bắn được ông ấy. Và đó là một nghịch lý.”

“Phải, đúng thế – cứ cho là anh thực sự có thể giết được ông cố của mình. Nhưng chuyện đó thực tế có thể rất là khó khăn đấy. Quá nhiều thứ không như ý luôn xảy ra. Anh có thể sẽ không gặp được ông ấy vào đúng thời điểm. Anh có thể sẽ bị xe buýt tông trên đường. Hay anh có thể rơi vào bẫy tình. Anh có thể bị cảnh sát bắt. Anh có thể giết ông ấy quá muộn, sau khi cha mẹ anh đã được thụ thai. Hay anh có thể mặt đối mặt với ông ấy, và nhận ra rằng mình không thể bóp cò.”

“Nhưng về lý thuyết…”

“Khi chúng ta giải quyết các vấn đề lịch sử, lý thuyết chẳng có giá trị gì hết,” Doniger vừa nói vừa vẫy tay đầy khinh khi. “Lý thuyết chỉ có giá trị khi nó có khả năng dự đoán kết quả tương lai. Nhưng lịch sử là bản ghi chép các hành động của con người – và chẳng lý thuyết nào có thể dự đoán được hành động của con người hết.”

Gã xoa hai tay vào nhau.

“Thế giờ chúng ta có nên kết thúc tất cả những giả thiết này và lên đường không nhỉ?”

Những tiếng xì xầm cất lên giữa những người còn lại.

Stern hắng giọng. “Thực ra thì,” anh ta nói, “tôi không nghĩ là mình sẽ đi đâu.”

*

Marek đã dự đoán trước chuyện này. Anh ta đã quan sát Stern suốt lúc báo cáo, nhận thấy cái cách anh ta cứ đổi vị trí ngồi liên tục, như thể anh ta không thoải mái nổi vậy. Sự lo âu của Stern cứ tăng dần đều từ lúc chuyến đi bắt đầu.

Bản thân Marek chẳng lăn tăn gì chuyện mình sẽ đi hết. Từ thời niên thiếu, anh ta đã sống và hít thở thế giới Trung Cổ, tưởng tượng mình đang ở Warburg và Carcassonne, Avignon và Milan. Anh ta đã gia nhập những cuộc chiến chống người xứ Wales với vua Edward đệ nhất. Anh ta đã thấy những người dân thành Calais đầu hàng, và cũng đã tham dự hội chợ sâm banh. Anh ta đã sống ở những cung điện lộng lẫy của Eleanor xứ Aquitaine và Công tước xứ Berry. Marek sẽ đi chuyến này, dù thế nào đi nữa. Còn Stern thì…

“Tôi xin lỗi,” Stern nói, “nhưng đây không phải việc của tôi. Tôi chỉ nhập đội của Giáo sư vì bạn gái tôi đang học trường mùa hè ở Toulouse thôi. Tôi không phải một nhà sử học. Tôi là một nhà khoa học. Và gì đi nữa, tôi cũng không nghĩ việc này lại an toàn đâu.”

Doniger nói, “Anh không nghĩ máy an toàn à?”

“Không, cái nơi đó kia. Cái năm 1357 ấy. Có nội chiến ở Pháp sau trận Poitiers. Những nhóm lính lang bạt cướp phá khắp vùng đồng quê. Trộm cướp, giết người, hỗn loạn xảy ra khắp nơi.”

Marek gật đầu. Nói thế hãy còn là nhẹ so với tình hình. Thế kỷ mười bốn là một thế giới điêu tàn, và rất nguy hiểm. Đó là một thế giới của tôn giáo; hầu hết người dân đều đến nhà thờ mỗi ngày một lần. Nhưng đó lại là một thế giới khủng khiếp tàn bạo, nơi những đội quân xâm lăng tàn sát không trừ một ai, nơi cảnh phụ nữ và trẻ em bị chém chết diễn ra hằng ngày, nơi phụ nữ có mang bị moi ruột làm trò tiêu khiển. Đó là một thế giới đầy những mỹ từ chót lưỡi đầu môi về tinh thần hiệp sĩ cao thượng trong khi cướp phá và giết chóc không từ chỗ nào, nơi phụ nữ được coi là chẳng có quyền lực gì và thật mong manh, nhưng họ lại cai quản của cải, ra lệnh cho cả lâu đài, kiếm tình nhân tùy hứng và đứng sau những âm mưu ám sát cũng như tạo phản. Đó là một thế giới mà chuyện thay đổi biên giới cũng như đồng minh diễn ra như cơm bữa, ngày qua ngày. Đó là một thế giới đầy rẫy chết chóc, dịch bệnh lan tràn, chiến tranh liên miên.

Gordon nói với Stern, “Tôi thực sự không muốn ép anh.”

“Nhưng nhớ là,” Doniger nói, “anh sẽ không phải một mình đâu. Chúng tôi sẽ cho người hỗ trợ đi cùng với các anh.”

“Tôi xin lỗi,” Stern cứ nói mãi. “Tôi xin lỗi.”

Cuối cùng Marek nói, “Để cậu ấy ở lại đi. Cậu ấy nói đúng đấy. Đó không phải thời của cậu ấy, và đây cũng không phải chuyện của cậu ấy.”

“Giờ anh đề cập đến việc đó,” Chris nói, “tôi cũng đang nghĩ: đó cũng không phải thời của tôi. Tôi hợp với cuối thế kỷ mười ba hơn là đúng vào giữa thế kỷ mười bốn. Có lẽ tôi nên ở lại với David…”

“Quên đi,” Marek nói, quàng tay qua vai Chris. “Cậu sẽ ổn thôi.” Marek coi đó cứ như một câu nói đùa, dù anh ta biết Chris không hoàn toàn đùa.

Không hoàn toàn.

*

Căn phòng rất lạnh. Màn sương lạnh buốt bao lấy bàn chân và mắt cá chân họ. Họ tạo nên những lớp cuộn sóng giữa màn sương khi bước dần về phía những cỗ máy.

Bốn chiếc lồng đã được nối sẵn phần đế vào nhau, và chiếc lồng thứ năm đứng riêng biệt. Baretto nói, “Cái này là của tôi,” và bước vào trong chiếc lồng riêng kia. Anh ta đứng thẳng, nhìn về phía trước, chờ đợi.

Susan Gomez bước vào một chiếc lồng trong cụm kia, và nói, “Những người còn lại đi cùng với tôi.” Marek, Kate và Chris trèo vào trong những chiếc lồng bên cạnh cô. Cỗ máy dường như được đặt trên những cái lò xo; chúng rung lên nhè nhẹ khi mọi người bước vào.

“Tất cả mọi người đã sẵn sàng rồi chứ?”

Những người kia xì xào rồi gật đầu.

Baretto nói, “Các quý cô trước.”

“Anh đúng rồi đậy,” Gomez nói. Dường như chẳng có chút mảy may thiện chí nào giữa họ hết. “Được rồi,” cô nói với những người còn lại. “Chúng ta đi thôi.”

Đầu Chris bắt đầu lắc lư. Anh cảm thấy chóng mặt và hơi hoảng loạn. Anh nắm chặt tay lại.

Gomez nói, “Thư giãn đi. Tôi nghĩ anh sẽ thấy nó khá thú vị đấy.” Cô luồn miếng chip vào cái khe phía dưới chân, và đứng lùi lại một chút.

“Ta đi. Nhớ này: tất cả mọi người phải đứng thật yên khi thời điểm đó đến.”

Cỗ máy bắt đầu rì rì kêu. Chris thấy phần nền dưới chân mình hơi rung lên. Tiếng rì rì của những cỗ máy càng lúc càng lớn hơn. Màn sương cuộn xoáy khỏi sàn máy. Những cỗ máy bắt đầu phát ra những tiếng răng rắc chát chúa, như thể kim loại đang bị vặn xoắn lại vậy. Tiếng ầm tăng lên nhanh chóng, cho tới khi nó ổn định lại và to như xé tai vậy.

“Tiếng đó là từ heli hóa lỏng đấy,” Gomez nói. “Lạnh hóa kim loại tới nhiệt độ siêu dẫn.”

Thình lình tiếng rú rít im bặt và tiếng chát chúa bắt đầu.

“Quét bằng tia hồng ngoại,” cô nói. “Đến lúc rồi.”

Chris cảm thấy dường như cả người mình bắt đầu run lên không cưỡng lại được. Anh cố kìm nó lại, nhưng hai chân vẫn đang rung lên. Anh cảm thấy hoảng loạn trong giây lát – có lẽ anh nên hủy – nhưng rồi lại nghe thấy giọng nói thu sẵn cất lên, “Đứng yên – mở mắt…”

Quá muộn rồi, anh nghĩ. Quá muộn rồi.

“… hít thật sâu – giữ nguyên thế. Rồi!”

Vòng tròn hạ xuống từ phía trên đầu anh, di chuyển thật nhanh xuống chân. Nó kêu cách một tiếng khi chạm đến sàn. Và một vài giây sau, một luồng sáng chói lòa vụt ra sáng hơn cả ánh mặt trời đến từ khắp mọi nơi xung quanh anh – nhưng anh chẳng cảm thấy gì hết. Thực tế, anh đột ngột có cảm giác lạnh lùng chẳng quan tâm khá kỳ lạ, cứ như là giờ anh đang quan sát một khung cảnh nào đó xảy ra ở đằng xa vậy.

Thế giới xung quanh anh hoàn toàn tuyệt đối yên lặng.

Anh thấy cỗ máy bên cạnh đang chứa Baretto càng lúc càng trở nên lớn hơn, bắt đầu trùm bóng lên anh. Baretto, một người khổng lồ, khuôn mặt to đùng với những lỗ chân lông khủng khiếp, đang cúi người xuống, nhìn về phía họ.

Thêm nhiều luồng sáng nữa.

Khi cỗ máy của Baretto trở nên lớn hơn, nó cũng có vẻ như bắt đầu chuyển động ra xa họ, để lộ ra một khu nền nhà rộng lớn: một nền đồng bằng bao la làm bằng cao su đen, trải ra tận phía xa.

Thêm nhiều luồng sáng nữa.

Nền nhà cao su có những họa tiết vòng tròn đắp nổi. Bây giờ thì những vòng tròn đó bắt đầu chuyển dựng lên phía trên họ như những vách màu đen. Rồi ngay sau đó những vách màu đen ấy mọc lên cao và trở thành những tòa nhà chọc trời màu đen, tất cả hội tụ lại ở phía trên, che đi mọi ánh sáng từ phía trên chiếu xuống. Cuối cùng thì những tòa nhà chọc trời chạm vào nhau và toàn bộ thế giới chìm vào bóng tối.

Thêm nhiều luồng sáng nữa.

Họ chìm vào bóng tối đen như mực trong một thoáng trước khi anh nhìn thấy những đốm sáng nhỏ lập lòe, được sắp xếp theo dạng mạng, tỏa ra khắp mọi hướng. Như thể chúng đang ở trong một kiểu cấu trúc tinh thể phát sáng khổng lồ nào đó. Khi Chris quan sát, những đốm sáng càng lúc càng trở nên rạng rỡ và lớn hơn, cạnh của chúng mờ dần đi, cho tới khi mỗi đốm sáng trở thành một quả cầu phát sáng mờ ảo. Anh băn khoăn không biết chúng có phải là những hạt nguyên tử hay không.

Anh chẳng còn nhìn thấy mạng sáng nữa, chỉ còn vài khối cầu gần đó. Chiếc lồng của anh di chuyển thẳng về phía một khối cầu phát sáng, thứ có vẻ như đang đập thình thịch, vừa lập lòe vừa thay hình đổi dạng.

Rồi họ đã ở trong quả cầu đó, chìm vào trong một màn sương rực rỡ dường như đang đập thình thịch đầy năng lượng.

Rồi ánh sáng mờ dần và biến mất.

Họ bị nhốt giữa bóng tối vô định. Chẳng có gì hết.

Bóng tối.

Nhưng rồi anh nhận thấy rằng họ vẫn đang chìm dần thẳng xuống bề mặt dậy sóng của một mặt biển đen ngòm giữa màn đêm tăm tối. Biển dậy sóng liên hồi, tạo nên những lớp bọt xanh thẫm sủi lên khắp nơi. Khi họ hạ dần xuống mặt biển, lớp bọt càng lúc càng trở nên lớn hơn. Chris thấy một chiếc bong bóng đơn lẻ phát ra một luồng sáng xanh da trời đậm cực kỳ rực rỡ.

Cỗ máy của anh di chuyển về phía quầng sáng ấy với tốc độ tăng dần, bay càng lúc càng nhanh hơn, và anh có cái cảm giác kỳ cục là họ sẽ đâm vào lớp bọt kia, rồi họ tiến vào bên trong chiếc bong bóng đó và anh nghe thấy một tiếng rít xé tai.

Rồi im lặng.

Bóng tối.

Chẳng có gì hết.

*

Trong phòng điều khiển, David Stern ngồi nhìn những tia sáng trên nền nhà cao su càng lúc càng nhỏ lại và yếu dần đi, cuối cùng hoàn toàn biến mất. Những cỗ máy đã đi rồi. Những kỹ thuật viên ngay lập tức quay về phía Baretto và bắt đầu đếm ngược thời điểm dịch chuyển của anh ta.

Nhưng Stern cứ nhìn chằm chằm vào cái điểm trên nền nhà nơi Chris và những người khác vừa ở đó.

“Thế giờ họ đang ở đâu vậy?” anh ta hỏi Gordon.

“Ồ, họ đến nơi rồi,” Gordon nói. “Giờ họ đã đến đó rồi.”

“Họ đã được tái tạo rồi à?”

“Ừ.”

“Mà không hề có một cái máy fax ở đầu bên kia?”

“Đúng đấy.”

“Nói tôi biết đi,” Stern nói. “Nói tôi biết những chi tiết những người khác không cần biết đi.”

“Được rồi,” Gordon nói. “Cũng chẳng có gì là xấu hết. Tôi chỉ nghĩ là những người khác sẽ thấy chuyện đó, thật ra là, khá khó chịụ.”

“Ừ hứ.”

“Quay lại với hiện tượng giao thoa,” Gordon nói, “thứ anh vẫn còn nhớ, đã cho chúng ta thấy rằng các vũ trụ khác có thể tác động tới vũ trụ của chúng ta. Chúng ta không phải làm gì để các hiện tượng giao thoa xảy ra hết. Chúng cứ tự xảy ra thôi.”

“Ừ.”

“Và sự tác động lẫn nhau này rất đáng tin cậy; nó lúc nào cũng xảy ra, bất cứ khi nào anh tạo ra một cặp khe sáng.”

Stern gật đầu. Anh ta đang cố nghĩ xem chuyện này sẽ đi tới đâu, nhưng anh ta không thể đoán trước được Gordon sẽ đi hướng nào.

“Vậy là chúng ta biết rằng trong một số trường hợp nào đó, chúng ta có thể tin chắc những vũ trụ khác sẽ làm một chuyện gì đó xảy ra. Chúng ta tạo ra những khe sáng, và những vũ trụ khác tạo nên những mẫu giao thoa mà chúng ta có thể thấy, mọi lúc.”

“Được rồi…”

“Và, nếu chúng ta dịch chuyển qua một hố không gian-thời gian, người được di chuyển sẽ luôn luôn được tái tạo lại ở đầu bên kia. Chúng ta cũng có thể tin chắc chuyện đó nữa.”

Một khoảng lặng.

Stern cau mày.

“Đợi chút,” anh ta nói. “Có phải anh đang nói rằng khi anh dịch chuyển, người đó sẽ được tái tạo bởi một vũ trụ khác phải không?”

“Về thực tế, đúng vậy, tôi muốn nói là, nó phải vậy. Chúng ta thật sự là không tái tạo họ được, vì chúng ta không ở đó. Chúng ta ở trong vũ trụ này.”

“Thế tức là các anh không tái tạo…”

“Ừ.”

“Vì các anh không biết phải làm thế nào,” Stern nói.

“Vì chúng tôi thấy rằng nó chẳng cần thiết,” Gordon nói. “Cũng như là chúng ta thấy rằng không cần phải dán mấy cái đĩa vào bàn để làm chúng nằm yên. Chúng tự nằm yên được. Chúng ta có thể lợi dụng được một đặc tính của Vũ trụ, là trọng lực. Và trong trường hợp này, chúng ta đang lợi dụng một đặc tính của đa vũ trụ.”

Stern chau mày. Anh ta lập tức nghi ngờ cái phép so sánh đó; nó quá hời hợt, quá đơn giản.

“Thế này,” Gordon nói, “cốt lõi của công nghệ lượng tử là nó gối lên các vũ trụ khác nhau. Khi một chiếc máy tính lượng tử tính toán – khi cả ba mươi hai trạng thái lượng tử của electron được đem ra dùng – về mặt kỹ thuật thì cỗ máy đó đang làm những phép tính đó trong những vũ trụ khác, đúng chứ?”

“Phải, về mặt kỹ thuật thì là thế, nhưng…”

“Không, không chỉ là về mặt kỹ thuật thôi đâu. Thật sự là thế đấy.”

Một khoảng lặng.

“Có thể sẽ dễ hiểu hơn,” Gordon nói, “nếu xem xét nó từ góc nhìn của vũ trụ kia. Vũ trụ đó sẽ thấy có một con người đột ngột xuất hiện. Một con người đến từ một vũ trụ khác.”

“Phải…”

“Và chuyện xảy ra là như thế. Người đó vừa mới đến từ một vũ trụ khác. Không phải là vũ trụ của chúng ta.”

“Anh bảo sao cơ?”

“Người đó không hề đến từ vũ trụ của chúng ta,” Gordon nói.

Stern hấp háy mắt. “Thế thì từ đâu?”

“Họ đến từ một vũ trụ nào đó gần như giống hệt vũ trụ của chúng ta – giống hệt trong mọi phương diện – trừ việc là họ biết làm cách nào để tự tái tạo được ở đầu bên kia.”

“Anh đang đùa đấy à.”

“Không.”

“Cô Kate đi tới đó không phải là cô Kate đã rời khỏi đây sao? Cô ấy là một cô Kate đến từ một vũ trụ khác à?”

“Phải.”

“Thế cô ấy gần như là Kate à? Đại loại là Kate? Nửa-Kate?”

“Không. Cô ấy là Kate. Qua các thử nghiệm của mình, chúng tôi có thể nói rằng cô ấy hoàn toàn tương đồng với Kate của chúng ta. Vì vũ trụ của chúng ta và vũ trụ của họ gần như hoàn toàn tương đồng.”

“Nhưng cô ấy vẫn không phải cô Kate đã rời đây.”

“Sao cô ấy có thể là thế được? Cô ấy đã bị tiêu hủy, và được tái tạo rồi.”

“Người ta có thấy khác biệt gì khi chuyện này xảy ra không?” Stern nói.

“Chỉ một hoặc hai giây mà thôi,” Gordon nói.

*

Tối đen.

Im ắng, và rồi đằng xa, ánh sáng trắng lóe lên.

Đến gần hơn. Rất nhanh.

Chris rùng mình khi một một dòng điện cực mạnh đột ngột chạy qua người anh, làm những ngón tay của anh co giật. Trong giây lát, anh đột ngột cảm nhận được cơ thể mình, như người ta cảm nhận được quần áo khi mới mặc chúng lên; anh có thể cảm nhận được thịt da đang bao lấy người mình, cảm nhận được sức nặng của nó, trọng lực, áp lực của cơ thể đè nặng lên gan bàn chân. Rồi một cơn đau đến váng hết đầu, tiếng mạch đập, rồi nó qua đi và anh bị bao quanh bởi một luồng ánh sáng tím đậm đặc. Anh rúm lại, hấp háy mắt.

Anh đang đứng giữa ánh nắng mặt trời. Không khí mát và ẩm. Chim hót ríu rít trên những tán cây cao rộng. Những tia nắng xuyên qua vòm cây sum suê, lốm đốm tỏa ánh xuống đất. Anh đang đứng giữa một chùm nắng. Cỗ máy ở bên cạnh một lối đi hẹp đầy bùn ngoằn ngoèo đâm qua rừng. Thẳng trước mặt, qua một lỗ hổng giữa những tán cây, anh nhìn thấy một ngôi làng Trung Cổ.

Đầu tiên là một cụm các lô đất và lều trại, khói xám cuộn lên từ những mái nhà tranh. Rồi một bức tường đá và những mái nhà đá đen thẫm của thị trấn, và cuối cùng, ở phía xa, là tòa lâu đài với những tháp canh hình tròn.

Anh nhận ra ngay lập tức: thị trấn và pháo đài Castelgard. Và nó chẳng còn là một phế tích nữa. Những bức tường đều hoàn hảo.

Anh đã đến nơi đó rồi.