← Quay lại trang sách

CASTELGARD

“Chẳng thứ gì trên thế giới này lại chắc chắn bằng cái chết. “

JEAN FROISSART, 1359

*

.

37:00:00

Gomez nhẹ nhàng nhảy ra khỏi cỗ máy. Marek và Kate chậm rãi bước ra khỏi mấy cái lồng, nhìn quanh với vẻ bất ngờ. Chris cũng trèo ra ngoài luôn. Chân anh chạm xuống nền đất đầy rêu. Đất dưới chân thật mềm.

Marek nói, “Tuyệt!” và đi khỏi cỗ máy ngay lập tức, bước qua lối đi bùn đất để nhìn thành phố được rõ hơn. Kate đi theo sau anh ta. Cô dường như vẫn sốc.

Nhưng Chris muốn ở gần cỗ máy. Anh xoay người một cách từ từ, nhìn vào khu rừng. Anh có cảm giác nó rất tối tăm, hoang sơ và dày đặc. Những thân cây, anh để ý, đều rất lớn. Một vài thân cây lớn đến nỗi ba bốn người trốn sau nó cũng được. Chúng vươn thẳng lên nền trời, trải một vòm lá khổng lồ trên đầu họ phủ bóng hầu hết vùng đất phía dưới.

“Đẹp thật đấy nhỉ?” Gomez nói. Cô dường như đã nhận ra rằng anh không được thoải mái cho lắm.

“Phải, rất đẹp,” anh đáp lại. Nhưng anh chẳng cảm thấy thế chút nào hết; có thứ gì đó trong khu rừng này khiến anh cảm thấy thật đáng sợ. Anh quay người ra tứ phía, cố giải thích tại sao mình lại có cái cảm giác rõ rệt là thứ mình đang nhìn thấy đây có gì đó kỳ cục – có gì đó thiếu thiếu, hoặc không bình thường. Cuối cùng anh nói, “Có cái gì không ổn thì phải?”

Cô cười phá lên. “Ồ cái đó,” cô nói. “Nghe đi.”

Chris đứng lặng đi trong một chốc, lắng nghe. Tiếng chim ríu rít, tiếng xào xạc nhẹ nhàng của gió trong những tán cây. Nhưng ngoài những cái đó ra…

“Tôi chẳng nghe thấy gì hết.”

“Đúng rồi,” Gomez nói. “Một vài người cũng cảm thấy hơi bối rối khi lần đầu tiên đến đây. Chẳng hề có âm thanh ồn ã gì ở đây hết, chẳng có xe cộ nào qua lại hết. Ở thế kỷ hai mươi, chúng ta đã quá quen với việc sống cùng âm thanh tiếng ồn mọi lúc mọi nơi rồi, thành ra sự tĩnh lặng dường như có vẻ gì đó rất ma quái.”

“Tôi nghĩ chắc là đúng thế thật.” Ít nhất đó cũng chính xác là những gì anh đang cảm nhận. Anh quay lưng khỏi rừng cây và nhìn vào con đường bùn đất, ngập nắng đi xuyên vào khu rừng. Ở nhiều nơi, bùn sâu tới hơn nửa mét, bị giày xéo thảm thương bởi những vết móng guốc.

Đây là một thế giới của ngựa, anh nghĩ.

Chẳng có tiếng động của một thứ máy móc nào. Đầy những vết móng guốc.

Anh hít một hơi thật dài, và từ từ thở ra. Thậm chí cả không khí cũng khác nữa. Đậm và phấn chấn như thể nó có nhiều ô xy hơn vậy.

Anh quay người lại, và thấy những cỗ máy đã biến mất. Gomez có vẻ chẳng hề quan tâm. “Máy đâu rồi?” anh hỏi, cố không tỏ ra lo lắng.

“Nó trôi đi rồi.”

“Nó trôi đi rồi?”

“Khi những cỗ máy được sạc đầy, chúng hơi không ổn định một chút. Chúng có xu hướng trượt khỏi thời điểm hiện tại. Thế nên chúng ta không thể thấy chúng được.”

“Chúng ở đâu?” Chris nói.

Cô nhún vai. “Thật sự là chúng tôi không biết. Chúng chắc hẳn là đang ở trong một vũ trụ khác. Dù chúng có ở đâu đi nữa, chúng cũng ổn thôi. Chúng luôn luôn quay trở lại mà.”

Để chứng minh, cô giơ miếng chip định vị lên và ấn đầu móng tay vào cái nút. Giữa những luồng sáng chói lòa, mấy cỗ máy đồng loạt trở lại: cả bốn chiếc lồng, đứng đúng tại chỗ chúng từng đứng mấy phút trước.

“Giờ chúng sẽ ở đây trong khoảng một, hoặc là hai phút nữa,” Gomez nói. “Nhưng kiểu gì thì chúng cũng sẽ lại trôi đi nữa thôi. Tôi cứ để chúng đi. Để chúng khỏi ngáng đường.”

Chris gật đầu; cô dường như biết rõ công việc. Nhưng cái ý nghĩ là những cỗ máy ấy cứ trôi đi như thế làm Chrỉs không khỏi lo ngại; những cái máy ấy là tấm vé về nhà của anh, và anh không thích nghĩ là chúng cứ hoạt động theo những quy tắc của riêng mình và có thể tự do tùy ý biến mất. Anh nghĩ, liệu có ai đó chịu đi máy bay không nếu người phi công nói rằng nó “không ổn định”? Anh thấy trán mình man mát, và anh biết chẳng mấy chốc mình sẽ vã mồ hôi lạnh đầy ra cho xem.

Để làm sao nhãng bản thân, Chris tự đi qua lối đó, theo sau những người kia, cố không sụp xuống bùn. Lại được ở trên nền đất cứng, anh xuyên qua một đám cây bụi dày đặc, một loại cây cao tới thắt lưng xúm xít vào nhau, giống đỗ quyên vậy. Anh liếc lại phía Gomez: “Có gì phải chú ý trong khu rừng này không vậy?”

“Chỉ có rắn hổ thôi,” cô nói. “Chúng thường ở trên những cành cây thấp. Chúng rơi xuống vai của anh và cắn anh.”

“Tuyệt,” anh nói. “Chúng có độc không?’

“Rất.”

“Có chết người không?”

“Đừng lo, chúng hiếm gặp lắm,” cô nói.

Chris quyết định không hỏi thêm gì nữa. Dù sao, giờ anh cũng đã ra được tới chỗ có nắng xuyên qua giữa những tán cây dày đặc kia rồi. Anh nhìn xuống và thấy dòng Dordogne ở sáu trăm mét phía dưới, ngoằn ngoèo uốn quanh các nông trại, và vừa nhìn anh vừa nghĩ, chẳng khác mấy so với quang cảnh thường thấy.

Nhưng nếu dòng sông vẫn thế, thì tất cả những thứ khác quanh đây đều đổi khác so với hiện tại. Castelgard hoàn toàn nguyên vẹn, và thị trấn quanh nó cũng vậy. Phía xa những bức tường là các lô đất trồng; một vài cánh đồng giờ đang được cày xới.

Nhưng sự chú ý của anh đang được chuyển sang phía tay phải, anh nhìn xuống một tổ hợp tu viện hình chữ nhật – và cây cầu cối xay được gia cố của anh, anh nghĩ. Cây cầu anh đã nghiên cứu suốt mùa hè…

Và thật là không may; nó trông rất khác với những gì anh đã cho tái tạo trong máy tính.

Chris nhìn thấy có tới bốn bánh xe, chứ không phải ba, khuấy tung dòng chảy phía dưới cây cầu. Và cây cầu phía trên đó không phải là một thể hoàn toàn thống nhất. Dường như có ít nhất là hai kết cấu riêng biệt trong đó; như những ngôi nhà nhỏ vậy. Cái to hơn được làm bằng đá, và cái nhỏ hơn được làm bằng gỗ, cho thấy là kết cấu đó đã được dựng lên vào những thời điểm khác nhau. Từ phía tòa nhà bằng đá, khói tỏa lên một cột liền mạch màu xám. Vậy có thể là họ thực sự đã luyện thép ở đó, anh nghĩ thế. Nếu anh có ống thổi chạy bằng sức nước, thì anh có thể có một cái lò nung thực sự. Điều đó cũng giúp giải thích cho những kết cấu tách riêng kia nữa. Vì những cối xay thóc hoặc ngô chẳng bao giờ được phép có khói hay lửa từ bên trong hết – thậm chí cả nến cũng không luôn. Đó là lý do tại sao các cối xay ngũ cốc chỉ hoạt động vào ban ngày.

Chìm vào những chi tiết đó, anh cảm thấy người nhẹ hẳn đi.

*

Ở phía xa trên con đường đất bùn, Marek nhìn trân trân vào ngôi làng Castelgard, cảm giác bàng hoàng từ từ tràn ngập trong lòng.

Anh ta đã ở đây rồi.

Anh ta cảm thấy ngây ngất, gần như choáng váng vì phấn khích khi nhìn kỹ hơn. Ở những cánh đồng phía bên dưới, nông dân mặc những chiếc quần tất vá víu, những chiếc áo chùng đỏ và xanh da trời, vàng cam và hồng đỏ. Những màu sắc rực rỡ nổi bật trên nền đất đen. Hầu hết các cánh đồng đều đã được cấy trồng xong xuôi, những luống cày đã được khép lại. Giờ là đầu tháng Tư, thế là vụ xuân trồng lúa mạch, đậu, yến mạch, và đậu Hà Lan – cái vụ người ta hay gọi là Mùa Chay ấy – đã sắp hoàn thành.

Anh ta đứng nhìn một cánh đồng mới đang được cày, lưỡi cày bằng sắt đen được kéo bởi hai con bò. Cái cày xới chỗ đất trên luống thật gọn ghẽ sang hai bên. Anh ta rất hài lòng khi thấy một miếng gỗ được đặt lên phía trên lưỡi cắt. Đó là lưỡi lật, một thứ rất đặc trưng của thời kỳ này.

Đi phía sau người thợ cày, một người nông dân gieo hạt với những cái vung tay rất nhịp nhàng. Túi hạt treo vắt vẻo trên vai. Một đoạn ngắn phía sau người gieo hạt, những chú chim xập xòe bay xuống luống cày, cố mổ hạt giống. Nhưng chẳng được lâu. Trên cánh đồng gần đó, Marek nhìn thấy có người đang bừa: một người đàn ông đang cưỡi một con ngựa kéo sau lưng một cái ách bằng gỗ hình chữ T được ghìm xuống nhờ một tảng đá lớn. Người đi bừa đóng luống, bảo vệ cho chỗ hạt giống.

Tất cả mọi thứ dường như chuyển động theo một nhịp điệu rất nhẹ nhàng, đều đặn: bàn tay gieo hạt, cái cày xới đất, cái bừa cào đất. Và gần như chẳng có tiếng động nào trong buổi sáng tĩnh mịch, chỉ có tiếng rì rầm của côn trùng và tiếng ríu rít của chim chóc.

Phía xa cánh đồng, Marek nhìn thấy một bức tường đá cao tới sáu mét bao lấy thị trấn Castelgard. Những phiến đá có màu xám xịt, bạc đi vì sương gió. Ở một khu tường, bức tường đang được sửa chữa; những tảng đá mới có màu sáng hơn, vàng xám. Những người thợ nề đang khom lưng, thoăn thoắt làm việc. Phía trên bức tường, những người lính canh trong bộ giáp sắt gắn xích đang đi tuần qua lại, thỉnh thoảng dừng lại để nhìn một cách đầy lo âu về phía xa.

Và nổi lên trên tất cả mọi thứ, là tòa lâu đài, với những tòa tháp tròn và những đỉnh mái bằng đá đen. Những lá cờ phấp phới bay lên từ phía các tháp canh. Tất cả các lá cờ đều có cùng gia huy: một tấm khiên xám pha nâu đỏ với một bông hồng bạc.

Nó tạo cho lâu đài ấn tượng rất hội hè, và thực sự, trên một cánh đồng ngay phía ngoài vòng tường bao quanh thị trấn, một khu khán đài lớn bằng gỗ, một kiểu khán đài không có mái che, đang được dựng lên để phục vụ cho giải thi đấu. Một đám đông nhỏ đã bắt đầu tụ tập lại. Vài hiệp sĩ đang ở đó, ngựa được buộc bên cạnh những căn lều đủ màu sắc sặc sỡ đang được dựng ở khắp khu thi đấu. Người hầu và người giữ ngựa chậm rãi và thận trọng đi qua những căn lều, mang giáp trụ và nước cho ngựa.

Marek nhìn hết tất cả mọi thứ và thở một hơi dài đầy mãn nguyện.

Tất cả những gì anh ta đang thấy đều chính xác, cho tới cả những chi tiết nhỏ nhất. Tất cả đều là thật.

Anh ta đã ở đây rồi.

*

Kate Erickson nhìn chằm chằm vào Castelgard với cảm giác hoàn toàn bối rối. Bên cạnh cô, Marek thở dài như một người đang yêu, nhưng cô không rõ là vì sao. Dĩ nhiên, bây giờ Castelgard đã là một thị trấn sống động, có lại hào quang xưa cũ của nó, những ngôi nhà và lâu đài hoàn chỉnh. Nhưng nhìn tổng thể, quang cảnh trước mắt cô trông chẳng khác gì bất kỳ một vùng đồng quê nước Pháp nào. Có lẽ hơi lạc hậu so với hầu hết các nơi đó, với ngựa và bò thay vì máy kéo. Nhưng mặt khác… ồ, nó cũng chẳng khác đến thế.

Về mặt kiến trúc mà nói, điểm khác biệt lớn nhất cô thấy giữa khung cảnh đang hiện ra trước mắt với hiện tại là tất cả các ngôi nhà đều có mái đá, được làm từ những phiến đá đen xếp gối lên nhau. Những mái nhà đá này cực kỳ nặng và cần một khung đỡ bên trong thật chắc chắn, đó là lý do vì sao những ngôi nhà trong vùng Périgord không còn dùng chúng nữa, trừ những vùng dành cho khách du lịch. Cô đã quen với việc nhìn những ngôi nhà có mái ngói cong kiểu La Mã màu vàng đất, hay mái dẹt kiểu Pháp.

Nhưng ở đây, những kiểu nhà mái đá phiến có ở khắp mọi nơi. Chẳng có ngói nghiếc gì hết.

Cứ tiếp tục ngắm nhìn cảnh vật, cô từ từ nhận ra những chi tiết khác nữa. Ví dụ, có rất nhiều ngựa; thực sự là rất nhiều, khi ta tính tới những con ngựa trên cánh đồng, ngựa ở khu thi đấu, ngựa kéo trên những con đường đất, và ngựa được thả rông trên thảo nguyên. Phải có tới cả trăm con ngựa trước mắt mình lúc này, cô nghĩ vậy. Cô không nghĩ rằng mình đã từng được thấy nhiều ngựa đến thế này, kể cả ở bang Colorado bản địa của mình. Tất cả các giống ngựa, từ những con ngựa chiến bóng mượt đẹp đẽ ở khu thi đấu tới những con ngựa lùn tịt tí tẹo ở trên đồng hay trong sân kho.

Và trong khi rất nhiều người làm việc trên cánh đồng phải mặc những bộ quần áo tồi tàn rách rưới, những người khác mặc quần áo rực rỡ đến nỗi họ gần như làm cô liên tưởng đến những người vùng Caribê. Những bộ quần áo này cũng được vá víu khắp nơi, nhưng luôn luôn là những gam màu đối chọi nhau, làm cho những vết vá nổi rõ cả từ đằng xa. Nó đã trở thành một kiểu thời trang.

Và, lại nữa, cô lại nhận ra một lằn ranh rõ rệt giữa những khu đất khá nhỏ dành cho người sinh sống – thị trấn và những cánh đồng – với rừng bao quanh, một tấm thảm xanh mướt khổng lồ dày đặc, trải ra khắp mọi hướng. Ở nơi đây, rừng lấn lướt mọi thứ. Cô có cảm giác bị cả thiên nhiên hoang dã bao quanh, ở đây con người trở thành những kẻ xâm phạm xấu xa. Và chỉ là kẻ xâm phạm nhỏ nhoi.

Và khi nhìn lại thị trấn Castelgard, cô cảm thấy có gì đó không bình thường mà mình không thể lý giải nổi. Cho tới khi cuối cùng cô cũng nhận ra, chẳng có cái ống khói nào hết!

Chẳng có cái ống khói nào ở bất cứ đâu.

Nhà của những người nông dân chỉ có một cái lỗ trên mái để khói thoát ra. Trong thị trấn, mọi căn nhà đều tương tự nhau, dù mái nhà có là đá đi nữa: khói thoát ra từ một cái lỗ, hoặc từ một lỗ thông hơi trên tường. Cả tòa lâu đài cũng thiếu ống khói.

Cô đang nhìn vào thời điểm mà các ống khói chưa xuất hiện ở vùng này nước Pháp. Vì vài lý do nào đó mà cái chi tiết kiến trúc nhỏ nhoi này lại làm cô run lên kinh hãi. Một thế giới chưa có sự tồn tại của ống khói. Khi nào thì ống khói được phát minh ra vậy? Cô không nhớ chính xác được. Chắc chắn là đến những năm 1600, chúng đã rất phổ biến rồi. Nhưng từ bây giờ đến lúc ấy thì còn lâu lắm.

Cái “bây giờ” này, cô tự nhắc bản thân nhớ thế.

Phía sau lưng, cô nghe thấy tiếng Gomez nói, “Anh nghĩ mình đang làm cái quái gì vậy?”

*

Kate quay lại và thấy anh chàng dỗi dằn, Baretto, đã tới nơi. Chiếc lồng của anh ta nổi rõ ở bên kia đường, lùi sâu vài mét vào rừng.

“Tôi sẽ làm thứ tôi thực sự muốn làm,” anh ta nói với Gomez.

Anh ta đã cởi chiếc áo choàng vải thô ra, để lộ một chiếc thắt lưng da nặng nề với một khẩu súng lục và hai quả lựu đạn đen. Anh ta đang kiểm tra khẩu súng.

“Nếu chúng ta định thâm nhập vào thế giới này,” anh ta nói, “tôi sẽ phải chuẩn bị sẵn sàng.”

“Anh sẽ không được mang thứ đó theo đâu,” Gomez nói.

“Còn lâu tôi mới không được, chị gái ạ.”

“Anh không được phép. Anh biết làm thế là không được mà. Gordon không bao giờ cho phép mang vũ khí hiện đại vào thế giới quá khứ đâu.”

“Nhưng Gordon có ở đây đâu?” Baretto nói.

“Nhìn đi, khốn thật,” Gomez nói, và cô ấy rút con chip sứ ra, vẫy vẫy nó trước mặt Baretto.

Có vẻ như là cô ấy dọa sẽ quay trở lại.