← Quay lại trang sách

36:30:42

“Sẵn sàng,” một kỹ thuật viên nói. “Đang đến rồi đây.”

Trên nền nhà cao su ở giữa những màn chắn nước uốn theo đường cong, những tia sáng nhỏ bắt đầu xuất hiện.

Gordon liếc nhìn Stern. “Chúng ta sẽ biết đã có chuyện gì xảy ra trong vòng một phút nữa thôi.”

Những tia sáng càng lúc càng rực rỡ hơn, và một cỗ máy bắt đầu hiện lên trên nền nhà cao su. Nó hiện ra khoảng được hơn nửa mét thì Gordon nói, “Quỷ ạ! Gã này chỉ toàn gây rắc rối.”

Stern nói gì đó nhưng Gordon không thèm chú ý. Anh ta thấy Baretto đang ngồi đó, tựa vào một thanh kim loại, rõ ràng là đã chết. Cỗ máy trở lại kích cỡ bình thường. Anh ta nhìn thấy khẩu súng trên tay cái xác. Anh ta hiểu ngay là chuyện gì đã xảy ra. Dù Kramer đã đặc biệt cảnh báo Baretto, thằng khốn ấy vẫn mang vũ khí hiện đại về lại quá khứ. Thế nên dĩ nhiên là Gomez đã bắt gã về, và…

Một vật nhỏ nhỏ màu đen lăn xuống nền nhà.

“Cái gì vậy?” Stern nói.

“Tôi không biết,” Gordon nói, nhìn chằm chằm vào màn hình. “Nó trông giống như một quả…”

Vụ nổ ầm lên trong phòng dịch chuyển, ánh sáng trắng lóa lên các màn hình theo dõi, cuốn sạch mọi thứ. Trong phòng điều khiển, âm thanh trở nên biến dạng, giống như một vụ nổ tĩnh điện vậy. Căn phòng dịch chuyển lập tức ngập trong khói.

“Cứt thật,” Gordon nói. Anh đấm xuống bàn điều khiển.

Những kỹ thuật viên trong phòng dịch chuyển đang thét lên. Khuôn mặt của một người đàn ông bị dính đầy máu. Trong khoảnh khắc tiếp theo, anh ta bị dòng nước trong những màn chắn bị những mảnh lựu đạn kia làm vỡ cuốn đi. Nước dâng tới cả mét dập dềnh lên xuống như sóng biển. Nhưng gần như ngay lập tức, nó bắt đầu cạn đi, để lại sàn nhà nghi ngút khói và kêu rì rì.

“Những cục pin,” Gordon nói. “Chúng bị rò a xít flohydric.”

Trong làn khói, những người đeo mặt nạ phòng độc chạy vào phòng, cứu những kỹ thuật viên bị thương. Những cây cột phía trên đầu bắt đầu rạn nứt, làm vỡ những màn chắn nước còn lại. Những cây cột khác lần lượt đâm bổ xuống nền nhà.

Trong phòng điều khiển, ai đó đưa một chiếc mặt phòng độc cho Gordon, và một chiếc khác cho Stern. Gordon đeo nó vào.

“Chúng ta phải đi thôi,” anh nói. “Không khí bị nhiễm độc rồi.”

Stern đang nhìn chằm chằm vào màn hình. Qua làn khói, anh ta có thể nhìn thấy những cỗ máy khác nứt ra, vỡ nát, tràn khói và khí ga màu xanh lá cây nhạt ra. Chỉ còn một cỗ máy duy nhất, đứng ở một bên, và anh ta vừa nhìn thấy, một cây cột gần đó đã đổ xuống, làm nó bẹp gí.

“Chẳng còn cỗ máy nào khác,” Stern nói. “Có phải có nghĩa là…”

“Phải,” Gordon nói. “Trong tình trạng hiện thời, tôi sợ là các bạn của anh phải tự lo rồi.”

36:30:00

“Cứ bình tĩnh nào, Chris,” Marek nói.

“Bình tĩnh? Bình tĩnh?” Chris gần như quát lên. “Nhìn đi, vì Chúa, André – chip định vị của cô ấy vỡ rồi. Chúng ta chẳng còn chip định vị nào hết. Có nghĩa là chúng ta chẳng có cách nào để về nhà hết. Có nghĩa là chúng ta hoàn toàn thăng rồi, André. Thế mà anh còn muốn tôi bình tĩnh?”

“Đúng đấy, Chris,” Marek nói, giọng anh ta thật khẽ, thật bình tĩnh. “Đó là điều tôi muốn đấy. Tôi rất mong cậu bình tĩnh đấy. Tôi muốn tinh thần cậu phải thật ổn định.”

“Việc quái gì tôi phải thế?” Chris nói. “Vì cái gì? Nhìn thẳng vào sự thật đi, André: chúng ta sắp sửa bị giết ở đây cả đấy. Anh biết thế còn gì? Chúng ta sẽ bị giết chết tươi. Và chẳng có cách nào thoát khỏi đây hết.”

“Có, có đấy.”

“Tôi muốn nói là, chúng ta chẳng có chút thức ăn nào hết, chúng ta chẳng có cái gì hết, chúng ta bị mắc kẹt trong cái – cái hố phân này, chẳng có lấy một chút hy vọng nào, và…” Anh dừng lại và quay sang Marek, “Anh vừa nói gì vậy?”

“Tôi nói là, có cách thoát.”

“Bằng cách nào?”

“Cậu chẳng chịu nghĩ gì hết. Cỗ máy kia đã quay trở lại New Mexico rồi.”

“Thế thì sao?”

“Họ sẽ nhìn thấy tình trạng của anh ta…”

“Đã chết, André. Họ sẽ thấy rằng anh ta đã chết.”

“Vấn đề là, họ sẽ biết là có chuyện không hay đã xảy ra. Và họ sẽ đến tìm chúng ta. Họ sẽ gửi những cỗ máy khác đến đón chúng ta,” Marek nói.

“Sao anh biết?”

“Vì họ sẽ làm thế.” Marek quay người lại và bắt đầu đi xuống dưới chân đồi.

“Anh đi đâu thế?”

“Đi tìm Kate. Chúng ta phải đi cùng nhau.”

“Tôi sẽ ở lại đây thôi.”

“Nếu cậu muốn. Miễn là cậu không bỏ đi đâu.”

“Đừng lo, tôi sẽ ở ngay đây thôi.”

Chris chỉ vào nền đất trước mặt. “Đây chính là nơi cỗ máy đã hạ cánh lúc trước. Và tôi sẽ ở đây.”

Marek rảo bước đi, biến mất sau góc quẹo của con đường. Chris chỉ còn một mình. Gần như ngay lập tức, anh băn khoăn rằng mình có nên chạy đuổi theo Marek không. Có lẽ sẽ tốt hơn là ở đây một mình. Ở cùng nhau, như Marek đã nói.

Anh đi vài bước xuống sườn dốc theo Marek, rồi dừng lại. Không, anh nghĩ. Anh đã nói rằng mình sẽ ở nguyên chỗ này. Anh đứng giữa đường, cố lấy hơi.

Nhìn xuống, anh thấy mình đang đứng trên bàn tay của Gomez. Anh vội vã giật lùi lại. Anh đi vài mét lên đồi, cố tìm một chỗ giúp mình không phải thấy cái xác nữa. Nhịp thở của anh chậm lại thêm một chút nữa. Anh đã có thể nghĩ mọi thứ một cách bình tĩnh. Anh quyết định là Marek nói đúng. Họ sẽ gửi một cỗ máy khác, và có lẽ là sẽ mau thôi. Liệu nó có đáp xuống ngay chỗ này không? Liệu đây có phải là một nơi hay được dành làm bãi đỗ không? Hay liệu nó sẽ ở nơi nào đó trong vùng?

Kiểu gì thì kiểu, Chris chắc chắn rằng anh nên ở lại ngay chính chỗ này.

Anh nhìn xuống cuối con đường, nơi Marek đã đi. Kate giờ ở đâu vậy? Có lẽ đâu đó cuối đường. Độ vài trăm mét, có thể hơn.

Chúa ơi, anh muốn về nhà.

Rồi từ mé rừng phía bên phải, anh nghe thấy một tiếng va chạm.

Ai đó đang lại gần.

Anh căng người ra, biết rõ rằng mình chẳng có vũ khí nào hết. Rồi anh nhớ đến cái túi được buộc vào thắt lưng phía dưới lớp quần áo. Anh có cái bình xịt hơi ga kia. Có còn hơn không. Anh luống cuống kéo chiếc áo ngoài lên, tìm cái…

“Suỵt.”

Anh quay lại.

Là cậu thiếu niên, đang đi ra khỏi khu rừng. Khuôn mặt rất mịn và chẳng có râu gì; Chris nhận ra rằng có lẽ cậu ta chẳng hơn nổi mười hai tuổi. Cậu bé thì thầm, “Arkith. Thou. Earwashman.”

Chris cau mày, chẳng hiểu gì, nhưng một giây sau anh nghe thấy một giọng nói nhỏ xíu trong đầu: “Này. Anh. Anh người Ai Len kia.” Anh nhận ra rằng cái tai nghe đang dịch cho mình.

“Gì cơ?” anh nói.

“Coumen hastealey.” Anh nghe thấy tiếng, “Lại đây nhanh lên.”

Cậu bé đang giục anh, đầy căng thẳng.

“Nhưng…”

“Lại đây. Ngài Guy sẽ mau chóng nhận ra rằng hắn ta đã mất dấu. Và hắn sẽ quay lại đây tìm kiếm ngay thôi.”

“Nhưng…”

“Anh không thể cứ ở đây thế này được. Hắn sẽ giết anh đấy. Đi!”

“Nhưng…” Chris tuyệt vọng chỉ tay về đoạn đường nơi Marek đã đi.

“Người hầu của anh sẽ tìm thấy anh thôi. Đi!”

Giờ anh đã nghe thấy tiếng vó ngựa từ xa vọng lại, càng lúc càng dồn dập hơn.

“Anh có điên không?” cậu bé hỏi, nhìn chằm chằm vào anh. “Đi.”

Tiếng lộc cộc càng lúc càng gần hơn.

Chris đứng ngây ra, chẳng biết phải làm gì.

Cậu bé đã mất hết kiên nhẫn. Lắc đầu đầy khinh khi, cậu ta xoay người lại và chạy vào rừng. Ngay lập tức cậu ta đã biến mất trong những bụi cây rậm rì.

Chris đứng một mình giữa đường. Anh nhìn xuống cuối đồi. Anh chẳng thấy Marek đâu hết. Anh nhìn lên đồi, về phía tiếng vó ngựa càng lúc càng gần. Tim anh lại đập thình thịch.

Anh phải quyết định. Ngay bây giờ.

“Tôi tới đây!” anh gào về phía cậu bé.

Rồi anh quay người chạy vào rừng.

*

Kate ngồi trên một thân cây đổ, cẩn thận sờ lên đầu, bộ tóc giả của cô đang bị lệch. Có máu dính trên những đầu ngón tay của cô.

“Cô có bị thương không?” Marek nói khi đến chỗ cô.

“Tôi không nghĩ vậy.”

“Để tôi xem.”

Nhấc bộ tóc giả lên, Marek thấy máu lấm tấm và một vết rách tới bảy xăng ti mét trên đầu cô. Vết thương không còn chảy máu nữa; máu đã bắt đầu đông lại trên bộ tóc giả. Vết thương cần phải được khâu lại, nhưng không khâu được thì cô cũng vẫn sẽ ổn thôi.

“Cô sẽ ổn thôi.” Anh ta đội bộ tóc giả lại cho cô.

Cô nói, “Chuyện gì đã xảy ra vậy?”

“Hai người kia đã chết rồi. Giờ chỉ còn chúng ta thôi. Chris có hơi hoảng loạn.”

“Chris có hơi hoảng loạn thật.” Cô gật đầu, như thể cô đã đoán được thế vậy. “Vậy chúng ta nên đi đón anh ta thôi.”

Họ bắt đầu đi lên đoạn dốc. Vừa đi, Kate vừa nói, “Mấy con chip định vị thì sao?”

“Người đó đã quay về, và anh ta đã lấy cái của anh ta theo rồi. Xác của Gomez đã bị giày nát, chip định vị của cô ấy cũng bị phá hủy rồi.”

“Thế cái kia đâu?” Kate nói.

“Cái kia gì cơ?”

“Cô ấy có một cái dự phòng mà.”

“Sao cô biết?”

“Cô ấy đã nói thế. Anh không nhớ à? Khi cô ấy trở lại từ chuyến đi do thám kia, hay thứ gì cũng được, cô ấy nói rằng tất cả mọi thứ đều ổn và rằng chúng ta nên nhanh sẵn sàng đi. Và cô ấy đã nói, ‘Tôi sẽ ghi cái dự phòng đây’. Hay gì đó đại loại thế.”

Marek chau mày.

“Có cái dự phòng cũng là điều dễ hiểu thôi mà,” Kate nói.

“Ồ, Chris sẽ rất vui khi nghe thế đấy,” Marek nói. Họ đi về phía góc ngoặt cuối cùng. Rồi họ dừng lại và căng mắt ra nhìn.

Chris đã biến mất.

*

Đâm xuyên qua những đám cây bụi, tảng lờ những cái gai cào vào chân và đâm vào cái quần tất, cuối cùng Chris Hughes cũng thoáng thấy bóng cậu bé đang chạy phía trước, cách khoảng năm mươi mét. Nhưng cậu bé chẳng hề chú ý gì đến anh, không hề dừng lại, mà cứ tiếp tục chạy đi. Cậu ta đang hướng về phía làng. Chris cố gắng đuổi theo. Anh không ngừng chạy.

Phía sau lưng, anh nghe thấy tiếng ngựa giậm chân và thở phì phì, cả tiếng quát tháo của những tên lính. Anh nghe thấy ai đó thét, “Trong rừng!” và một lời đáp kèm theo tiếng chửi thề. Nhưng bên ngoài con đường đất, lối đi cực kỳ rậm rạp với các loại cây bụi. Chris phải trườn qua những thân cây ngáng đường, những khúc gỗ mục, những cành cây to chẳng kém gì đùi anh, những bụi cây dày đặc. Đường thế này chẳng phải là rất khó cho ngựa đi hay sao? Liệu chúng có xuống ngựa không? Liệu chúng có đuổi theo không?

Quỷ ạ, chúng có đuổi theo.

Anh tiếp tục chạy. Anh giờ đang ở giữa một vùng đầm lầy, cố luồn qua đám cây cao tới thắt lưng với cái mùi như mùi chồn hôi, trượt trong những vũng bùn mà mỗi bước đi lại càng lúc càng sâu hơn. Anh có thể nghe thấy tiếng thở hổn hển của chính mình, cùng với tiếng sụt lún và lục bục khi chân mắc kẹt dưới bùn.

Nhưng anh chẳng nghe thấy tiếng ai đằng sau mình hết.

Chẳng mấy chốc mặt đất đã khô lại, và anh có thể chạy nhanh hơn. Giờ cậu bé chỉ còn cách anh khoảng mười bước chân, vẫn đang chạy rất nhanh. Chris thở hổn hển, cố đuổi theo, nhưng vẫn chưa bắt kịp.

Anh tiếp tục chạy. Có tiếng cách bên trong tai trái. “Chris.”

Là Marek.

“Chris, cậu đang ở đâu đấy?”

Sao anh trả lời được? Có micro à? Rồi anh nhớ là họ có nói gì đó về truyền xung điện qua xương. Anh nói to, “Tôi đang… Tôi đang chạy…”

“Tôi nghe thấy rồi. Cậu đang chạy đi đâu đấy?”

“Cậu bé… ngôi làng…”

“Cậu đang chạy về phía ngôi làng à?”

“Tôi không biết. Tôi nghĩ thế.”

“Cậu nghĩ thế á? Chris, cậu đang ở đâu vậy?”

Và rồi từ phía sau, Chris nghe thấy một tiếng rầm, tiếng đàn ông quát tháo, và tiếng ngựa hí.

Những tên kỵ sĩ đang đuổi theo anh. Và anh đã để lại cả một chuỗi dài những vết cây gãy và dấu chân in trên bùn. Quá dễ đuổi theo.

Chết tiệt.

Chris chạy bán sống bán chết. Và bất thình lình anh nhận ra rằng cậu bé chẳng còn ở trước mặt nữa.

Anh dừng lại, thở lấy hơi, và xoay người nhìn khắp xung quanh. Nhìn…

Biến mất rồi.

Cậu bé đã biến mất.

Chris đang ở một mình giữa khu rừng.

Và bọn kỵ sĩ đang đến gần.

*

Trên con đường đầy bùn đất nhìn xuống tu viện, Marek và Kate đứng lắng nghe qua đôi tai nghe. Giờ chỉ còn tĩnh lặng; Kate úp tay lên tai để nghe rõ hơn. “Tôi chẳng nghe được gì hết.”

“Có thể cậu ta ngoài vùng phủ sóng rồi,” Marek nói.

“Sao anh ta lại chạy về làng? Có vẻ như là anh ta đang chạy theo cậu bé kia,” cô nói. “Sao anh ta lại làm thế chứ?”

Marek nhìn xuống tu viện. Chỉ chừng mười phút đi bộ từ chỗ họ đang đứng. “Giờ này có lẽ Giáo sư đang ở ngay dưới đó. Chúng ta chỉ cần xuống đón thầy và đi về.” Anh ta đá một khúc cây đầy giận dữ. “Đáng lẽ đã quá dễ dàng.”

“Chẳng còn được thế nữa đâu.”

Tiếng cạch tĩnh điện sắc lạnh trong mấy cái tai nghe làm họ nhăn mặt. Họ lại nghe thấy tiếng Chris thở hổn hển.

Marek nói, “Chris, cậu có đang nghe không?”

“Tôi không thể… không thể nói chuyện vào lúc này được.”

Chris đang thì thầm. Và có vẻ đang rất sợ hãi.

*

“Không, không, không!” Cậu bé thì thào, chúi người xuống khỏi những cành cây của một cái cây khổng lồ. Cuối cùng, thấy thương hại Chris khi anh cứ xoay như chong chóng trên mặt đất phía dưới, cậu ta bèn huýt sáo. Và cậu ta đã vẫy tay ra hiệu cho anh trèo lên cây.

Chris giờ đang vật lộn trèo cây, cố tự nhấc mình lên trên những cành thấp nhất, cố lấy thêm lực đẩy bằng cách ghì chân vào thân cây. Nhưng thấy anh làm thế, cậu bé phát bực mình.

“Không, không! Tay! Chỉ dùng tay thôi!” cậu bé thì thào một cách tức tối. “Anh là đồ ngu – nhìn những vết trên thân cây nhờ chân anh kìa.”

Treo lơ lửng trên một cành cây, Chris nhìn xuống. Cậu bé nói đúng. Có những vệt bùn, rất rõ trên lớp vỏ cây.

“Thề trước thập tự, chúng ta tiêu rồi,” cậu bé gào lên, đu qua đầu Chris và nhẹ nhàng hạ xuống mặt đất.

“Cậu làm gì thế?” Chris nói,

Nhưng cậu bé đã chạy đi mất, qua những bụi gai, chạy qua hết cây này đến cây khác, Chris nhảy xuống đất và đuổi theo sau.

Cậu bé lẩm bẩm gì đó đầy tức tối trong khi ngó nghiêng các cành cây. Rõ ràng là cậu ta đang tìm một cái cây thật lớn với những cành đủ thấp; chẳng có cái cây nào hợp hết. Tiếng những kỵ sĩ càng lúc càng lớn hơn.

Chẳng mấy chốc họ đã đi thêm được khoảng một trăm mét hoặc hơn, vào một vùng đầy những cây thông sần sùi u bướu. Ở đây không gian nhiều nắng và thông thoáng hơn vì về bên phải anh có ít cây hơn, và rồi Chris thấy rằng họ đang chạy gần một bờ vực cheo leo nhìn xuống thị trấn và dòng sông. Cậu bé chạy khỏi chỗ nắng, quay lại trong khu rừng tối. Gần như ngay lập tức, cậu ta tìm thấy cái cây ưng ý, và ra dấu gọi Chris tiến lại. “Anh lên trước. Không dùng chân đâu đấy!”

Cậu bé khuỵu gối xuống, đan tay vào nhau, và cứng người lại, sẵn sàng. Chris thấy cậu bé quá gầy khó có thể chịu nổi sức nặng của anh, nhưng cậu bé lắc lắc đầu mất kiên nhẫn. Chris đặt một chân lên hai bàn tay của cậu bé, và rướn người về trước, bám lấy cành cây thấp nhất. Với sự giúp đỡ của cậu bé, anh nâng người lên, đoạn càu nhàu nốt một tiếng, anh quăng người lên sao cho bụng xoay xuống dưới, cúi gập người trên cành cây. Anh nhìn xuống phía cậu bé, cậu suỵt một tiếng, “Di chuyển đi!” Chris cố dồn lực lên đùi, rồi đứng lên cành cây. Cành tiếp theo khá dễ với, và anh lại tiếp tục trèo.

Phía dưới, cậu bé nhảy lên, bám lấy cành cây, và nhanh chóng bật người lên. Dù khá mảnh dẻ, cậu ta khỏe đến bất ngờ, và cậu ta di chuyển từ cành này sang cành khác một cách thật vững vàng. Chris giờ đang cách mặt đất hơn sáu mét. Hai cánh tay nóng rực như phải bỏng, anh thở hổn hển khi phải trèo lên cao, nhưng vẫn tiếp tục trèo, hết cành này đến cành kia.

Cậu bé bám lấy bắp chân của anh, làm anh cứng người lại. Thật chậm, thật cẩn thận, anh ngoái nhìn ra sau, và thấy cậu bé đang cứng đơ lại trên cành cây phía dưới mình. Rồi Chris nghe thấy một tiếng ngựa khịt rất khẽ và nhận ra rằng cái tiếng đó đã ở gần.

Rất gần.

*

Trên mặt đất phía dưới, sáu kỵ sĩ đang từ từ và lặng lẽ tiến về phía trước. Chúng vẫn còn cách một đoạn, rời rạc hiện lên giữa những kẽ lá. Thấy một con ngựa khụt khịt, tên kỵ sĩ bèn nhoài người ra trước vỗ nhẹ vào cổ nó để làm nó yên lặng.

Những tên kỵ sĩ biết rằng chúng đã gần với những con mồi của mình rồi. Chúng nhoài người trên lưng ngựa, nhìn quanh khắp mặt đất, nhìn hết phía này đến phía kia. May là chúng giờ đang ở giữa những bụi cây rậm rì thấp tẹt; chẳng dấu vết nào hiện rõ hết.

Ra dấu bằng tay, chúng tách nhau ra, tiến về phía trước. Giờ chúng tạo thành một đường thẳng tương đối, đi qua bên dưới thân cây. Chris nín thở. Nếu chúng nhìn lên…

Nhưng chúng không nhìn lên.

Chúng đi về phía trước, tiến sâu vào trong rừng, và cuối cùng một trong số chúng nói to. Đó là tên kỵ sĩ có chiếc lông chim màu đen gắn trên mũ trụ, kẻ đã chém đầu Gomez. Hắn nhấc cái lưới che mũ lên.

“Đến đây là đủ rồi. Chúng đã chuồn mất rồi.”

“Bằng cách nào? Nhảy xuống vực á?”

Tên kỵ sĩ đen lắc đầu. “Đứa trẻ đó không ngốc đến thế đâu.” Chris thấy mặt hắn ta khá sậm: da sẫm màu và mắt sẫm màu.

“Không hẳn là một đứa trẻ đâu, thưa ngài.”

“Nếu nó ngã, thì chỉ là do sơ suất thôi. Không thể khác được. Nhưng ta nghĩ chúng ta đã đi nhầm đường rồi. Hãy quay về chỗ cũ đi.”

“Vâng thưa ngài.”

Đám kỵ sĩ quay ngựa lại và bắt đầu bỏ đi. Chúng lại đi qua chỗ cái cây, rồi phóng đi, vẫn đi tách nhau, hướng thẳng ra chỗ sáng.

“Có lẽ ở chỗ có nhiều ánh sáng hơn, chúng ta có thể tìm được dấu của bọn chúng.”

Chris thở dài nhẹ nhõm.

Cậu bé bên dưới gõ nhẹ vào chân và gật đầu với anh, như thể muốn nói, Làm tốt lắm. Họ đợi tới khi những tên kỵ sĩ đã ở cách ít nhất một trăm mét, gần như đã hoàn toàn ra khỏi tầm nhìn. Rồi cậu bé nhẹ nhàng trườn xuống dưới, và Chris cố theo sau nhẹ nhất có thể.

Khi đã yên vị dưới đất, Chris thấy những kỵ sĩ đang phóng đi. Chúng đang tới chỗ cái cây có những dấu chân đầy bùn. Tên kỵ sĩ đen phóng qua, không chú ý. Rồi tên tiếp…

Cậu bé nắm lấy cánh tay anh, đẩy anh đi, nhào vào chỗ bụi rậm,

Rồi thì: “Ngài Guy! Ngài nhìn này! Cái cây! Chúng ở trên cây.”

Một trong những tên kỵ sĩ đã để ý thấy.

Thôi rồi.

Những tên kỵ sĩ xoay ngựa lại, nhìn lên cây. Tên kỵ sĩ đen quay lại, đầy vẻ ngờ vực. “Thế hả? Cho ta xem nào.”

“Tôi không thấy chúng ở trên đó, thưa ngài.”

Những tên kỵ sĩ xoay người lại, nhìn ra sau, nhìn về tất cả các hướng, nhìn ra phía sau lưng…

Và chúng đã thấy họ.

“Đằng kia!”

Những tên kỵ sĩ thúc ngựa về trước.

Cậu bé chạy thục mạng. “Chúa lòng lành, chúng ta thực sự tiêu rồi,” cậu ta nói, vừa chạy về phía trước vừa ngoái nhìn lại. “Anh có biết bơi không?”

“Bơi?” Chris nói.

Dĩ nhiên, là anh có thể bơi. Nhưng đó không phải điều anh đang nghĩ. Vì ngay lúc này đây họ đã đang chạy thục mạng, và cũng sắp hết hơi rồi – hướng về phía trảng đất, về phía những hàng cây tách ra.

Về phía vực thẳm.

Mặt đất đổ xuống dưới, lúc đầu chỉ thoai thoải, rồi càng lúc càng dốc hơn. Nền đất trở nên mỏng hơn, với những phần đá vôi lộ thiên màu vàng trắng. Mặt trời tỏa ánh nắng chói chang.

Tên hiệp sĩ đen rú lên gì đó. Chris không hiểu.

Cuối cùng họ cũng tới mép trảng đất. Không hề do dự, cậu bé nhảy vào khoảng không.

Chris do dự, không muốn làm theo. Liếc về phía sau, anh thấy những tên kỵ sĩ đang thúc ngựa phóng tới, những thanh gươm to bản vung lên.

Không có lựa chọn nào khác.

Chris quay người lại và chạy về phía mép vực.

*

Marek nhăn mặt khi nghe thấy tiếng thét của Chris bên trong cái tai nghe. Tiếng thét lúc đầu rất to, rồi đột ngột bị một tiếng rền rĩ và một tiếng ầm cắt ngang.

Một cú va chạm.

Anh ta đứng bên cạnh Kate trên đường, lắng nghe. Chờ đợi.

Họ không nghe thấy gì nữa hết. Không cả tiếng nhiễu sóng.

Không gì cả.

“Anh ta chết rồi à?” Kate nói.

Marek không trả lời. Anh ta đi vội tới chỗ xác Gomez, phủ phục xuống, và bắt đầu tìm kiếm trong đống bùn. “Lại đây nào,” anh ta nói. “Gỉúp tôi tìm chip định vị dự phòng kia đi.”

*

Họ tìm trong vài phút, và rồi Marek nắm lấy tay Gomez, đã chuyển sang màu xám, các cơ đã co cứng hết lại. Anh ta nhấc tay cô lên, cảm nhận sự lạnh giá của làn da, và xoay người cô lại. Cái xác làm bùn tung tóe hết lên.

Đó là khi anh ta nhận thấy Gomez có một chiếc vòng bện thừng đeo ở cổ tay. Marek đã không nhận thấy nó khi nãy; nó dường như là một phần trong bộ trang phục thời này của cô. Dĩ nhiên là nó hoàn toàn chẳng hợp gì với thời này hết. Thậm chí cả một nữ nông dân nghèo cũng có thể đeo vòng tay kim loại hoặc khắc đá. Nhưng đây là một thứ hiện đại kiểu hippi.

Marek tò mò chạm vào nó, và anh ta ngạc nhiên khi thấy nó cứng trơ ra, gần như một miếng bìa. Anh ta lật nó lên trên cổ tay của cô, tìm mối buộc, và có thứ trông như cái nắp bật ra giữa sợi thừng, và anh ta nhận ra rằng cái vòng đó có che một cái định giờ điện tử, trông giống đồng hồ đeo tay.

Chiếc đồng hồ định giờ ghi: 36:10:37

Và nó đang đếm ngược.

Ngay lập tức anh ta biết nó là gì. Nó là cái máy tính giờ của cỗ máy, cho họ biết họ còn bao nhiêu thời gian nữa. Lúc đầu họ đã có ba mươi bảy tiếng, và giờ họ đã mất khoảng năm mươi phút rồi.

Chúng ta phải giữ lấy cái này, anh ta nghĩ thế. Anh ta tháo chiếc vòng khỏi cổ tay cô, và buộc nó lại quanh cổ tay của mình. Anh ta đóng cái nắp lại.

“Chúng ta có một cái đồng hồ định giờ,” Kate nói. “Nhưng không có thiết bị định vị.”

Họ tìm thêm năm phút nữa. Và cuối cùng Marek đã phải miễn cưỡng thừa nhận cái sự thật nghiệt ngã ấy.

Chẳng có chip định vị nào hết. Và không có chip định vị, những cỗ máy đó sẽ không quay lại.

Chris nói đúng: họ đã bị kẹt lại ở đây rồi.