26:12:01
Gần chục khí cầu bay lên giữa dãy núi mặt bàn dưới ánh mặt trời buổi sáng. Giờ đã gần mười một giờ. Một trong những chiếc khí cầu đó có họa tiết dích dắc, làm Stern liên tưởng đến một bức tranh cát của người Navajo.
“Tôi xin lỗi,” Gordon nói. “Nhưng câu trả lời là không. Anh không thể dùng cỗ máy mẫu đó để trở về quá khứ được. Nó quá nguy hiểm.”
“Tại sao? Tôi đã nghĩ là tất cả đều rất an toàn. An toàn hơn cả đi xe ô tô. Nguy hiểm gì chứ?”
“Tôi đã nói với anh là chúng tôi không gặp phải lỗi dịch chuyển – lỗi xảy ra trong quá trình tái tạo,” Gordon nói. “Nhưng cũng không hoàn toàn chính xác là thế đâu.”
“Bình thường thì, đúng là chúng tôi không thể tìm được bất cứ một dấu hiệu nào cho thấy là có lỗi cả. Nhưng nó hẳn là vẫn xảy ra với bất cứ chuyến đi nào. Chỉ là quá nhỏ nên không thể phát hiện được thôi. Nhưng giống như hiện tượng phơi xạ, lỗi dịch chuyển cũng sẽ tăng tiến dần. Anh không thể nhận thấy chúng sau một chuyến đi, nhưng sau hai mươi chuyến đi, những dấu hiệu đó bắt đầu trở nên rõ ràng. Có thể là một vết sẹo nhỏ trên da. Một vệt nhỏ trên giác mạc. Hay anh bắt đầu có những triệu chứng bệnh lý đáng kể như tiểu đường, hay vấn đề về hệ tuần hoàn. Một khi chuyện đó xảy ra, anh sẽ không được đi nữa. Vì anh không thể liều để cho những chuyện đó trở nên tồi tệ hơn. Có nghĩa là anh đã tới giới hạn du hành rồi.”
“Và chuyện đã xảy ra như thế à?”
“Phải. Với một số động vật thí nghiệm. Và với vài người. Những người tiên phong – những người đã dùng cỗ máy thử nghiệm này.”
Stern lưỡng lự. “Những người đó giờ đâu rồi?”
“Hầu hết vẫn đang ở đây, vẫn đang làm việc cho chúng tôi. Nhưng họ không du hành nữa. Họ không thể.”
“Được rồi,” Stern nói. “Nhưng tôi đang nói về chuyện chỉ đi có một chuyến thôi mà.”
“Và chúng tôi đã không sử dụng hay kiểm tra cỗ máy này trong một thời gian dài rồi,” Gordon nói. “Có thể ổn, và cũng có thể không. Nhìn này: giả tôi để anh quay lại, và anh đến năm 1357, anh phát hiện ra rằng mình bị lỗi nghiêm trọng, anh không dám quay trở lại. Vì anh không thể liều bị thêm lỗi nữa.”
“Anh đang nói là tôi sẽ phải ở lại đó.”
“Đúng.”
Stern nói, “Chuyện này đã xảy ra với ai chưa?”
Gordon dừng lại. “Có khả năng.”
“Anh muốn nói là giờ đang có người kẹt lại đó?”
“Có khả năng,” Gordon nói. “Chúng tôi không chắc.”
“Nhưng biết được là rất quan trọng đấy,” Stern nói, đột ngột trở nên phấn khích. “Anh đang nói với tôi là đã có ai đó ở đấy và có thể giúp họ.”
“Tôi không biết,” Gordon nói, “liệu cái người đó có chịu giúp không.”
“Nhưng chẳng lẽ chúng ta lại không được nói gì với họ sao? Khuyên họ gì đó?”
“Chẳng có cách nào liên lạc được với họ hết.”
“Thực ra thì,” Stern nói, “tôi nghĩ là có đấy.”
* 16:12:23Run lên vì lạnh, Chris tỉnh dậy trước lúc bình minh. Bầu trời xám nhạt, mặt đất phủ đầy một lớp sương mỏng. Anh đang ngồi dưới chái nhà, đầu gối thu lại ép vào cằm, lưng tựa vào tường. Kate ngồi bên cạnh, vẫn đang ngủ. Anh dịch người ra nhìn quanh, và nhăn mặt vì đau nhói. Toàn thân anh bị căng cứng và đau nhức – hai cánh tay, hai chân, ngực, tất cả mọi chỗ. Cổ cũng đau khi anh cố quay đầu.
Anh ngạc nhiên khi thấy vai chiếc áo choàng của mình có vết máu khô đông lại. Rõ ràng là mũi tên đêm trước đã cắt đủ sâu tới mức làm vết thương chảy máu. Chris thử cử động tay, hít một hơi sâu trong cơn đau, nhưng anh nghĩ rằng mình vẫn ổn.
Anh rùng mình trong hơi ẩm buổi sáng. Thứ anh muốn bây giờ là một đống lửa ấm áp và cái gì đó ăn được. Bụng anh đang sôi ùng ục. Anh chưa ăn gì trong hơn hai mươi tư tiếng đồng hồ rồi. Và anh đang khát. Họ sẽ phải tìm nước ở đâu chứ? Liệu có thể uống được nước từ dòng Dordogne không? Hay họ cần phải tìm một con suối? Và họ phải đi đâu mới tìm được thức ăn đây?
Anh quay sang hỏi Marek, nhưng Marek chẳng còn ở đó nữa. Anh xoay người nhìn quanh ngôi nhà – đau nhói, rất đau – nhưng Marek đã biến mất.
Đang chuẩn bị đứng dậy thì anh nghe thấy những bước chân đang tiến lại gần. Marek? Không, anh đoán định: anh đang nghe thấy tiếng bước chân của hơn một người. Và anh nghe thấy tiếng lách cách của áo giáp lưới nữa.
Những bước chân tiến lại gần hơn, rồi dừng lại. Anh nín thở. Về bên phải, chỉ cách đầu anh chưa tới một mét, một cái bao tay sắt của bộ giáp lưới hiện lên trên khung cửa và tựa lên bậu cửa sổ. Ống tay phía trên chiếc bao tay màu xanh lá cây, viền đen.
Người của Arnaut.
“Hic nemo habitavit nuper,” một giọng đàn ông nói.
Câu đáp lại đến từ phía cửa. “Et intellego quare. Specta, porta habet signum rubrum. Estne pestilentiae?”
“Pestilentiae? Certo scine? Abeamus!”
Bàn tay nhanh chóng rụt lại, và những bước chân vội vã chạy ra xa. Cái tai nghe của anh chẳng dịch chút nào hết, vì nó đã bị tắt đi rồi. Anh phải dựa vào vốn tiếng Latin của mình. Pestilentiae là gì thế? Có lẽ là “bệnh dịch”. Những tên lính thấy cái vệt trên cửa và đã vội bỏ đi.
Lạy Chúa, anh nghĩ, đây có phải một căn nhà bị dịch không? Có phải đó là lý do tại sao nó lại bị đốt đi không? Liệu ta có còn bị lây bệnh không? Anh đang băn khoăn về chuyện này thì kinh hoàng nhìn thấy một con chuột đen kịt chạy ra khỏi đống cỏ rậm, rồi chạy qua cửa. Chris rùng mình. Kate tỉnh dậy và ngáp dài, “Mấy giờ…”
Anh ấn tay lên môi cô và lắc đầu.
Anh nghe tiếng những người đàn ông đó đang bỏ đi, giọng nói nhạt dần trong sương sớm. Chris trườn ra khỏi căn nhà chái, lần ra phía cửa sổ, và cảnh giác nhìn ra.
Anh thấy có ít nhất một tá lính bao quanh họ, mặc đồ xanh lá cây và đen theo quân phục của Arnaut. Những người lính này đang cẩn thận kiểm tra tất cả những căn nhà mái rạ gần những bức tường tu viện. Đang nhìn thì Chris thấy Marek đi về phía đám lính. Marek đang khom mình, một chân lê lệt xệt. Anh ta mang ít rau trên tay. Những tên lính cản anh ta lại. Marek nhũn nhặn cúi đầu. Người anh ta dường như nhỏ tí, trông thật yếu đuối. Anh ta cho bọn lính xem trong tay mình có gì. Đám lính cười phá lên và đẩy anh ta sang bên. Marek đi tiếp, vẫn khom lưng và đầy vẻ cung kính.
*Kate nhìn Marek đi qua ngôi nhà cháy của họ và biến mất phía sau bức tường tu viện. Anh ta rõ ràng là không định đi ra chỗ họ khi đám lính vẫn còn đang ở quanh đó.
Chris đã bò lại chỗ chái nhà, nhăn mặt. Vai anh có vẻ rất đau; máu khô dính trên lớp vải. Cô giúp anh cởi cúc chiếc áo chẽn ra, khuôn mặt anh nhăn nhúm và môi cắn chặt. Thật nhẹ nhàng, cô kéo chiếc áo lót cổ rộng bằng vải lanh của anh ra, và thấy toàn bộ phần ngực trái đều thâm tím cả lại, với một vết vàng nhạt vằn đen ở hai bên. Đó chắc chắn là chỗ anh bị mũi thương thúc vào.
Nhìn nét mặt cô, anh thì thầm, “Tệ thế à?”
“Tôi nghĩ chỉ bị bầm thôi. Có lẽ là vài cái xương sườn gãy.”
“Đau không chịu được.”
Cô luồn chiếc áo khỏi vai anh, để lộ ra vết tên. Nó cắt chéo qua bề mặt da tới năm xăng ti mét, máu khô đóng kết lại.
“Thế nào?” Anh vừa nói vừa nhìn nét mặt cô.
“Chỉ là một vết cắt thôi.”
“Có bị nhiễm trùng không?”
“Không, có vẻ sạch lắm.”
Cô kéo cái áo chẽn xuống sâu hơn, thấy thêm nhiều vết bầm trên lưng và bên sườn, dưới cánh tay anh. Cả người anh là một vết bầm khổng lồ. Chắc chắn phải rất đau. Cô ngạc nhiên là sao anh lại không phàn nàn thêm nữa. Gì thì gì, đây cũng chính là cái người sẵn sàng nổi cơn nếu ai đó cho anh ta ăn nấm khô thay vì nấm tươi trong món trứng ốp lết buổi sáng. Người có thể bĩu môi ra chê món rượu vang.
Cô bắt đầu cài cúc chiếc áo chẽn cho anh. Anh nói, “Tôi có thể làm được mà.”
“Tôi giúp anh…”
“Tôi nói là, tôi có thể làm được mà.”
Cô lùi lại, giơ tay lên. “Được rồi. Được rồi.”
“Kiểu gì thì tôi cũng phải làm cho mấy cái tay cử động thôi,” anh nói, vừa cài cúc vừa nhăn mặt. Anh tự mình cài lại hết hàng khuy. Nhưng sau đó, anh ngồi tựa lại vào tường, mắt nhắm, mồ hôi chảy ròng ròng vì mệt và đau.
“Chris…”
Anh mở mắt ra. “Tôi ổn mà. Thực sự đấy, đừng lo cho tôi. Tôi cực kỳ ổn.”
Và anh thật sự nghĩ thế.
Cô gần như có cảm giác là mình đang ngồi cạnh một con người hoàn toàn xa lạ.
*Khi Chris nhìn thấy vai và ngực mình – màu tím của thịt thối – anh đã ngạc nhiên trước phản ứng của chính mình, vết thương khá nặng. Anh đã nghĩ là mình sẽ khiếp sợ, hay hoảng loạn. Nhưng thay vào đó, anh chỉ thấy nhẹ bẫng, gần như chẳng chút lo nghĩ. Cơn đau có thể làm anh thở hắt ra, nhưng cũng chẳng thành vấn đề. Anh chỉ thấy hạnh phúc là mình vẫn còn sống, và đối mặt với một ngày mới. Những lời phàn nàn quen thuộc, những lời chỉ trích, và cảm giác bất an của anh đột nhiên trở nên chẳng chút quan trọng. Thay vào đó, anh phát hiện ra rằng mình có một nguồn năng lượng vô tận – một nguồn sinh khí bốc lên ngùn ngụt mà anh không thể nhớ đã từng nếm trải nó trước đây. Anh thấy nó cuộn chảy trong người mình, như một dạng nhiệt năng. Thế giới xung quanh anh dường như sống động hơn, hấp dẫn hơn trước nhiều.
Đối với Chris, bình minh xám xịt mang một vẻ đẹp thật tính khôi. Không khí ẩm ướt, mát lạnh mang hương cỏ ướt và đất ẩm. Những hòn đá sau lưng đỡ cho anh. Cả cơn đau cũng có ích vì nó xóa đi những cảm xúc không cần thiết. Anh cảm thấy thật đơn giản, tỉnh táo và sẵn sàng cho tất cả mọi thứ. Đây là một thế giới khác, với những quy luật khác.
Và lần đầu tiên anh thực sự đã hòa vào nó.
Thực sự đã ở trong nó.
*Khi đội lính đã đi, Marek quay lại. “Mọi người có hiểu gì không?” Anh ta nói.
“Gì cơ?”
“Lính đang đi lùng ba người từ Castelgard: hai đàn ông và một phụ nữ.”
“Tại sao?”
“Arnaut muốn nói chuyện với họ.”
“Nổi tiếng chẳng hay sao,” Chris vừa nói vừa cười khẩy. “Tất cả mọi người đều chạy theo chúng ta.”
Marek đưa cho mỗi người một nắm cỏ và lá ướt. “Rau đồng này. Đồ ăn sáng đấy. Ăn đi.”
Chris nhai rau ráu. “Ngon tuyệt,” anh nói. Anh thực sự nghĩ như vậy.
“Cái cây có lá răng cưa làm hạ sốt đấy. Ăn vào đỡ đau. Cái cọng trắng là liễu. Giúp giảm sưng.”
“Cảm ơn,” Chris nói. “Ăn ngon lắm.”
Marek nhìn chằm chằm vào Chris đầy bất ngờ. Anh ta nói với Kate, “Cậu ta có làm sao không đấy?”
“Thực ra thì, tôi nghĩ là anh ta ổn đấy.”
“Tốt. Ăn hết đi, rồi thì chúng ta sẽ đến tu viện. Nếu chúng ta có thể qua được bọn lính gác.”
Kate tháo bộ tóc giả ra. “Chẳng thành vấn đề,” cô nói. “Chúng đang tìm hai người đàn ông và một phụ nữ. Thế: giờ ai có con dao sắc nhất nào?”
*May mắn là tóc cô đã ngắn sẵn rồi: chỉ mất vài phút là Marek đã cắt hết mấy lọn tóc dài và thế là xong. Trong khi anh ta đang làm, Chris nói, “Tôi đã nghĩ suốt tối qua.”
“Rõ ràng, ai đó có tai nghe,” Marek nói.
“Đúng thế,” Chris nói. “Và tôi nghĩ tôi biết chúng lấy được nó từ đâu.”
“Gomez,” Marek nói.
Chris gật đầu. “Đó là suy đoán của tôi. Anh không lấy nó khỏi người cô ấy đấy chứ?”
“Không. Lúc đó tôi đã không nghĩ tới việc đó.”
“Tôi chắc chắn là một người nào đó có thể đẩy nó đủ sâu vào tai mình để nghe, dù nó không vừa với tai của anh ta đi chăng nữa.”
“Phải,” Marek nói. “Nhưng câu hỏi là, ai? Đây là thế kỷ mười bốn. Một cái cục hồng hồng nói giọng nhỏ nhỏ là đồ phù thủy. Ai mà tìm thấy thì chắc chắn sẽ thất kinh thôi. Bất cứ ai nhặt nó lên cũng sẽ vứt đi như thả khoai tây nóng – và rồi sẽ giẫm nát nó ngay lập tức. Hoặc sẽ chạy như điên ấy.”
“Tôi biết,” Chris nói. “Thế nên đó là lý do tại sao bất cứ khi nào nghĩ về nó, tôi cũng chỉ thấy có một câu trả lời duy nhất hợp lý.”
Marek gật đầu. “Bọn khốn ấy đã không nói cho ta biết.”
“Nói cho ta biết cái gì?” Kate nói.
“Rằng có ai đó đang ở đây. Ai đó từ thế kỷ hai mươi.”
“Đó là câu trả lời duy nhất hợp lý,” Chris nói.
“Nhưng ai?” Kate nói.
Chris đã nghĩ về chuyện này suốt buổi sáng. “De Kere,” anh nói. “Chắc chắn phải là de Kere.”
Marek lắc đầu.
“Nghĩ mà xem,” Chris nói. “Hắn ta mới ở đây đựọc có một năm, đúng không? Không ai biết hắn từ đâu đến, đúng không? Hắn ta dần chiếm được niềm tin của Oliver, và hắn ghét tất cả chúng ta, vì hắn biết chúng ta cũng có thể làm thế, đúng không? Hắn ta dẫn quân khỏi xưởng thuộc da, đi tận lên phố, cho tới khi chúng ta nói – và rồi hắn quay ngoắt lại chỗ chúng ta. Tôi nói thật đấy, chắc chắn phải là de Kere.”
“Chỉ có một vấn đề duy nhất,” Marek nói. “De Kere nói tiếng Occitan chuẩn.”
“Thật ra, anh cũng thế mà.”
“Không. Tôi nói như một anh ngoại quốc vụng về ấy. Hai người chỉ nghe lời dịch trong cái tai nghe. Tôi nghe những gì họ thực sự nói. De Kere nói như một người bản xứ vậy. Hắn nói cực kỳ trôi chảy, và ngữ điệu của hắn thì hoàn toàn khớp với những người khác. Và Occitan là tử ngữ ở thế kỷ hai mươi. Chẳng có lý nào hắn ta có thể đến từ cùng thế kỷ với chúng ta mà có thể nói được như vậy hết. Hắn phải là người bản xứ.”
“Có thể hắn là một nhà ngôn ngữ học.”
Marek lại lắc đầu. “Không phải de Kere,” anh ta nói. “Là Guy Malegant.”
“Hiệp sĩ Guy?”
“Không phải bàn,” Marek nói. “Tôi đã ngờ hắn từ lúc chúng ta bị tóm trong đường hầm. Nhớ không? Chúng ta gần như là hoàn toàn tĩnh lặng ở trong đó – nhưng hắn ta đã mở cửa ra và tóm được chúng ta. Hắn thậm chí còn chẳng giả vờ bất ngờ nữa. Hắn chẳng thèm rút kiếm ra. Khá thẳng tuột đấy, gọi báo động luôn. Vì hắn đã biết chúng ta ở đó sẵn rồi.”
“Nhưng mọi chuyện không xảy ra như thế. Ngài Daniel đi vào,” Chris nói.
“Thật là ông ta không?” Marek nói. “Tôi chẳng nhớ là ông ta có vào không nữa.”
“Thực ra thì,” Kate nói, “tôi nghĩ là có thể Chris đúng đấy. Có thể là de Kere. Vì khi tôi ở ngõ hẻm giữa nhà nguyện và lâu đài, trên bức tường nhà nguyện được khá cao rồi, thì de Kere bảo bọn lính đi giết mấy người, và tôi nhớ là tôi đã ở quá xa và lẽ ra không thể nghe thấy chúng nói gì được, nhưng tôi vẫn nghe thấy.”
Marek nhìn chằm chằm vào cô. “Thế rồi có chuyện gì?”
“Rồi de Kere thì thầm với một tên lính… Và tôi không thể nghe thấy hắn nói gì nữa.”
“Phải. Vì hắn không có cái tai nghe. Nếu hắn có, cô đã nghe được tất cả mọi thứ rồi, kể cả thì thầm nữa. Nhưng hắn không có. Là Guy. Ai đã chặt đầu Gomez? Guy và người của hắn. Ai có nhiều khả năng quay lại chỗ cái xác và lấy cái tai nghe nhất? Guy. Những gã khác sợ hãi trước cỗ máy phát sáng. Chỉ có Guy là không sợ gì thôi. Vì hắn biết nó là cái gì. Hắn thuộc thế kỷ của chúng ta.”
“Tôi không nghĩ là Guy đã ở đó đâu,” Chris nói, “khi cỗ máy phát sáng ấy.”
“Nhưng điều mấu chốt chỉ ra đó là tên Guy,” Marek nói, “là cái tiếng Occitan của hắn cực tệ. Hắn nói như người New York ấy, nói bằng giọng mũi.”
“Ồ, chẳng phải hắn đến từ Middlesex sao? Và tôi không nghĩ là hắn có gia thế tử tế đâu. Tôi có cảm tưởng là hắn được phong hiệp sĩ vì sự can đảm, chứ không phải vì gia đình thế lực gì.”
“Hắn không phải là một thương thủ đủ giỏi để hạ gục cậu trong lần ra thương đầu tiên,” Marek nói. “Hắn không phải là một tay kiếm đủ giỏi để giết tôi trong lần đấu tay đôi. Tôi nói cho mà nghe. Là Guy de Malegant.”
“Được rồi,” Chris nói, “có là ai đi nữa, thì giờ chúng cũng biết là ta đang tới tu viện rồi.”
“Đứng thế,” Marek nói, lùi khỏi Kate và nhìn mái tóc của cô đánh giá. “Thế thì đi nào.”
Kate chạm tay vào tóc đầy vẻ e ngại. Cô nói, “Liệu tôi có nên mừng vì đây không có gương không nhỉ?”
Marek gật đầu. “Có lẽ.”
“Trông tôi có giống con trai không?”
Chris và Marek liếc nhìn nhau. Chris nói, “Kiểu kiểu thế.”
“Kiểu kiểu thế?”
“Phải. Cô giống. Cô giống con trai lắm.”
“Đủ giống, ừm,” Marek nói.
Họ đứng dậy.