← Quay lại trang sách

15:12:09

Cánh cửa gỗ nặng nề kêu rắc một cái rồi mới mở ra. Từ bóng tối phía trong, một khuôn mặt bị che khuất dưới cái mũ trùm đầu ngó ra nhìn họ. “Chúa phù hộ mọi người mọi chuyện tốt đẹp và phồn thịnh,” vị thầy tu nghiêm trang nói.

“Chúa phù hộ ngài sức khỏe và sự thông tuệ,” Marek trả lời bằng tiếng Occitan.

“Mọi người đến đây có việc gì vậy?”

“Chúng tôi muốn được gặp đạo hữu Marcel.”

Vị thầy tu gật đầu, như thể anh ta đã trông đợi họ từ trước. “Được thôi, mọi người có thể vào,” vị thầy tu nói. “Mọi người đến đúng lúc đấy, vì ông ấy vẫn đang ở đây.” Anh ta mở cửa ra rộng hơn một chút để họ có thể đi vào, từng người một.

Họ bước vào một phòng chờ xây bằng đá, rất tối. Họ ngửi thấy hương hoa hồng và cam. Từ trong tu viện, họ nghe thấy tiếng cầu kinh nho nhỏ.

“Mọi người có thể để vũ khí ở đây,” người thầy tu nói, chỉ tay về phía góc phòng.

“Bằng hữu, tôi sợ là chúng tôi không thể,” Marek nói.

“Mọi người chẳng có gì phải sợ khi ở đây hết,” anh ta nói. “Bỏ vũ khí hoặc rời khỏi đây.”

Marek định cự lại, nhưng cuối cùng vẫn tháo gươm ra.

*

Vị thầy tu đi trước dẫn họ xuống một khu hành lang tĩnh lặng. Những bức tường ở đây chỉ là đá trần. Họ rẽ rồi đi xuống một hành lang khác. Tu viện rất rộng, như mê cung vậy.

Đây là một tu viện của dòng tu kín Citeaux: tăng lữ ở đây mặc áo chùng trắng bằng vải thô. Sự khắc khổ của hội thánh Citeaux là một đòn đánh có chủ đích vào những hội suy đồi hơn như các dòng Benedict và Dominic. Những thầy tu dòng Citeaux phải tuân thủ những luật lệ cực kỳ nghiêm ngặt, trong một môi trường tu khổ hạnh khắc nghiệt. Trong suốt hàng thế kỷ, những thầy tu Citeaux không cho phép trang trí hay chạm trổ bất cứ thứ gì lên những tòa nhà đơn sơ của họ, những bản thảo của họ cũng vậy. Bữa ăn của họ gồm có rau, bánh mì và nước, chẳng thịt hay xốt gì hết. Giường cứng; phòng trống trải và lạnh lẽo. Tất cả mọi góc độ trong cuộc sống tu hành của họ đều đúng kiểu Spartan. Nhưng thực tế là, cái kiểu sống khổ hạnh này đã…

Cắc!

Marek quay về nơi phát ra tiếng động. Họ đang đi vào sân – một khoảng sân không mái che bên trong tu viện, được bao quanh bởi những lối đi có vòm che ở ba phía, được dùng để làm nơi đọc sách và suy ngẫm.

Cắc!

Giờ họ nghe thấy có tiếng cườỉ. Những tiếng quát tháo của đàn ông.

Cắc! Cắc!

Khi họ đi vào khoảng sân, Marek nhìn thấy đài phun nước và vườn ở trung tâm đã bị phá bỏ. Sân trống trải, đất nền được nện cứng. Bốn người đàn ông, mồ hôi đầm đìa trong bộ áo vải lanh, đang đứng chỗ sân đất, chơi một dạng bóng chuyền gì đó.

Cắc!

Quả bóng lăn trên đất, rồi những người đàn ông đẩy và huých lẫn nhau, cứ để nó lăn. Khi nó dừng lại, một người nhặt nó lên và nói lớn, “Tenez!” rồi hất bóng lên và lấy lòng bàn tay đập vào nó. Quả bóng đập vào rồi nảy lại từ bức tường bên của hành lang bao lấy khoảng sân. Mấy người đàn ông thét lên và đẩy lẫn nhau để chiếm vị trí. Bên dưới những vòm che lối đi, những thầy tu và quý tộc gào thét cổ vũ, những túi tiền cược kêu leng keng trên tay.

Có một thanh ván dài bằng gỗ được gắn trên một bức tường, và mỗi lần quả bóng đập vào thanh ván ấy – kêu lên một tiếng bịch! – lại thêm nhiều tràng hò reo cổ vũ từ những tay cá độ đứng xem.

.

Mất một lúc Marek mới nhận ra thứ anh ta đang nhìn thấy là gì: tiền thân của môn tennis.

Tenez – tiếng quát của người giao bóng, có nghĩa là, “Đón lấy này!” – là một trò mới, được phát minh từ khoảng hai mươi lăm năm trước đó, và nó đã kịp trở thành niềm đam mê của thời đại rồi. Vợt và lưới thì vài thế kỷ nữa mới xuất hiện; còn bây giờ, đây là một dạng bóng chuyền, được tất cả tầng lớp xã hội chơi. Trẻ em chơi trên phố. Trong giới quý tộc, trò chơi thịnh hành đến mức nó làm nở ra một trào lưu xây tu viện mới – những tu viện bị bỏ dở ngay khi những cái sân có hành lang bao quanh được dựng xong. Hoàng tộc còn lo ngại rằng các hoàng tử sẽ sao nhãng việc trui rèn để trở thành hiệp sĩ mà bỏ hàng giờ vào những trận tennis, thường kéo dài tới tận khuya dưới ánh đuốc. Cá cược là chuyện hằng ngày. Vua John đệ nhị của nước Pháp, giờ đang bị cầm tù ở Anh, qua năm tháng, đã phải bỏ một khoản kha khá để trả các món nợ nần liên quan đến tennis của mình. (Vua John được biết đến với cái tên là John Tài Giỏi, nhưng người ta nói là John giỏi gì thì giỏi, chứ chắc chắn không giỏi tennis.)

Marek nói, “Anh có thường chơi ở đây không?”

“Rèn luyện giúp tăng cường sinh lực và giúp tâm trí thêm sắc sảo,” vị thầy tu đáp ngay lập tức. “Chúng tôi chơi trong hai sân ở đây.”

Khi họ đi qua khoảng sân, Marek để ý thấy vài tay cá độ mặc áo chùng màu xanh lá cây, viền đen. Những người đàn ông đó đầy vẻ dạn dày sương gió với cách hành xử như quân trộm cướp.

Rồi họ rời khu hành lang, và đi lên một dãy cầu thang. Marek nói với vị thầy tu, “Có vẻ như là giáo hội rất chào đón người của Arnaut de Cervole.”

“Sự thật là thế,” vị thầy tu nói, “vì họ sẽ giúp chúng tôi và trả cối xay lại cho chúng tôi.”

“Nó bị lấy đi à?” Marek hỏi.

“Có thể nói như vậy.” Vị thầy tu đi về phía ô cửa sổ nhìn xuống dòng Dordogne, cầu cối xay, một phần tư dặm ngược dòng.

“Dùng chính đôi tay mình, những thầy tu của tu viện Sainte-Mère đã xây cối xay, với sự chỉ đạo của kiến trúc sư đáng tôn kính của chúng tôi, đạo hữu Marcel. Marcel rất được kính trọng trong tu viện. Như mọi người cũng biết, thầy ấy là kiến trúc sư cho tu viện trưởng đời trước, Giám mục Laon. Thế là cối xay do thầy ấy thiết kế, và chúng tôi thì xây, là tài sản của tu viện này, và cả lệ phí dùng nó cũng thế.

“Thế nhưng ngài Oliver đòi phải đóng thuế cho ông ta, dù ông ta chẳng có cớ chính đáng nào, trừ việc quân đội của ông ta chiếm đóng vùng này. Vì thế tu viện trưởng của chúng tôi rất hài lòng khi Arnaut thề rằng sẽ trả cối xay cho tu viện, và dỡ bỏ lệnh thuế. Và thế là chúng tôi rất thân thiện với người của Arnaut.”

Chris vừa lắng nghe tất cả những chuyện này vừa nghĩ, Luận văn của mình! Nó chính xác như những nghiên cứu của anh đã chỉ ra. Dù một số người vẫn nghĩ rằng thời Trung Cổ là một quãng thời gian thụt lùi, Chris biết rằng nó thực ra là một thời đại của những tiến bộ kỹ thuật vượt bậc, và theo cách nghĩ đó thì nó chẳng khác thời đại chúng ta là mấy. Trên thực tế, cuộc cách mạng cơ khí hóa công nghiệp vốn là đặc trưng của phương Tây đã diễn ra đầu tiên vào thời Trung Cổ. Nguồn năng lượng dồi dào nhất vào thời kỳ đó – sức nước – đã được phát triển rất mạnh mẽ, và được áp dụng vào rất nhiều việc: không chỉ xay thóc mà còn để làm sạch vải vóc, rèn sắt, ủ bia, làm gỗ, trộn vữa và xi măng, làm giấy, và chạy ống bễ lò rèn để làm thép. Trên khắp châu Âu, ở mỗi con sông lại có hai con đập cách nhau nửa dặm được dựng lên; những thuyền xay được cột dưới chân các cây cầu. Ở vài nơi, trùng điệp những cối xay, cái nọ tiếp nối cái kia, cứ lần lượt thay nhau tận dụng sức nước.

Các cối xay thông thường được vận hành độc quyền, và chúng là nguồn thu nhập chủ yếu – và cũng là nguồn xung đột chủ yếu nữa. Kiện tụng, giết người và chiến tranh là bạn đồng hành thường xuyên của cối xay. Và đây là một ví dụ cho thấy điều đó…

“Nhưng mà,” Marek nói, “tôi thấy là cối xay vẫn đang nằm trong tay cua lãnh chúa Oliver đấy chứ, vì cờ hiệu của ông ta vẫn bay trên tháp và cung thủ của ông ta vẫn trên tường thành đấy thôi.”

“Oliver giữ cầu cối xay,” vị thầy tu nói, “vì cầu gần đường tới La Roque, và bất cứ ai chiếm cối xay cũng sẽ chiếm luôn đường. Nhưng Arnaut sẽ nhanh chóng chiếm được cối xay thôi.”

“Và trả nó lại cho mọi người.”

“Đúng thế.”

“Và tu viện sẽ làm gì để đáp lại cho Arnaut?”

“Chúng tôi sẽ cầu Chúa ban phước cho ông ta, dĩ nhiên là thế rồi,” vị thầy tu nói. Và một lát sau, anh ta thêm, “Và chúng tôi cũng sẽ trả cho ông ta xứng đáng.”

*

Họ đi qua một phòng viết, những thầy tu ngồi thành dãy bên những cái giá viết, lặng lẽ chép lại các bản thảo. Nhưng đối với Marek, tất cả đều trông có vẻ sai khác thế nào đó; thay vì một bầu không khí trầm tư mặc tưởng trong những bài kinh cầu, công việc của họ được đệm bởi tiếng hò la và tiếng đập bóng trong sân. Và bất chấp những điều lệ ngăn cấm tranh minh họa của dòng tu Citeaux cổ, rất nhiều thầy tu đang ngồi vẽ tranh minh họa trên các góc và dọc theo lề các bản thảo. Các họa sĩ ngồi với một khay cọ vẽ và những cái đĩa đá đựng đủ loại màu sắc. Vài bức tranh được trang trí cực kỳ rực rỡ.

“Đường này,” vị thầy tu nói, và đưa họ đi xuống những bậc thang dẫn vào một khoảng sân nhỏ ngập trong nắng. Ở một phía, Marek thấy tám người lính mặc quân phục Arnaut, đang đứng dưới nắng. Anh ta thấy rằng họ vẫn đeo gươm.

Vị thầy tu dẫn họ tới một ngôi nhà nhỏ ở rìa sân, và rồi đi vào một cánh cửa. Họ nghe thấy có tiếng nước chảy tí tách và thấy một đài phun nước bể rất rộng. Họ nghe thấy những lời cầu nguyện, bằng tiếng Latin. Ở giữa phòng, có hai thầy tu mặc áo choàng đang tắm rửa cho một thân thể trắng bệch, trần trụi trên một chiếc bàn.

“Đạo hữu Marcellus,” vị thầy tu thì thầm, nhẹ cúi đầu.

Marek chằm chằm nhìn. Mất một lát anh ta mới nhận ra là mình đang nhìn thấy cái gì.

Đạo hữu Marcel đã chết.

* 14:52:07

Phản ứng của họ đã làm họ bị lộ. Vị thầy tu có thể thấy rõ rằng họ không hề biết rằng Marcel đã chết. Vừa cau mày, anh ta vừa nắm lấy tay Marek và nói, “Sao mấy người lại đến đây?”

“Chúng tôi đã hy vọng được nói chuyện với đạo hữu Marcel.”

“Ông ấy mất tối qua.”

“Ông ấy chết thế nào?” Marek nói.

“Chúng tôi không biết. Nhưng như mọi người có thể thấy, ông ấy cũng có tuổi rồi.”

“Chúng tôi khẩn thiết cần tới ông ấy,” Marek nói, “không biết tôi có được xem đồ dùng của ông ấy không…”

“Ông ấy không có tư trang nào hết.”

“Nhưng chắc chắn là phải có vật dụng cá nhân nào chứ…”

“Ông ấy sống rất thanh bạch.”

Marek nói, “Liệu tôi có được xem qua phòng của ông ấy không?”

“Tôi xin lỗi, không thể được.”

“Nhưng tôi sẽ rất cảm kích nếu…”

“Đạo hữu Marcel sống ở cối xay. Phòng ông ấy ở đó nhiều năm rồi.”

“À.” Cối xay giờ thuộc quyền cai quản của lính Oliver. Họ không thể tới đó được, ít nhất là vào lúc này.

“Nhưng có lẽ tôi có thể giúp gì đó cho anh. Nói tôi nghe, yêu cầu khẩn thiết của anh là gì vậy?” Vị thầy tu hỏi. Anh ta nói một cách bình thản, nhưng Marek đã cảnh giác ngay lập tức.

“Là chuyện riêng ấy mà,” Marek nói “Tôi không nói được.”

“Ở đây chẳng có chuyện gì riêng hết,” vị thầy tu nói. Anh ta tiến ra chỗ cửa. Bản năng mách bảo Marek là anh ta đang định báo động.

“Là một lời nhờ cậy của Học giả Edwardus.”

“Học giả Edwardus!” Thái độ của vị thầy tu thay đổi hoàn toàn. “Sao anh không nói thế từ trước? Và các anh là gì với Học giả Edwardus?”

“Sự thật thì, chúng tôi là trợ lý của thầy ấy.”

“Thật chứ?”

“Thật sự là vậy.”

“Sao mọi người không nói thế từ trước? Học giả Edwardus rất được hoan nghênh ở đây, ông ấy đang giúp ngài tu viện trưởng thì bị người của lãnh chúa Oliver bắt đi.”

“À.”

“Đi với tôi ngay nào,” vị thầy tu nói. “Tu viện trưởng sẽ muốn được gặp mọi người lắm đấy.”

“Nhưng chúng tôi phải…”

“Tu viện trưởng mong lắm đấy. Đi nào!”

*

Quay lại chỗ nắng, Marek để ý thấy giờ có thêm biết bao nhiêu là lính mặc quân phục xanh lá cây viền đen đang tụ tập trên sân tu viện. Và những người lính này không hề thư thái chút nào; họ đầy cảnh giác, lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu.

Nhà của tu viện trưởng khá nhỏ, làm bằng gỗ được chạm trổ tinh xảo, tọa lạc ở một góc xa trong tu viện. Họ được dẫn vào một phòng chờ nhỏ đóng ván gỗ, nơi một thầy tu đứng tuổi, lưng còng và nặng nề như một con cóc, ngồi trước một cánh cửa đóng kín.

“Tu viện trưởng đáng kính có trong đó không vậy?”

“Sự thật là giờ ngài ấy đang lắng nghe một người xưng tội.”

Từ phòng bên cạnh, họ nghe thấy những tiếng cạch cạch đều đặn.

“Ngài ấy định để cô ta cầu nguyện đến bao giờ?” Vị thầy tu hỏi.

“Có thể cũng lâu đấy,” thầy tu trông như con cóc nói. “Cô ta rất hay mắc lỗi. Và lỗi thì cứ thường xuyên lặp đi lặp lại thôi.”

“Tôi mong ngài nói cho tu viện trưởng biết sự hiện diện của những người đáng kính này,” thầy tu nói, “vì họ mang tin của Edwardus de Johnes tới.”

“Cứ yên tâm là ta sẽ nói lại cho,” “con cóc” chán chường nói. Nhưng Marek đã thấy nét nhìn đầy quan tâm ánh lên trong mắt ông lão. Có ý nghĩa gì đó đã được ghi nhận.

“Đã gần tới lần cầu nguyện thứ ba trong ngày rồi,” “con cóc” nói, ngước nhìn mặt trời. “Liệu mấy vị khách đây có định dùng bữa tối thanh đạm với chúng ta không?”

“Rất cảm ơn, nhưng không, chúng tôi sẽ…” Chris húng hắng ho. Kate huých vào lưng Marek. Marek nói, “Chúng tôi rất hân hạnh, nếu không quá phiền.”

“Vì Chúa, mọi người rất được hoan nghênh ở đây.”

Họ đang định rời tới phòng ăn thì một thầy tu trẻ hụt hơi chạy vào phòng. “Lãnh chúa Arnaut đang tới! Ông ấy muốn gặp tu viện trưởng ngay lập tức!

“Con cóc” đứng bật dậy và nói với họ, “Mấy người đi ngay.” Và ông ta mở một cánh cửa phụ ra.

*

Đó là lý do tại sao họ lại đứng trong một căn phòng nhỏ, đơn sơ gần với khu của tu viện trưởng. Tiếng giường cọt kẹt đã ngừng; họ nghe thấy tiếng “con cóc” thì thầm, ông ta đang nói vội gì đó với tu viện trường.

Một lát sau, cánh cửa thứ hai bật mở và một người phụ nữ bước vào, chân trần, đang vội mặc lại quần áo, mặt đỏ bừng. Cô ta cực kỳ đẹp. Khi cô ta quay người lại, Chris bất ngờ nhận ra đó là phu nhân Claire.

Nhìn thấy nét mặt anh, cô ta nói, “Sao anh nhìn thế?”

“Ừm, thưa phu nhân…”

“Thiếu hiệp, vẻ mặt của anh là không công bằng chút nào. Sao anh dám phán xét tôi? Tôi là một nữ quý tộc, đơn độc ở nơi xa lạ, chẳng có ai cứu vớt, bảo vệ, hay dẫn dắt. Nhưng tôi vẫn phải tìm đường tới Bordeaux, xa tới hơn ba trăm ki lô mét, và rồi tới Anh nếu tôi còn muốn đòi đất của chồng mình. Đó là nhiệm vụ của một góa phụ như tôi, và trong thời điểm chiến tranh loạn lạc này, tôi sẽ không ngần ngại làm mọi việc cần thiết để đạt được nó đâu.”

Chris đang nghĩ, ngần ngại chẳng phải một đức tính của người phụ nữ này. Anh bất ngờ trước sự mạnh bạo của cô ta. Mặt khác, Marek đang nhìn cô ta với vẻ ngưỡng mộ lộ rõ. Anh ta nhẹ nhàng nói, “Xin hãy tha thứ cho anh ta, thưa phu nhân, vì anh ta còn trẻ và hay thiếu suy nghĩ thế đấy.”

“Tình thế thay đổi. Tôi cần một lời giới thiệu mà chỉ tu viện trưởng mới cấp được. Tôi thuyết phục được theo cách nào thì tôi cứ làm thế thôi.” Phu nhân Claire giờ đang lò cò trên một chân, cô vừa đi tất vừa giữ thăng bằng. Cô ta kéo căng chiếc tất lên, duỗi thẳng váy, và rồi đội mũ bà xơ lên đầu, buộc nó thật điệu nghệ dưới cằm, để lộ mỗi khuôn mặt.

Chỉ trong chốc lát, cô ta đã trông như một bà xơ Cách xử sự của cô ta nhũn nhặn hơn, giọng nhỏ, nhẹ nhàng hơn.

“Giờ, thật ngẫu nhiên, mọi người đã biết chuyện mà tôi không định để cho ai biết. Trong chuyện này, tính mạng tôi tùy thuộc vào mọi người, và tôi mong mọi người giữ im lặng cho.”

“Được thôi thưa cô,” Marek nói, “vì chuyện của cô chẳng bận gì đến chúng tôi hết.”

“Mọi người cũng sẽ có được sự im lặng của tôi đáp lại,” cô ta nói. “ Vì hiển nhiên là tu viện trưởng không muốn de Cervole biết được sự có mặt của mọi người ở đây. Tất cả chúng ta sẽ cùng giữ bí mật. Tôi có tin được mọi người không?”

“Được, thưa phu nhân,” Marek nói.

“Được, thưa phu nhân,” Chris nói.

“Được, thưa phu nhân,” Kate nói.

Nghe giọng Kate, Claire cau mày nhìn, rồi đi về phía cô. “Nói thật chứ?”

“Vâng, thưa phu nhân,” Kate nói lại.

Claire lướt tay lên ngực Kate, nhận thấy ngực lộ lên dưới lớp băng cuốn. “Cô đã cắt tóc, cô gái,” cô ta nói. “Cô biết đóng giả con trai là bị tội chết chứ?” Cô ta vừa liếc nhìn Chris vừa nói.

“Chúng tôi biết,” Marek nói.

“Cô hẳn phải rất tận tâm với ngài Học giả thì mới từ bỏ giới tính của mình.”

“Thưa phu nhân, đúng là như vậy.”

“Thế thì tôi sẽ cầu nguyện hết mình để mọi người có thể vượt qua mọi chuyện.”

Cánh cửa bật mở, và “con cóc” ra hiệu với họ. “Các quý ngài, xin mời vào. Thưa phu nhân, xin hãy ở đó, ngài tu viện trưởng sẽ mau chóng thực hiện mong ước của cô thôi. Nhưng các ngài – đi với tôi.”

*

Bên ngoài sân, Chris tựa vào Marek, thì thầm, “André. Người phụ nữ đó là thuốc độc đấy.”

Marek mỉm cười. “Tôi đồng ý là cô ấy có nét hấp dẫn…”

“André. Tôi nói thật đấy. Anh không thể tin bất cứ điều gì cô ta nói được.”

“Thế à? Tôi nghĩ cô ấy khá thẳng thắn đấy chứ,” Marek nói. “Cô ấy muốn có chỗ dựa. Và cô ấy nói đúng.”

Chris nhìn trân trân. “Chỗ dựa?”

“Đúng. Cô ấy muốn có một người bảo trợ,” Marek trầm ngâm nói.

“Người bảo trợ? Anh đang nói gì thế? Chúng ta chỉ có… còn bao nhiêu tiếng nữa?”

Marek nhìn vào sợi dây trên cổ tay. “Mười một tiếng mười phút.”

“Thế anh đang nói gì thế, một người bảo trợ là sao?”

“Ồ. Chỉ nghĩ chút thôi,” Marek nói. Anh ta quàng tay qua vai Chris. “Không quan trọng.