← Quay lại trang sách

11:01:59

Họ ngồi bên một chiếc bàn dài cùng với rất nhiều thầy tu trong một căn phòng lớn, một bát xúp thịt nghi ngút khói đặt trước mặt, và ở chính giữa bàn, những chiếc khay đầy ngất rau, thịt bò và gà trống thiến rán. Và chẳng ai cử động hết, tất cả đều cúi đầu cầu nguyện, các thầy tu lầm rầm.

Pater noster qui es in coelis

Sanctivicetur nomen tuum

Adveniat regnum tuum

Fiat voluntas tua31

Kate cứ liếc nhìn chỗ thức ăn. Những con gà trống thiến đang bốc khói! Chúng trông thật béo tốt, và nước mỡ vàng óng chảy tràn lên mấy chiếc đĩa. Rồi cô nhận thấy mấy thầy tu ngồi gần dường như rất băn khoăn trước sự im lặng của mình. Lẽ ra cô phải biết bài kinh cầu này chứ.

Bên cạnh cô, Marek đang lầm rầm rõ to.

Panem nostrum quotidianum

Da nobie hodie

Et dimmitte nobis debita nostra32

Cô không hiểu tiếng Latin, nên không thể khấn cùng với họ được, thế là cô cứ im lặng cho tới câu “ Amen” kết thúc bài.

Tất cả các thầy tu đều ngước nhìn lên, gật đầu với cô. Cô căng người ra, cô đã rất sợ giây phút này. Vì họ sẽ nói chuyện với cô, và cô thì chẳng thể đáp lại được. Cô sẽ phải làm gì chứ?

Cô nhìn Marek, anh ta trông có vẻ hoàn toàn thoải mái. Dĩ nhiên phải thế rồi; anh ta nói được ngôn ngữ ấy mà.

Một vị thầy tu chuyền cho cô một khay thịt bò, chẳng nói gì hết. Thực ra thì, cả phòng đều im lặng. Thức ăn cứ được luân chuyển mà không ai nói một lời nào; chẳng có âm thanh nào ngoại trừ tiếng leng keng nhẹ của đĩa và dao. Họ ăn trong yên lặng!

Cô đỡ lấy chiếc khay, gật đầu, lấy cho mình một phần lớn, rồi một phần khác nữa, cho tới khi cô bắt gặp ánh nhìn không đồng ý của Marek. Cô đưa chiếc khay cho anh ta.

Từ trong góc phòng, một thầy tu bắt đầu đọc một bài kinh bằng tiếng Latin, những từ ngữ cứ nhịp nhàng chảy vào tai cô, trong khi cô thì cứ ăn ngấu nghiến thôi. Cô đang chết đói! Cô không thể nhớ là mình đã từng ăn bữa nào ngon hơn bữa này nữa. Cô liếc nhìn Marek, đang vừa ăn vừa nhẹ mỉm cười. Cô chuyển sang món xúp, thật ngon, và một lát sau, cô liếc về chỗ Marek.

Anh ta không còn cười nữa.

*

Marek từ nãy đã luôn cảnh giác nhìn các cửa vào. Có ba cửa vào căn phòng dài hình chữ nhật này: một bên phải anh ta, một bên trái, và một ngay đối diện họ, ở chính giữa phòng.

Chỉ vài giây trước, anh ta đã thấy một nhóm lính mặc đồ màu xanh lá cây và đen đang tụ tập ở cửa vào phía bên phải. Họ ngó vào, như thể rất thích thú với mấy món ăn, nhưng vẫn đứng bên ngoài.

Giờ anh ta thấy nhóm lính thứ hai, đứng ở cửa ra ngay phía trước. Kate nhìn anh ta, và anh ta tựa sát vào tai cô để thì thầm, “Cửa trái.” Những thầy tu xung quanh bắn những ánh nhìn không đồng ý về phía họ. Kate nhìn Marek và nhẹ gật đầu, ám chỉ là cô đã hiểu.

Cửa bên trái dẫn tới đâu? Chẳng có người lính nào ở cánh cửa đó hết, và căn phòng bên trong rất tối. Dù nó có dẫn tới đâu đi nữa, họ cũng sẽ phải mạo hiểm. Anh ta bắt gặp ánh nhìn của Chris và giật nhẹ ngón tay cái: đến lúc đứng dậy rồi.

Chris gật đầu rất nhẹ để không ai biết. Marek vừa đẩy bát xúp của mình ra và chuẩn bị đứng dậy, thì một thầy tu bận áo thụng trắng đi về phía anh ta, cúi sát lại và thì thầm, “Tu viện trưởng muốn gặp các anh bây giờ.”

*

Tu viện trưởng của Sainte-Mère là một người đàn ông tràn trề sinh lực ngoài ba mươi tuổi, với cơ thể của một vận động viên và cặp mắt sắc sảo của một thương gia. Chiếc áo chùng đen của ông ta được thêu rất tao nhã, chiếc dây chuyền nặng trịch bằng vàng, và bàn tay ông ta chìa ra để được hôn lên đầy nhẫn trên cả bốn ngón. Ông ta gặp họ trong cái sân đầy nắng và rồi đi cạnh Marek, trong khi Chris và Kate theo sau. Lính mặc đồ xanh và đen có ở khắp nơi. Phong thái của tu viện trưởng rất vui vẻ, nhưng ông ta có thói quen đột ngột thay đổi chủ đề, như thể muốn làm người nghe mất cảnh giác.

“Ta thực sự rất thương cảm cho những người lính này,” tu viện trưởng nói, “nhưng ta sợ là có vài kẻ đột nhập vào tu viện – lính của Oliver – và cho tới khi mọi người ở đây tìm ra chúng, cẩn thận vẫn hơn. Và ngài Arnaut đã rất hào phóng giúp bảo vệ nơi này. Mọi người ăn ngon chứ?”

“Nhờ lòng thương của Chúa và của ngài, rất ngon, thưa tu viện trượng.”

Tu viện trưởng cười một cách thỏa mãn. “Ta ghét tán dương,” ông ta nói. “Và hội thánh đây nghiêm cấm điều đó.”

“Tôi sẽ để ý hơn,” Marek nói,

Tu viện trưởng nhìn về phía mấy người lính và thở dài, “Quá nhiều lính làm hỏng trò chơi rồi.”

“Trò chơi gì vậy?”

“Trò chơi, trò chơi ấy,” ông ta nói một cách mất bình tĩnh. “Sáng hôm qua chúng ta đi săn và chẳng thu được cái gì hết, chẳng có lấy một miếng thịt hươu để khoe. Và người của Cervole vẫn chưa đến. Giờ họ ở hết cả đây – hai nghìn người. Con thú nào chưa bị họ săn thì cũng sợ chạy mất. Phải mất hàng tháng nữa thì khu rừng mới lại bình thường trở lại. Tin gì của Học giả Edwardus thế? Nói ta nghe đi, vì ta đau đáu cần nghe đây.”

Marek cau mày. Tu viện trưởng thực sự có vẻ căng thẳng, rất muốn được nghe. Nhưng ông ta dường như muốn có một thông tin cụ thể nào đó.

“Thưa tu viện trưởng, thầy ấy giờ đang ở La Roque.”

“Ồ! Với lãnh chúa Oliver?”

“Vâng, thưa tu viện trưởng.”

“Thật đáng tiếc. Ông ấy có dặn anh chuyển lời gì cho ta không?” Ông ta chắc chắn đã thấy vẻ mặt bối rối của Marek. “Không?”

“Thưa tu viện trưởng, Edwardus không căn dặn tôi gì hết.”

“Có lẽ là mật mã chăng? Vài câu nhỏ nhặt hay bí ẩn gì đó?”

“Tôi rất lấy làm tiếc,” Marek nói.

“Không tiếc bằng ta đâu. Và giờ ông ấy đang ở La Roque à?”

“Đúng thế, thưa tu viện trưởng.”

“Sự thật là ta chẳng muốn thế chút nào,” tu viện trưởng nói. “Vì ta nghĩ không thể chiếm La Roque được.”

“Nhưng nếu có một lối đi bí mật vào bên trong…” Marek nói.

“Ô, lối đi bí mật, lối đi bí mật,” tu viện trưởng nói, phẩy tay. “Nó sẽ là thứ hủy hoại ta. Đó là tất cả những gì ta được nghe nói. Mọi người đều muốn biết cái lối ấy – và Arnaut thì muốn hơn tất cả những người khác. Vị học giả đang trợ giúp ta, tìm kiếm trong các tài liệu cổ của Marcellus. Anh có chắc là ông ấy không nói gì với mình không?”

“Thầy ấy nói là chúng tôi phải đi tìm đạo hữu Marcel.”

Tu viện trưởng khịt mũi. “Thật ra, đường hầm bí mật này là sản phẩm của trợ lý và thư ký của Laon, là đạo hữu Marcel đấy. Nhưng trong mấy năm gần đây, Marcel già cả đã không còn minh mẫn nữa. Đó là lý do tại sao chúng ta lại để ông ta sống tại cối xay. Suốt cả ngày, ông ta cứ lẩm bẩm và thì thầm một mình, và rồi đột ngột ông ta gào lên rằng mình nhìn thấy các linh hồn và ác quỷ, và mắt ông ta đảo tròng, và chân tay thì cứ giật đùng đùng, tới tận khi những ảo giác đó biến mất.” Tu viện trưởng lắc đầu. “Những thầy tu khác rất kính trọng ông ta, xem những ảo giác của ông ta như một dạng biểu hiện lòng thương của Chúa, chứ không phải là dấu hiệu của bệnh tâm thần, trong khi sự thật nó là thế. Nhưng tại sao ngài Học giả lại bảo anh đi tìm ông ta?”

“Ngài Học giả nói là ông ấy có chìa khóa.”

“Một cái chìa khóa?” tu viện trưởng nói. “Một cái chìa khóa?” ông ta có vẻ rất khó chịu. “Dĩ nhiên là ông ta có chìa khóa, ông ta có nhiều chìa khóa lắm, và tất cả chúng đều ở cối xay ấy, nhưng chúng ta không thể…” Ông ta loạng choạng đổ về phía trước, rồi nhìn chằm chằm vào Marek với vẻ mặt sửng sốt.

Trên sân, mọi người đang gào thét, chỉ tay lên trời.

Marek nói, “Tu viện trưởng…”

Tu viện trưởng thổ ra máu và đổ gục trên tay Marek. Marek đỡ ông ta xuống đất. Anh ta cảm thấy mũi tên trên lưng tu viện trưởng trước cả khi nhìn thấy nó. Thêm nhiều tên nữa xé gió phóng đến và cắm xuống đất, rung lên trong lớp cỏ bên cạnh họ.

Marek ngước nhìn lên và thấy những bóng áo đỏ nâu trên tháp chuông nhà thờ, đang bắn cung tới tấp. Một mũi tên bóc toạc mũ của Marek khỏi đầu; một mũi khác xé rách tay áo anh ta ra. Một mũi khác ngập sâu vào vai tu viện trưởng.

Mũi tiếp theo cắm vào đùi Marek. Cơn đau buốt xuyên suốt cẳng chân, và anh ta mất thăng bằng, ngã ngửa ra đất. Anh ta cố đứng dậy, nhưng bị choáng và không còn chút thăng bằng nào nữa. Anh ta lại ngã xuống trong lúc hàng loạt mũi tên cứ vun vút đâm xuống xung quanh.

*

Ở phía bên kia sân, Chris và Kate đang cố tìm chỗ trú giữa làn mưa tên. Kate thét lên và loạng choạng ngã xuống đất, một mũi tên cắm vào lưng cô. Rồi cô bò dậy, và Chris thấy là nó chỉ xé chỗ tay áo chứ chưa chạm vào người cô. Một mũi tên sượt qua chân anh, làm rách chiếc quần tất. Rồi cũng tới được lối đi được che chắn, họ đổ sụp xuống sau một trong những mái vòm, hổn hển thở lấy hơi. Tên đâm vào những bức tường đá và cắm vào những mái vòm đá phía trên đầu họ. Chris nói, “Cô ổn chứ?”

Cô gật đầu, thở hổn hển. “Marek đâu?”

Chris đứng dậy, cảnh giác ngó quanh cột trụ. “Ôi, không,” anh nói. Và anh chạy ngay xuống hành lang.

*

Marek loạng choạng đứng dậy, thấy tu viện trưởng vẫn còn sống. “Thứ lỗi cho tôi,” anh ta nói rồi xốc tu viện trưởng lên vai và đưa ông ta vào trong góc. Lính trên sân bắn cung đáp trả về phía tháp chuông. Giờ tên rơi xuống chỗ họ đã ít đi.

Marek đưa tu viện trưởng về lại phía sau khu mái vòm và đặt ông ta nằm xuống đất. Tu viện trưởng nhổ tên ra khỏi vai mình và ném nó sang một bên. Nỗ lực đó đã làm ông ta thở dốc. “Lưng tôi… lưng…”

Marek nhẹ nhàng xoay người ông ta lại. Mũi tên cắm trên lưng rung lên sau mỗi nhịp tim. “Thưa ngài, ngài có muốn tôi rút nó ra không?”

“Không.” Tu viện trưởng tuyệt vọng quàng tay qua cổ Marek, kéo anh ta lại gần. “Chưa đâu… thầy tu… thầy tu…” Mắt ông ta xếch lên. Một thầy tu đang chạy tới chỗ họ.

“Ông ta đã đến rồi đây, thưa tu viện trưởng.”

Tu viện trưởng có vẻ nhẹ người khi nghe thấy thế, nhưng ông ta vẫn giữ chặt lấy Marek. Giọng ông ta trầm xuống, gần như chỉ là một tiếng thì thầm. “Chìa khóa tới La Roque…”

“Gì, thưa ngài?”

“… phòng…”

Marek đợi. “Phòng nào, thưa ngài? Phòng nào?”

“Arnaut…” tu viện trưởng nói, lắc đầu như thể muốn xua nó đi. “Arnaut sẽ rất tức giận… phòng…” Và ông ta thả tay ra. Marek rút mũi tên ra khỏi vai ông ta và giúp ông nằm xuống nền đất. “Lúc nào cũng vậy, ông ta sẽ… bắt… không nói cho ai… để… Arnaut…” Mắt ông ta nhắm nghiền.

Vị thầy tu chen vào giữa họ, nói vội bằng tiếng Latin, tháo giày của tu viện hưởng ra, đặt một chai dầu lên đất. Ông ta bắt đầu thực hiện nghi thức tiễn đưa.

*

Tựa vào một trong những bức tường trên hành lang, Marek nhổ mũi tên ra khỏi đùi mình. Nó chỉ đâm sượt vào anh ta thôi, và không sâu như anh ta đã tưởng; chỉ có hai phân máu trên mũi tên. Anh ta vừa thả mũi tên xuống đất thì Chris và Kate xuất hiện.

Họ nhìn chân anh ta, rồi nhìn mũi tên. Anh ta đang chảy máu. Kate kéo chiếc áo chẽn của mình lên và lấy con dao găm rạch một mảnh vải lanh dưới lần áo lót ra. Cô buộc nó quanh đùi Marek để làm băng sơ cứu tạm thời.

Marek nói, “Không tệ thế đâu.”

“Thì cũng chẳng mất gì nếu băng nó vào đâu,” cô nói. “Anh còn đi được chứ?”

“Dĩ nhiên là tôi đi được,” Marek nói.

“Anh xanh lắm.”

“Tôi ổn mà,” anh ta nói, và đi khỏi chỗ cái cột, nhìn ra sân.

Bốn người lính nằm trên đất, khắp nơi chi chít những tên. Những người lính khác đã đi mất; chẳng còn ai bắn lên tháp chuông nữa; khói cuộn lên từ trên những ô cửa sổ cao ngất, ở phía đối diện sân, họ thấy thêm nhiều khói nữa, dày đặc và đen thẫm, đến từ khu nhà ăn. Cả tu viện sắp sửa bốc cháy.

“Chúng ta phải đi tìm cái chìa khóa ấy,” Marek nói.

“Nhưng nó ở trong phòng ông ta.”

“Tôi không chắc về việc đó lắm đâu.” Marek nhớ rằng một trong những điều cuối cùng mà Elsie, chuyên gia về văn tự, đã nói với anh ta khi còn ở khu khảo cổ có liên quan gì đó đến một chiếc chìa khóa. Và từ nào đó mà cô thấy băn khoăn. Anh ta không thể nhớ được chi tiết – anh ta lúc ấy còn đang lo cho Giáo sư – nhưng cũng nhớ rõ ràng rằng Elsie đã nhìn vào một tờ giấy da từ cái đống được tìm thấy trong tu viện. Cùng cái chồng có lời nhắn của Giáo sư ấy.

Và Marek biết phải đi tìm cái chồng giấy ấy ở đâu.

*

Họ chạy vội xuống hành lang dẫn tới nhà thờ. Vài bức tường kính màu đã bị vỡ, và khói cứ ùn ùn bốc ra. Từ bên trong, họ nghe thấy tiếng đàn ông la hét, và vài giây sau một toán lính phá cửa xông vào. Marek xoay gót, dẫn họ quay trở lại chỗ vừa đi qua.

“Chúng ta đang làm gì đây?” Chris nói.

“Tìm cái cửa.”

“Cửa nào?”

Marek vụt sang trái, dọc theo một hành lang có mái che, và rồi lại sang trái nữa, đi qua một chỗ hẹp dẫn họ vào một khoảng không chật chội, một kiểu nhà kho. Nó được thắp sáng bằng một ngọn đuốc. Có một cái cửa bí mật bằng gỗ trên nền nhà; anh ta mở tung nó ra, và họ thấy những bậc thang dẫn vào trong bóng tối. Anh ta vơ lấy cây đuốc, tất cả họ cùng nhau đi xuống. Chris đi cuối, đóng cánh cửa bí mật lại. Anh ta bước xuống những bậc thang dẫn vào một căn hầm tối tăm, ẩm ướt.

*

Cây đuốc nhập nhoạng trong luồng không khí mát lạnh. Dưới ánh sáng lập lòe của nó, họ thấy có những chiếc thùng lớn, đường kính tới hai mét, chạy dọc theo bức tường. Họ đang ở trong một hầm rượu.

“Hai người cũng biết là bọn lính chẳng mấy mà sẽ tìm ra chỗ này thôi,” Marek nói. Anh ta dẫn họ đi qua vài căn phòng để thùng rượu mà không chút dọ dự.

Vừa đi theo anh ta, Kate vừa nói, “Anh có biết mình đang đi đâu không?”

“Cô không biết sao?” anh ta nói.

Nhưng cô không biết; cô và Chris đi sát đằng sau Marek, muốn được ở trong vòng sáng ấm áp của ngọn đuốc. Giờ họ đang đi qua những ngôi mộ, những chỗ lõm vào trên tường để đặt xác, những tấm vải liệm đã nát hết cả. Thỉnh thoảng họ thấy phần trên của mấy cái sọ người, với chút ít tóc còn sót lại; thỉnh thoảng lại thấy những bàn chân mà xương đã hơi lộ ra. Họ nghe thấy những tiếng chít chít đâu đó của mấy con chuột chạy trong bóng tối.

Kate rùng mình.

Marek tiếp tục tiến lên, rồi đột ngột dừng lại trước một căn phòng gần như trống trơn.

“Sao chúng ta lại dừng lại?” cô hỏi.

“Cô không biết sao?” Marek nói.

Cô nhìn quanh, rồi nhận ra rằng mình đang ở trong chính căn phòng cô đã bò vào vài hôm trước. Cùng cỗ quan tài đá của vị hiệp sĩ đó, giờ có thêm cái nắp. Dọc theo bức tường khác là một chiếc bàn gỗ sần sùi, trên đó những chồng giấy dầu được xếp và những đống bản thảo được buộc dây gọn ghẽ. Ở một góc là bức tường đá thấp, trên chỉ có một chồng giấy duy nhất – và ánh sáng của cặp mắt kính của Giáo sư.

“Thầy ấy chắc mới để mất nó tối qua thôi,” Kate nói. “Bọn lính chắc đã bắt thầy ấy đi từ dưới này.”

“Có thể.” Cô nhìn Marek lục qua đống giấy tờ, từng tờ từng tờ một. Anh ta nhanh chóng tìm thấy lời nhắn của Giáo sư, rồi quay trở lại với mấy tờ giấy trước đó.

Anh ta cau mày, nheo mắt nhìn nó dưới ánh ngọn đuốc.

“Là gì thế?” cô nói.

“Đó là một bài viết,” anh ta nói. “Về một dòng sông ngầm và… nó đây này.” Anh ta chỉ tay về phần lề bản thảo, một dòng chú thích bằng tiếng Latin được viết nguệch ngoạc lên.

“Nó nói là, ‘Marcel giữ chìa khóa,’ ” Anh ta chỉ ngón tay vào. “Và rồi nó nói gì đó về, ừm, một cánh cửa hay lối vào, và những bàn chân lớn.”

“Những bàn chân lớn?”

“Đợi chút,” anh ta nói. “Không, không phải thế.” Điều Elsie đã nói giờ lại hiện lên trong đầu anh ta. “Nó nói là, ‘Bàn chân của người khổng lồ.’ Đôi bàn chân của một người khổng lồ.”

“Đôi bàn chân của một người khổng lồ,” cô nói, nhìn anh ta với vẻ nghi ngại. “Anh có chắc là mình hiểu đúng không đấy?”

“Nó nói thế mà.”

“Và đó là gì?” cô nói. Phía dưới ngón tay của anh ta là hai từ đơn, từ này được viết trên từ kia.

DESIDE

VIVIX

“Tôi nhớ rồi,” Marek nói: “Elsie đã nói rằng đây là từ mới với cô ấy, vivix. Nhưng cô ấy chẳng nói gì về deside hết. Và nó chẳng có vẻ gì là tiếng Latin với tôi cả. Nó cũng chẳng phải tiếng Occitan, hay tiếng Pháp cổ nữa.”

Dùng con dao găm, anh ta cắt một góc tấm giấy da ra, rồi viết vội hai từ đó lên, cuộn nó lại, và cho vào trong túi áo.

“Nhưng nó nghĩa là gì?” Kate nói.

Marek lắc đầu. “Chẳng biết nữa.”

“Nó được thêm vào chỗ lề,” cô nói. “Có lẽ nó chẳng có nghĩa gì hết. Có lẽ chỉ là viết linh tinh gì đó, hay một lời chú thích, đại loại thế.”

“Tôi ngờ là không phải vậy.”

“Hồi này chắc người ta cũng hay viết mấy chữ không có nghĩa mà.”

“Tôi biết, nhưng nó chẳng có vẻ gì là một chữ không có nghĩa hết, Kate. Đây là một chú thích rất nghiêm túc đấy.” Anh ta quay lại chỗ tờ giấy, lướt những ngón tay lên mặt giấy. “Được rồi. Được rồi… Nó nói ở đây là Transitus occultus incipit… đoạn đường hầm bắt đầu… propread capellam viridem, sive capellam mortis – ở nhà nguyện xanh, còn được gọi là nhà nguyện chết – và…”

“Nhà nguyện xanh?” cô hỏi với một giọng khá kỳ cục.

Marek gật đầu. “Đúng thế. Nhưng nó chẳng nói nhà nguyện nằm ở đâu hết.” Anh ta thở dài. “Nếu đường hầm bí mật thực sự có dẫn ra mấy cái động đá vôi, thì nó có thể ở bất cứ chỗ nào.”

“Không, André,” cô nói. “Không phải đâu.”

“Cô nói thế là sao?”

“Tôi muốn nói là,” cô nói, “tôi biết nhà nguyện xanh ở đâu.”

*

Kate nói, “Nó được đánh dấu trên bản đồ điều tra cho dự án Dordogne – nó là một phế tích, ở ngay ngoài khu dự án ấy. Tôi nhớ là mình đã băn khoăn thế nào khi nó không được đặt cả vào trong dự án, vì nó ở gần lắm. Trên bản đồ, nó được đánh dấu là ‘chapelle verte morte’ và tôi đã nghĩ nó có nghĩa là ‘nhà nguyện của cái chết xanh.’ Tôi nhớ, vì nó cứ như là được lấy từ Edgar Allan Poe33 ra vậy.”

“Cô có nhớ chính xác là nó nằm ở đâu không?”

“Không chính xác lắm, chỉ nhớ nó ở trong rừng cách Bắc Bezenac khoảng một cây số.”

“Thế thì có thể được đấy,” Marek nói. “Một đường hầm dài một cây số là hoàn toàn có thể.”

Từ phía sau, họ nghe thấy tiếng lính đang lần xuống hầm.

“Đến lúc đi rồi.”

Anh ta dẫn họ đi sang trái, vào một dãy hành lang có cầu thang. Khi Kate nhìn thấy nó trước đây, nó chỉ là một ụ đất lớn. Giờ nó chạy thẳng lên một cánh cửa bí mật khác.

Marek trèo lên cầu thang, huých vai vào cửa. Nó mở ra một cách dễ dàng. Họ nhìn thấy bầu trời màu xám, và khói.

Marke đi qua, tất cả họ đi theo sau.

*

Họ trồi lên giữa một vườn cây ăn quả, nơi cây cối xếp thành những hàng ngay ngắn, lá xuân xanh tươi rực rỡ. Họ chạy thẳng qua mấy cái cây, rồi đến chỗ bức tường bao quanh tu viện. Nó cao tới hơn bốn mét, không trèo lên được. Nhưng họ leo lên cây, rồi lần ra chỗ bức tường, nhảy vào bên trong. Ngay phía trước, họ thấy một khu rừng rậm rạp, chưa được phát quang. Họ chạy về phía nó, để một lần nữa lại bước vào vòm lá tối tăm.