09:57:02
Trong phòng thí nghiệm của công ty ITC, David Stern bước ra khỏi khu vực đặt cỗ máy nguyên mẫu. Anh ta nhìn vào đống thiết bị điện tử bị dán lại với nhau mà mình đã lắp ráp và thử nghiệm suốt năm tiếng vừa rồi.
“Là thế đấy,” anh ta nói. “Tôi sẽ gửi cho họ một lời nhắn.”
Giờ trong phòng thí nghiệm đã tối rồi; những ô cửa kính đã tối sầm lại. Anh ta nói, “Ở đó giờ là mấy giờ vậy?”
Gordon đếm ngón tay. “Họ đến khoảng lúc tám giờ sáng. Đã qua hai mươi bảy giờ rồi. Thế nên giờ là mười một giờ sáng, ngày hôm sau.”
“Được rồi. Chắc sẽ phải được thôi.”
Stern đã chế tạo được thiết bị liên lạc điện tử này, mặc kệ hai lập luận mạnh mẽ của Gordon cho rằng việc như vậy là không thể thực hiện được. Gordon nói rằng anh không thể gửi lời nhắn về lại đó được vì anh không biết là cỗ máy sẽ hạ cánh xuống đâu. Theo thống kê, tỷ lệ cao là cỗ máy sẽ hạ cánh xuống nơi không có đội khảo cổ. Thế nên họ chẳng bao giờ thấy được lời nhắn hết. Vấn đề thứ hai là anh chẳng biết được là họ có nhận được lời nhắn đó hay không.
Nhưng Stern đã giải quyết cả hai trở ngại đó một cách cực kỳ đơn giản. Hệ thống của anh ta gồm có một cái tai nghe truyền/nhận, cùng loại với cái đội du hành dùng, và hai băng ghi âm nhỏ. Cuộn băng ghi âm đầu tiên truyền tin nhắn. Cuộn thứ hai ghi lại xem có bất cứ tin nhắn nào được truyền tới cái tai nhận không. Cả hệ thống là, như Gordon đã đặt tên cho nó một cách đầy tự hào, một cái máy trả lời đa vũ trụ.
Stern ghi lại một tin nhắn nói rằng, “David đây. Mọi người đã đi được hai mươi bảy tiếng rồi. Đừng cố quay lại cho tới khi đã được đủ ba mươi hai tiếng. Rồi đến lúc đó, chúng tôi sẽ chuẩn bị sẵn sàng cho mọi người. Trong khi đó thì hãy báo cho chúng tôi biết là liệu mọi người có ổn không. Chỉ cần nói và nó sẽ được ghi lại ngay. Giờ thì tạm biệt. Hẹn sớm gặp lại.”
Stern nghe lại lời nhắn lần cuối cùng, rồi nói, “Được rồi, gửi nó đi nào.”
Gordon ấn mấy cái nút trên bảng điều khiển. Cỗ máy bắt đầu kêu rì rì và rồi lại chìm trong luồng ánh sáng xanh da trời.
*Hàng tiếng trước, khi mới bắt đầu với cái máy truyền tin này, mối quan tâm duy nhất của Stern là các bạn mình ở đó có thể không biết rằng họ chưa thể quay về được. Vì thế, anh ta tưởng tượng ra rằng họ bị mắc vào một tình thế khó khăn, có thể bị tấn công từ mọi hướng, và gọi cỗ máy vào phút cuối cùng, nghĩ rằng họ có thể về nhà, ngay lập tức. Thế là Stern nghĩ họ cần được cảnh báo rằng, hiện tại thì họ không thể trở lại được.
Đó là mối lo ban đầu của anh ta. Nhưng giờ có mối lo thứ hai, một mối lo thậm chí còn lớn hơn nhiều. Không khí trong hang đã được khử sạch độc khoảng mười sáu tiếng rồi. Các đội công nhân đã vào trong, xây lại phòng dịch chuyển. Phòng điều khiển đã được giám sát liên tục hàng tiếng đồng hồ rồi.
Thế mà chẳng có bất cứ một hiện tượng nhảy trường nào.
Có nghĩa là chẳng có nỗ lực quay lại nào hết. Và dĩ nhiên, chẳng ai nói thẳng ra điều đó, Gordon lại càng không – nhưng anh có cảm giác rằng những người ở ITC đều nghĩ là nếu đi hai mươi tư tiếng mà chẳng có một lần nhảy trường nào thì rõ ràng là một dấu hiệu xấu. Anh ta cảm thấy phần đông người trong ITC đều nghĩ rằng đội du hành đã chết hết rồi.
Thế nên Stern quan tâm đến việc liệu tin nhắn có được nhận hay không nhiều hơn việc nó có được gửi đi hay không. Vì đó sẽ là bằng chứng cho thấy rằng đội du hành vẫn còn sống.
Stern đã lắp một cái ăng ten vào cỗ máy, và làm một thiết bị có bánh răng giúp cái ăng ten có thể quay được các góc khác nhau và có thể lặp lại tin nhắn phát đi được ba lần liền. Thế nên sẽ có ba cơ hội cho nhóm kia đáp lại. Sau đó, toàn bộ cỗ máy sẽ quay lại thời hiện tại, y như lúc họ dùng chiếc camera kia.
“Chúng ta làm nào,” Gordon nói.
Trong những luồng ánh sáng nhấp nháy, cỗ máy bắt đầu thu nhỏ lại trên nền nhà.
*Lần chờ đợi này chẳng thoải mái chút nào. Mười phút sau, cỗ máy đã quay trở lại. Hơi nước lạnh lẽo suỵt suỵt lan khắp phòng khi Stern tháo chỗ dụng cụ điện tử của mình, xé tung đám băng dính, và bắt đầu cho chạy.
Đoạn băng vừa gửi đi được bật lên.
Chẳng có lời đáp lại nào hết.
Đoạn băng vừa gửi đi lại vang lên lần nữa.
Lại lần nữa, chẳng có lời đáp nào hết. Có tiếng lạo xạo, nhưng chẳng có gì khác nữa cả.
Gordon nhìn chằm chằm vào Stern, mặt vô cảm. Stern nói, “Có rất nhiều cách giải thích…”
“Dĩ nhiên là có thôi, David.”
Đoạn băng gửi đi lại vang lên lần nữa.
Stern nín thở.
Thêm nhiều tiếng lạo xạo nữa, và rồi, trong sự yên lặng hoàn toàn của phòng thí nghiệm, anh ta nghe tiếng Kate nói, “Mấy người có nghe thấy gì không?”
Marek: “Cô nói gì thế?”
Chris: “Chúa ơi, Kate, tắt tai nghe đi ngay.”
Kate: “Nhưng mà…”
Marek: “Tắt đi.”
Thêm nhiều tiếng nhiễu. Không có giọng nói nào nữa.
Nhưng cái cần đạt được đã đạt được.
“Họ còn sống,” Stern nói.
“Rõ ràng rồi,” Gordon nói. “Hãy đi xem những người ở phòng dịch chuyển đang làm gì nào.”
*Doniger đang đi quanh văn phòng, lẩm nhẩm bài diễn thuyết, vung tay, xoay người. Gã nổi danh là một nhà diễn thuyết rất có sức thuyết phục, thậm chí còn được coi là có tư chất nữa, nhưng Kramer biết rằng không phải cứ tự nhiên mà được thế. Đúng hơn, đó là kết quả của một quá trình chuẩn bị lâu dài, các cử chỉ, các bước đi, các câu nói. Doniger chẳng làm liều bao giờ.
Có một dạo, Kramer đã rất kinh ngạc trước thái độ này: những bài diễn tập vô tận, điên cuồng trước bất cứ một lần xuất hiện trước công chúng nào có vẻ khá kỳ cục ở một người đàn ông mà, trong hầu hết các trường hợp, chẳng thèm quan tâm chút nào đến ấn tượng tạo ra với người khác. Cuối cùng, cô cũng nhận ra rằng Doniger thích nói chuyện trước đám đông vì nó có ảnh hưởng cực lớn lên người khác. Gã có niềm tin chắc chắn rằng mình thông minh hơn hết thảy, và một bài diễn văn đầy sức thuyết phục – “Chúng sẽ chẳng biết thứ gì đã đánh mình” – là một cách để chứng tỏ điều đó.
Giờ Doniger đang đi đi lại lại, lấy Kramer làm thính giả duy nhất. “Tất cả chúng ta đều bị quá khứ điều khiển, dù chẳng ai hiểu điều đó hết. Chẳng ai nhận ra sức mạnh của quá khứ cả,” gã nói, phẩy tay một cái.
“Nhưng nếu mọi người nghĩ kỹ một chút, quá khứ luôn luôn quan trọng hơn hiện tại. Hiện tại chỉ như một đảo san hô nổi trên mặt nước, nhưng nó được xây lên trên hàng triệu tảng san hô chết nằm dưới mặt nước, chẳng ai thấy chúng hết. Cũng y như thế, thế giới thường nhật của chúng ta được dựng trên hàng triệu triệu những sự kiện và quyết định đã xảy ra trong quá khứ. Và những gì chúng ta thêm vào hiện tại thì chỉ là nhỏ nhặt mà thôi.
“Một cậu thiếu niên ăn sáng, rồi đi ra cửa hàng mua chiếc đĩa CD mới nhất của một ban nhạc mới nổi. Cậu bé nghĩ rằng mình đang sống trong thời điểm hiện đại. Nhưng ai đã định nghĩa thế nào là một ‘ban nhạc’? Ai đã định nghĩa thế nào là một ‘cửa hiệu’? Ai đã định nghĩa ‘cậu thiếu niên’? Hay ‘bữa sáng’? Chẳng nói gì đến những thứ còn lại, toàn bộ thể chế xã hội của cậu bé kia – gia đình, trường học, quần áo, các phương tiện vận chuyển và chính phủ.
“Chẳng điều gì trong số những thứ này được định nghĩa ở hiện tại hết. Hầu hết chúng đều được định nghĩa từ hàng trăm năm về trước rồi. Năm trăm năm, một nghìn năm. Cậu bé này đang ngồi trên đỉnh một ngọn núi tên gọi là quá khứ. Và cậu chẳng hề nhận ra điều đó. Cậu bị điều khiển bởi thứ cậu chẳng bao giờ thấy, chẳng bao giờ nghĩ tới, chẳng bao giờ biết. Đó là một dạng áp đặt được thừa nhận không cần hỏi. Cũng chính cậu bé này luôn luôn ngờ vực các dạng thức điều khiển khác – sự cấm đoán của cha mẹ, các tin quảng cáo, luật chính phủ. Nhưng sự thống trị vô hình của quá khứ, thứ quyết định hầu như tất cả mọi khía canh cuộc sống của cậu ta, lại cứ tiếp diễn mà không bị cật vấn. Đây mới là thứ quyền lực thực sự. Thứ quyền lực có thể bị lấy đi, có thể được đem ra sử dụng. Vì cũng như hiện tại đã bị quá khứ điều khiển, tương lai cũng vậy. Đó là lý do tại sao tôi lại nói, tương lai thuộc về quá khứ. Và lý do…”
Doniger ngừng lại, khó chịu thấy rõ. Chuông điện thoại của Kramer rung lên, và cô trả lời. Gã đi lên rồi lại đi xuống, chờ đợi. Thử động tác tay khác, rồi động tác tay khác nữa.
Cuối cùng Kramer cũng tắt máy, nhìn gã. Gã nói, “Hở? Gì vậy?”
“Là Gordon. Họ vẫn còn sống, Bob.”
“Họ đã quay lại chưa?”
“Chưa. Nhưng chúng ta đã có được một lời nhắn ghi lại giọng nói của họ. Ba người bọn họ chắc chắn là vẫn còn sống.”
“Một lời nhắn? Ai nghĩ ra cách đó?”
“Stern.”
“Thật à? Có lẽ anh ta cũng không ngốc như tôi đã tưởng. Chúng ta nên thuê anh ta.” Gã ngừng lại. “Thế cô định nói với tôi là chúng ta vẫn sẽ đưa họ trở lại à?”
“Không. Tôi không chắc về chuyện đó lắm.”
“Vấn đề gì đấy?”
“Họ đang tắt tai nghe đi.”
“Thế á? Tại sao chứ? Pin tai nghe có dư đủ chạy ba mươi bảy tiếng cơ mà. Chẳng có lý do gì mà phải tắt chúng đi hết.” Gã nhìn trân trân. “Cô có nghĩ vậy không? Cô nghĩ là hắn ta à? Cô nghĩ đó là do Deckard à?”
“Có lẽ. Đúng thế.”
“Sao thế được? Hơn một năm rồi. Giờ Deckard chắc phải chết rồi – có nhớ hắn ta suốt ngày kiếm chuyện đánh nhau với người khác không?”
“Ừm, một chuyện gì đó đã làm họ phải tắt tai nghe đi…”
“Tôi không biết,” Doniger nói. “Rob bị nhiều lỗi dịch chuyển quá rồi, và chẳng ai kiểm soát được hắn cả. Quỷ tha ma bắt, hắn đang sắp phải đi tù chứ.”
“Phải. Vì tội đánh một người nào đó hắn chưa từng gặp trong quán bar,” Kramer nói. “Báo cáo từ phía cảnh sát là Deckard đã đánh anh ta bằng một cái ghế kim loại tới năm mươi hai cú liền. Anh chàng đó đã hôn mê suốt một năm. Và Rob chắc chắn phải vào tù. Đó là lý do vì sao hắn lại tự nguyện trở lại quá khứ thêm một lần nữa.”
“Nếu Deckard vẫn còn sống,” Doniger nói, “thì họ vẫn còn gặp rắc rối lớn đấy.”
“Đúng thế đấy, Bob. Họ vẫn còn gặp nhiều rắc rối lắm.”
* 09:57:02Trở lại với cánh rừng tối tăm ẩm ướt, Marek lấy một cái que vẽ bản đồ lên mặt đất. “Ngay lúc này, chúng ta đang ở đây, bên dưới tu viện. Cối xay ở đằng kia, cách chỗ chúng ta khoảng một phần tư dặm. Chúng ta phải vượt qua một trạm gác ở đó.”
“Ừm, hừm,” Chris nói.
“Và rồi chúng ta sẽ phải vào được trong cối xay.”
“Bằng cách nào đó,” Chris nói.
“Phải. Sau đó, chúng ta sẽ có chìa khóa. Thế là chúng ta sẽ đi tới nhà nguyện xanh. Mà ở đâu thế nhỉ, Kate?”
Cô lấy cái que, kẻ một hình vuông. “Cho đây là La Roque, trên đỉnh vách đá, thì đây là khu rừng ở phía Bắc. Đường khoảng ở đây. Tôi nghĩ nhà nguyện không xa lắm đâu – có lẽ ở đây.”
“Một dặm? Hai dặm?”
“Cho là hai dặm đi.”
Marek gật đầu.
“Ừm, thế cũng khá dễ đấy,” Chris nói, đứng dậy, phủi đất khỏi tay. “Tất cả những gì chúng ta cần làm là vượt qua trạm gác, tiến vào cối xay được trấn thủ, rồi đi tới một cái nhà nguyện nào đấy – và nhớ là không để bị giết trên đường. Bắt đầu thôi.”
*Bỏ cánh rừng lại phía sau, họ đi qua một khu chỉ toàn đổ nát. Lửa bốc lên trên tu viện Sainte-Mère, và những đám mây khói làm tối sầm cả bầu trời. Tro đen phủ đầy mặt đất, bám lên mặt lên vai họ, làm không khí đặc quánh lại. Họ thấy cả cát trong miệng. Dọc dòng sông, họ chỉ thấy bóng mờ mờ của Castelgard, giờ là một đống đổ nát cháy đen, nghi ngút khói trên lưng đồi.
Đi dọc vùng hoang tàn này hồi lâu nhưng họ chẳng thấy ai hết. Họ đi qua một ngôi nhà ở hướng Tây của tu viện, một ông lão đang nằm vật trên đất, hai mũi tên cắm vào ngực. Bên trong, họ thấy tiếng khóc của một đứa bé con. Nhìn vào, họ thấy một người phụ nữ, bị chém đến chết, nằm úp mặt xuống cạnh đống lửa; và một cậu bé độ sáu tuổi, mắt trừng trừng nhìn lên trời, ruột bị mổ phanh ra. Họ không thấy đứa bé sơ sinh, nhưng tiếng kêu dường như vọng từ một tấm chăn trong góc.
Kate định tiến về phía đó, nhưng Marek đã giữ cô lại. “Đừng.”
Họ đi tiếp.
*Khói tản ra một vùng trống trải, đầy những túp lều bị bỏ hoang, những cánh đồng không người chăm sóc. Bên cạnh ngôi nhà có những người bị giết thê thảm kia ra, họ chẳng thấy ai hết.
“Những người khác đâu hết rồi?” Chris nói.
“Họ ở trong rừng,” Marek nói. “Họ dựng lều ở đó, và các chỗ trú dưới lòng đất nữa. Họ biết phải làm gì.”
“Trong rừng? Họ sống thế nào?”
“Bằng việc tấn công bất cứ tên lính nào đi ngang qua. Đó là lý do tại sao bọn lính giết hết tất cả những ai chúng nhìn thấy trong rừng. Chúng nghĩ họ là các godin – thảo khấu – và chúng biết rằng bọn godin sẽ đáp lại, nếu họ có thể.”
“Thế chuyện xảy ra với chúng ta là thế à, khi chúng ta mới đặt chân lên đây ấy?”
“Đúng,” Marek nói. “Sự thù địch giữa thường dân và quý tộc bây giờ đang trong giai đoạn tệ nhất. Dân thường tức giận vì họ bị ép phải cung phụng cho tầng lớp hiệp sĩ với thuế má các kiểu, nhưng khi có chuyện, các hiệp sĩ chẳng chịu hoàn thành phần giao kèo của mình gì hết. Họ chẳng thể đánh thắng các trận chiến để bảo vệ đất nước của chính mình. Vua Pháp đã bị bắt, chuyện này có ý nghĩa rất ghê gớm đối với tầng lớp thường dân. Và giờ đây khi cuộc chiến giữa Anh và Pháp đã dừng lại, họ thấy một điều quá rõ ràng rằng lũ hiệp sĩ chỉ giỏi phá hoại thêm. Cả Arnaut và Oliver đều chiến đấu vì vua của mình ở trận Poitiers. Và giờ cả hai cùng cướp phá làng quê để trả tiền cho đội quân của mình. Mọi người không thích thế. Thế là họ lập những nhóm godin, sống trong rừng, chống trả bất cứ khi nào có thể.”
“Thế còn ngôi nhà này?” Kate nói. “Sao chuyện đó lại xảy ra chứ?”
Marek nhún vai. “Có thể người cha bị bọn cướp trong rừng giết. Có thể một đêm người anh uống quá chén, đi lang thang, và bị giết rồi bị lột sạch bởi bọn cướp nông dân. Có thể người vợ và những đứa con đang đi từ lâu đài này tới lâu đài khác thì đột nhiên biến mất không để lại dấu tích. Cuối cùng thì người ta cũng phải đi xả cục tức và sự phẫn nộ lên ai đó. Và cuối cùng thì người ta cũng làm thế.”
“Nhưng…”
Marek im lặng, chỉ về phía trước. Xa phía hàng cây, một lá cờ xanh lá cây và đen di chuyển thật nhanh sang trái, được một kỵ sĩ phi nước đại giương lên.
Marek chỉ về phía tay phải. Họ lặng lẽ đi ngược dòng. Và cuối cùng họ cũng đến chỗ cái cầu cối xay, và trạm gác.
*.
Trên bờ sông, cây cầu cối xay kết thúc bằng một bức tường đá cao có một lối đi che mái vòm. Một trạm thu thuế xây bằng đá đứng bên cạnh lối đi mái vòm. Con đường duy nhất tới La Roque chính ở đó, có nghĩa là lính của Oliver, khi kiểm soát cây cầu, cũng kiểm soát cả con đường luôn.
Vách đá vôi dựng đứng cao ngất chắn phía trên con đường. Chẳng có cách nào khác ngoài việc đi qua cái cổng vòm kia. Và kẻ đang đứng ở cổng vòm, nói chuyện với mấy người lính bên trạm thu thuế, là Robert de Kere.
Marek lắc đầu.
Một dòng người toàn nông dân, chủ yếu là phụ nữ và trẻ em, vài người mang theo một ít tư trang, đang đi lên cầu. Họ đang đi tìm chỗ trú ở lâu đài La Roque. De Kere đang nói chuyện với một người lính gác, và cứ thỉnh thoảng lại liếc nhìn về phía đám thường dân. Hắn có vẻ không chú ý lắm, nhưng họ cũng chẳng thể đi qua hắn mà không bị nhận diện được đâu.
Cuối cùng de Kere cũng đi lại vào trong cây cầu trấn thủ. Marek huých mấy người kia, và họ trở lại con đường, từ từ đi về phía trạm gác. Marek thấy mình sắp sửa vã mồ hôi đến nơi.
Những tên lính cứ nhìn chằm chằm vào hành lý của mọi người, và tịch thu tất cả những thứ có giá trị, ném nó vào cái đống bên đường.
Marek tới chỗ cổng vòm, rồi đi qua. Những tên lính quan sát anh ta, nhưng anh ta không chạm mắt với chúng. Anh ta được qua, rồi Chris, rồi Kate.
Họ đi dọc dòng sông cùng với đám đông, nhưng cuối cùng, khi đám đông đi vào thị trấn La Roque, Marek đi về hướng ngược lại, về phía bờ sông.
Ở đây chẳng có ai hết, và họ có thể nhìn qua đám lá về phía cây cầu cối xay đã được gia cố, giờ cách khoảng một phần tư dặm phía hạ lưu.
Thứ họ nhìn thấy chẳng làm họ vui vẻ được chút nào.
Ở mỗi đầu cầu là những tháp canh đồ sộ, cao hai tầng, với lối lên cao ngất, và lỗ bắn tên ở mọi phía. Trên đỉnh tháp canh gần nhất, họ thấy hai tá lính mặc quân phục nâu đỏ và xám nhìn qua các lỗ châu mai, sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào. Cũng từng ấy lính trên cái tháp phía xa, nơi cờ đuôi nheo của lãnh chúa Oliver đang bay phần phật trong gió.
Giữa hai tòa tháp, trên cầu có hai tòa nhà với kích thước khác nhau, được liên kết bằng những đoạn dốc thoai thoải. Bốn bánh xe nước rung ầm ầm bên dưới, được dòng chảy tăng tốc qua một dãy những đập và kênh nhỏ cung cấp năng lượng.
“Cậu nghĩ gì?” Marek nói với Chris. Công trình này, nói gì thì nói, cũng là mối quan tâm lớn của Chris. Anh đã nghiên cứu về nó suốt hai năm rồi. “Chúng ta đột nhập vào được không?”
Chris lắc đầu. “Chẳng có cơ hội đâu. Lính khắp mọi nơi. Chẳng có lối nào vào được.”
“Tòa nhà gần chỗ chúng ta nhất là gì đấy?” Marek nói, ám chi tòa nhà hai tầng bằng gỗ.
“Chắc là cối xay bột,” Chris nói. “Có lẽ có mấy bánh xe nghiền bột ở tầng trên. Bột chảy xuống hố tới các thùng ở tầng dưới, ở đó sẽ dễ đóng bao và mang ra ngoài hơn.”
“Có bao nhiêu người làm việc ở đó?”
“Có khoảng hai hoặc ba. Nhưng ngay lúc này” – anh chỉ tay về phía đám lính – “có lẽ chẳng có ai hết.”
“Được rồi. Thế còn tòa nhà kia thì sao?”
Marek chỉ tay về phía tòa nhà thứ hai, cách tòa nhà thứ nhất một đoạn dốc ngắn. Tòa nhà này dài và thấp hơn. “Không chắc lắm,” Chris nói. “Có lẽ là xưởng kim khí, chỗ xay giấy, hay nghiền bia, hoặc thậm chí là một xưởng làm đồ gỗ.”
“Cậu muốn nói là dùng cưa à?”
“Đúng thế. Thời này họ đã có cưa chạy bằng sức nước đấy. Nếu đó là xưởng gỗ thật.”
“Nhưng cậu lại không chắc?”
“Chỉ bằng cách nhìn thôi à, không.”
Kate nói, “Tôi xin lỗi, sao chúng ta lại mất công nói về chuyện này? Nhìn kìa: chẳng có cách nào vào được hết.”
“Chúng ta vẫn phải vào,” Marek nói. “Phải vào phòng của đạo hữu Marcel, phải lấy cái chìa khóa ở đó.”
“Nhưng làm thế nào hả André? Chúng ta vào đó bằng cách nào?”
Marek lặng lẽ nhìn về phía cây cầu hồi lâu. Cuối cùng anh ta nói, “Chúng ta sẽ bơi.”
Chris lắc đầu. “Không thể nào.” Những cây cột chống thì dốc còn đá thì xanh nhẵn đầy tảo. “Chúng ta không trèo lên được đâu.”
“Ai nói gì đến trèo nhỉ?” Marek nói.