09:27:33
Chris thở hổn hển khi cảm nhận cái lạnh của làn nước. Marek đã đẩy mình ra xa khỏi bờ, trôi theo dòng nước. Kate ở ngay phía sau anh ta, đang di khuyển về bên phải, cố đẩy mình thẳng về phía giữa dòng. Chris lao xuống nước sau họ, liếc nhìn đầy lo lắng về phía bờ.
Đến lúc này đám lính vẫn chưa thấy họ. Tiếng nước sông òng ọc chảy là âm thanh duy nhất anh nghe được. Anh cảm thấy người mình căng cứng. Anh biết mình chỉ có một cơ hội duy nhất – nếu bỏ lỡ, dòng nước sẽ cuốn anh đi, và anh sẽ khó có thể quay lại mà không bị bắt.
Vậy nên vấn đề là thế.
Một cơ hội duy nhất.
Một dãy những bờ tường đá nhỏ được dựng lên hai bên bờ sông để tăng tốc độ dòng chảy, và giờ anh đang di chuyển nhanh hơn. Thẳng phía trước là một kênh đào, ngay trước những bánh xe nước. Chúng nằm khuất dưới bóng của cây cầu. Mọi việc diễn ra rất nhanh. Nước sông ầm ầm chảy xiết, trắng ngầu bọt. Anh có thể nghe thấy tiếng cọt kẹt từ những bánh xe gỗ khi tiến lại gần hơn.
Marek tới được bánh xe đầu tiên; anh ta chộp lấy nan hoa, đung đưa người, đạp chân vào mái chèo và nổi dần lên theo chiều quay của bánh xe, rồi biến mất khỏi tầm nhìn.
Anh ta làm mọi việc có vẻ dễ dàng.
Bây giờ Kate đã tới được bánh xe thứ hai, gần điểm giữa của cây cầu. Rất nhanh nhẹn, cô dễ dàng bắt được vào một nan hoa đang chuyển động lên, nhưng chỉ một khoảnh khắc sau đó, cô gần như bị tuột tay và phải chật vật lắm mới trụ lại được. Cuối cùng cô đu người lên một mái chèo, cúi thấp người.
Chris trượt xuống dòng nước đổ dốc, miệng cằn nhằn khi chạm vào những tảng đá dưới lòng sông. Nước xung quanh anh sủi bọt như thác đổ, dòng nước nhanh chóng cuốn anh về phía những bánh xe nước đang quay tròn.
Bây giờ đến lượt anh.
Bánh xe nước đã tiến sát rồi.
Chris với tay về phía nan hoa gần nhất khi nó vừa ngoi lên khỏi mặt nước, và tóm lấy nó – lạnh và trơn trượt – bàn tay anh trượt qua lớp tảo – dằm rạch vào ngón tay anh – trượt tay – anh tóm lấy nó bằng tay kia – tuyệt vọng – cái nan hoa nhô hẳn lên khỏi mặt nước – anh không thể giữ được nữa – bỏ tay và ngã xuống nước – cố tóm lấy cái nan hoa tiếp theo khi nó xuất hiện – hụt rồi – lại hụt – và rồi bị cuốn trôi không thương xót, quay lại phía ánh nắng chói chang, theo dòng nước chảy.
Anh hụt mất rồi!
Khốn kiếp.
Dòng nước đẩy anh về phía trước. Ra xa khỏi cây cầu, ra xa khỏi hai người kia.
Anh chỉ còn một mình.
* 09:25:12Kate quỳ một chân trên mái chèo của bánh xe và thấy người mình được nâng lên khỏi mặt nước. Rồi đến đầu gối kia, và cô cúi xuống, thấy toàn bộ người mình được nâng lên giữa không trung. Gô ngoái lại vừa kịp thấy Chris đang trôi xuôi dòng, đầu dập dềnh trong ánh nắng. Và rồi cô được nâng lên cao hơn nữa, vào trong cối xay.
Cô rơi xuống đất, thu mình trong bóng tối. Những tấm ván gỗ dưới chân chùng xuống, và cô ngửi thấy mùi ẩm mốc. Cô đang ở trong một căn phòng nhỏ, cái bánh xe ở phía sau và một bộ bánh răng bằng gỗ đang kêu cọt kẹt ở bên phải. Những cái bánh răng này khớp với một bộ khung thẳng đứng, làm thành trục quay. Cái trục đâm thẳng lên trần nhà. Cô thấy nước bắn tung tóe lên người trong khi đang ngừng lại để lắng nghe. Nhưng cô chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng nước và tiếng gỗ kèn kẹt.
Một cánh cửa thấp hiện ra ngay phía trước. Cô nắm chặt con dao găm và mở cánh cửa ra.
*Thóc ào xuống một cái máng gỗ trên trần nhà và đổ vào một cái thùng vuông bằng gỗ nằm trên nền nhà bên cạnh cô. Từng túi thóc chất đống trong góc. Không khí mịt mù những bụi vàng. Bụi bám đầy trên tường, lên các bề mặt và lên cái thang dẫn lên tầng hai đặt ở góc nhà. Cô nhớ Chris đã từng nói rằng loại bụi này rất dễ cháy, rằng một ngọn lửa cũng có thể thổi bay cả tòa nhà. Và thực thế, cô chẳng thấy một ngọn nến nào trong phòng hết, chẳng một cái giá nến nào trên tường cả. Không có lửa dưới bất kỳ hình thức nào.
Thật cẩn thận, cô lần tới bên chiếc thang. Chỉ khi tới bên nó thì cô mới thấy hai người đàn ông đang nằm giữa đống túi, ngáy ầm ĩ, mấy chai rượu rỗng lăn lóc dưới chân. Và chẳng ai có dấu hiệu gì là sẽ tỉnh hết.
Cô bắt đầu trèo lên cầu thang.
Cô đi qua một chiếc bánh xe bằng đá granite đang xoay ầm ầm trên một cái bánh xe khác ở bên dưới. Thóc chảy xuống qua một dạng ống rồi đổ vào cái lỗ ở chính giữa bánh xe phía trên. Rồi thóc đã được xay sẽ đổ ra hai bên, qua một cái lỗ xuống nền nhà bên dưới.
Ở góc phòng, cô thấy Marek bò qua người một tên lính đang nằm trên đất. Anh ta giơ tay lên môi và chỉ về phía cánh cửa bên phải, Kate nghe thấy có tiếng nói: những tên lính trên chòi canh. Thật lặng lẽ, Marek nâng cái thang lên và mang nó chặn cửa lại.
Họ cùng nhau gỡ lấy kiếm của tên lính, cây cung, cùng bao tên. Cái xác thật nặng; tháo vũ khí ra không ngờ lại khó đến thế. Dường như mất khá nhiều thời gian. Cô nhìn vào khuôn mặt của tên lính – hắn ta có bộ râu hai ngày chưa cạo, và một vết sưng tấy trên môi. Mắt nâu, mở trừng trừng.
Cô kinh hãi nhảy lùi lại khi người đó đột ngột giơ tay về phía mình. Rồi cô nhận ra rằng đó là vì ống tay áo ướt của cô đã bị mắc vào cái vòng tay của hắn. Cô gỡ nó ra. Bàn tay đập đánh cốp xuống đất.
Marek lấy kiếm của người đó. Anh ta đưa cung và tên cho cô.
Vài bộ áo chùng thầy tu treo thành hàng trên móc tường. Marek chui vào một chiếc, đưa chiếc thứ hai cho cô.
Giờ anh ta chỉ tay về bên trái, về phía cái dốc dẫn ra tòa nhà thứ hai. Hai tên lính mặc đồng phục nâu đỏ và xám đang đứng trên dốc, chắn đường họ.
Marek nhìn quanh, thấy một cây gậy nặng trịch dùng để khuấy thóc, và đưa nó cho cô. Anh ta thấy thêm nhiều chai rượu trong góc nữa. Anh ta lấy hai chai, mở cửa ra, và nói gì đó bằng tiếng Occitan, vẫy vẫy mấy cái chai về phía bọn lính. Chúng chạy vội. lại. Marek đẩy Kate về bên cửa và nói một tiếng: “Mạnh.”
Tên lính đầu tiên bước vào, tên thứ hai theo ngay sau. Cô vung gậy lên và đánh vào đầu hắn mạnh đến nỗi cô chắc chắn rằng mình đã làm hắn vỡ sọ. Nhưng không phải thế; người đó ngã ra, nhưng hắn đã đứng dậy ngay lập tức. Cô đánh hắn thêm hai cú nữa, hắn ngã dập mặt xuống đất và không cử động được nữa. Trong khi đó, Marek đã đập vỡ chai rượu lên đầu tên lính thứ hai, và giờ anh ta đang đá vào bụng hắn liên hồi. Hắn giãy giụa, giơ hai tay lên che, cho tới khi cô đập cây gậy xuống đầu hắn. Thế là hắn không cựa quậy gì nữa.
Marek gật đầu, luồn thanh kiếm xuống dưới lớp áo chùng, đi ra chỗ con dốc, đầu hơi cúi, giống một thầy tu. Kate đi theo sau.
Cô không dám liếc nhìn những tên lính trên mấy tòa tháp canh. Cô đã giấu túi tên xuống dưới áo, nhưng tay vẫn phải cầm cây cung, lồ lộ trước ánh nhìn của mọi người. Cô không biết là có ai để ý thấy không nữa. Họ đi đến tòa nhà thứ hai, Marek dừng lại trước cánh cửa. Họ lắng nghe, nhưng chẳng có gì hết trừ tiếng đập dồn dập và tiếng nước cuộn chảy của dòng sông bên dưới.
Marek mở cửa ra.
*Chris ho và thở phì phò, trồi sụp giữa dòng nước. Dòng chảy giờ đã chậm hơn, nhưng anh đã trôi xuống hạ lưu cách cối xay cả trăm mét rồi. Ở cả hai bên bờ sông, người của Arnaut đang đứng quanh, rõ ràng là đang đợi lệnh tấn công cây cầu. Một số lượng lớn ngựa đứng gần đó, được mấy người hầu trông coi.
Ánh nắng chiếu trên mặt nước rọi lên mặt những người lính của Arnaut. Anh thấy họ nheo mắt, và quay lưng lại dòng sông. Chris đã nhận ra rằng ánh nắng chói chang có lẽ là lý do làm họ không nhìn thấy anh.
Không quẫy nước hay khua tay, Chris vẫn đến được bờ Bắc của dòng Dordogne và trượt qua những đám cây bụi mọc chìa ra bên bờ sông. Ở đây không ai có thể nhìn thấy anh hết. Anh có thể nghỉ lấy sức một chút. Và anh phải ở bên này sông – bên của người Pháp – nếu còn muốn nhập bọn với Marek và Kate.
Ấy là, nếu họ còn sống mà ra khỏi cối xay. Chris chẳng biết cơ may là bao nhiêu nữa. Cối xay nhung nhúc những lính.
Và rồi anh nhớ rằng Marek vẫn đang cầm mảnh sứ. Nếu Marek chết, hoặc biến mất, họ sẽ không còn cơ hội trở về nhà nữa. Nhưng có lẽ họ cũng chẳng còn cơ hội đâu mà, anh nghĩ vậy.
Cái gì đó đập bộp lên đầu anh. Khi quay lại anh thấy một con chuột chết, trương phồng lên trôi trên sông. Cảm giác kinh tởm thúc anh ào ra khỏi dòng nước. Giờ ngay chỗ anh đang bám chẳng có tên lính nào hết; chúng đang đứng dưới bóng một lùm thông, xuôi dòng chừng mười hai mét. Anh leo lên khỏi mặt nước và nằm vật xuống chỗ bụi cây. Ánh mặt trời tỏa khắp người Chris, sưởi ấm cho anh. Anh nghe thấy tiếng bọn lính cười nói. Anh biết mình nên tìm chỗ nào đó kín hơn. Nơi anh đang nằm bây giờ, giữa đám cây bụi trên bờ sông, bất cứ ai đi dọc bờ sông cũng sẽ dễ dàng nhìn thấy. Nhưng khi thấy người ấm hơn, cũng là lúc anh thấy mình kiệt sức. Mắt nặng trĩu, chân tay uể oải, và dù nhận ra được nguy hiểm, anh vẫn tự nhủ rằng mình sẽ chỉ nhắm mắt một chút thôi.
Chỉ một chút thôi.
*Những tiếng động trong cối xay ầm ầm đến điếc cả tai. Kate nhăn mặt khi bước lên tầng hai và nhìn xuống căn phòng bên dưới. Chạy dọc theo chiều dài của tòa nhà, hai dãy búa nện kêu leng keng trên mấy cái đe thợ rèn, tạo nên những tiếng vang liên hồi dội lên những bức tường đá.
Bên cạnh mỗi cái đe là một chậu nước và một lò kim loại đầy than hồng rực. Đây rõ ràng là một lò luyện kim, nơi thép được tôi bằng quy trình luân phiên nung, đập và làm lạnh trong nước, những bánh xe nước là nguồn cung cấp lực đập.
Nhưng bây giờ, những chiếc búa cứ đập mà không có ai trông coi khi bảy hoặc tám lính đồng phục nâu đỏ và xám đang lùng sục kỹ lưỡng mọi góc phòng, tìm bên dưới những trục xoay và bên dưới những chiếc búa đang nện liên hồi, sờ khắp những bức tường để tìm các ô bí mật trong đá, và lục tung các rương dụng cụ.
Cô không có chút nghi ngờ gì về thứ bọn chúng đang tìm: chiếc chìa khóa của đạo hữu Marcel.
Marek quay về phía cô ra hiệu rằng họ sẽ đi xuống cầu thang và đi tới cánh cửa phụ, giờ đang mở hé. Đây là cánh cửa duy nhất trên bức tường bên; nó chẳng có khóa, và nó gần như chắc chắn là phòng của Marcel.
Và rõ ràng, nó đã bị lục soát.
Vì lý do nào đó, chuyện này cũng chẳng làm Marek bận tâm, anh ta vẫn cứ quả quyết đi xuống. Ở chân cầu thang, họ đi qua những cái búa đang đập liên hồi và lẩn vào phòng của Marcel.
Marek lắc đầu.
Đây quả đúng là phòng của một thầy tu, rất nhỏ, và sơ sài đến đáng ngạc nhiên: chỉ có một cái giường nhỏ, một bồn nước và một cái bô. Cạnh giường có cái bàn nhỏ đặt một ngọn nến tí xíu. Tất cả chỉ có thế. Hai chiếc áo chùng trắng của Marcel treo trên cái móc sau cửa.
Chẳng có gì khác.
Chỉ cần liếc qua cũng thấy rõ là chẳng có chìa khóa nào trong căn phòng này hết. Và thậm chí nếu như có thật thì bọn lính cũng đã tìm thấy chúng rồi.
Tuy thế, trước sự bất ngờ của Kate, Marek vẫn sụp xuống và bắt đầu cẩn thận tìm kiếm dưới gầm giường.
*Marek nhớ lại những gì tu viện trưởng đã nói ngay trước khi ông ta bị giết.
Tu viện trưởng không biết lối vào đường hầm bí mật, và ông ta cực kỳ muốn biết, để có thể nói cho Arnaut. Tu viện trưởng đã khích lệ Giáo sư tìm trong đống tài liệu cổ – một điều dễ hiểu, nếu Marcel đã quá điên đến mức không còn nói được cho ai biết rằng mình đã làm gì.
Giáo sư đã tìm ra tài liệu có đề cập đến một chiếc chìa khóa, và dường như ông nghĩ đây là một phát hiện quan trọng. Nhưng tu viện trưởng đã mất hết kiên nhẫn: “Dĩ nhiên là có chìa khóa. Marcel có rất nhiều chìa khóa…”
Thế là tu viện trưởng đã biết là có sự tồn tại của một cái chìa khóa. Ông ta cũng biết cái chìa khóa đó ở đâu. Nhưng ông ta không thể dùng được nó.
Sao lại không?
Kate gõ nhẹ lên vai Marek. Anh ta ngoái lại và thấy cô đã đẩy hai chiếc áo chùng trắng ra. Trên mặt sau cánh cửa anh ta thấy có ba hình khắc, theo họa tiết kiểu La Mã. Họa tiết có vẻ nghi thức, thậm chí còn rất cầu kỳ; dường như cực kỳ không có vẻ gì là Trung Cổ hết.
Và rồi anh ta nhận ra rằng đó chẳng phải là họa tiết gì hết. Đó là những biểu đồ chỉ dẫn.
Đó là chìa khóa.
*Biểu đồ khiến anh ta chú ý là cái thứ ba, nằm ở trong cùng phía bên phải. Nó trông thế này:
.
Biểu đồ đã được khắc lên lớp gỗ phía sau cánh cửa từ nhiều năm trước. Không nghi ngờ gì nữa, bọn lính đã nhìn thấy nó. Nhưng nếu chúng vẫn còn đang tìm, thì có nghĩa là chúng vẫn chưa hiểu nó nghĩa là gì.
Nhưng Marek hiểu.
Kate đang chằm chằm nhìn anh ta, và cô mấp máy môi, Cầu thang?
Marek chỉ tay về phía cái hình, Anh ta mấp máy môi, Bản đồ.
Vì giờ cuối cùng thì mọi thứ đã rõ ràng trước mắt anh ta.
VIVIX không có trong từ điển, vì nó không phải một từ. Nó là một chuỗi các số: V, IV, và IX. Và những chữ số này được gắn với những hướng cụ thể, như đã được chỉ ra trong dòng chữ trên tấm giấy da kia: DESIDE. Nó cũng không phải một từ, mà đúng hơn là viết tắt của DExtra, SInistra, DExtra. Hay theo tiếng Latin có nghĩa là: “phải, trái, phải”.
Vì thế, mật mã là thế này: khi đã vào trong nhà nguyện xanh, bạn hãy đi năm bước qua bên phải, bốn bước qua bên trái và chín bước sang bên phải.
Và thế là bạn sẽ đến được chỗ có đường hầm bí mật.
Anh ta cười với Kate.
Thứ tất cả mọi người đang tìm kiếm, cuối cùng họ đã tìm ra. Họ đã tìm ra chìa khóa tới La Roque.