09:10:23
Giờ tất cả những gì họ cần làm là sống sót thoát khỏi cối xay, Kate nghĩ. Marek đi về phía cánh cửa, cảnh giác nhìn ra chỗ đám lính trong phòng chính. Cô đi ra cạnh anh ta.
Cô đếm thấy có chín tên lính. Cộng với cả de Kere. Thế là tổng có mười tên.
Mười đấu với hai.
Bọn lính dường như đã ít chú tâm vào việc tìm kiếm hơn trước. Rất nhiều tên bắt đầu nhìn nhau qua mấy cái búa nện, nhún vai, như muốn nói, Không phải chúng ta đã xong rồi à? Làm gì nữa?
Rõ ràng, việc thoát ra mà không bị phát hiện đối với Kate và Marek là bất khả thi.
Marek chỉ về phía cầu thang dẫn lên con dốc phía trên. “Cô đi thẳng lên cầu thang và ra khỏi đây,” anh ta nói. “Tôi sẽ yểm trợ cho cô. Sau đó chúng ta sẽ gặp lại chỗ hạ lưu trên bờ Bắc. Được chứ?”
Kate nhìn về phía bọn lính. “Mười đối một đấy, tôi sẽ ở lại.”
“Không. Một trong hai chúng ta phải ra được khỏi đây. Tôi có thể xử lý được. Cô đi đi.” Anh ta lần tay vào trong túi. “Và mang cái này theo.” Anh ta đưa miếng sứ cho cô.
Cô rùng mình, “Sao lại thế, André?”
“Cầm lấy đi.”
Và họ đi vào phòng. Kate hướng về phía cầu thang, trở lại nơi cô vừa đi qua. Marek đi sâu vào phòng, về phía những ô cửa sổ nhìn xuống dòng sông.
Kate lên cầu thang được nửa đường thì nghe thấy có tiếng quát tháo. Bọn lính khắp phòng đang chạy về phía Marek, anh ta đã trút chiếc áo thầy tu ra và đang đánh nhau với một tên. Kate không chút do dự. Lấy túi tên ra khỏi chiếc áo, cô đưa mũi tên đầu tiên lên, và giương cây cung. Cô nhớ lại những lời Marek đã nói: Khi muốn giết một ai đó… Khi ấy cô đã nghĩ rằng nó thật nực cười.
Một tên lính thét lên, chỉ về phía cô. Cô bắn vào hắn ta; mũi tên cắm vào ngay sát cổ hắn. Hắn lảo đảo ngã vào một cái lò nung, gào lên khi trượt vào chảo than nóng. Tên lính thứ hai bên cạnh hắn đang lùi lại, tìm chỗ núp, thì Kate đã bắn thẳng vào ngực hắn. Hắn đổ nhào xuống đất, chết.
Còn tám tên.
Marek đang đánh lại ba tên một lúc, gồm cả de Kere. Gươm chém xuống chan chát do chúng né tránh giữa những cái búa nện và nhảy qua những bánh cam đang quay vun vút. Marek đã giết được một tên, hắn nằm chết ngay dưới chân anh ta.
Còn bảy tên.
Nhưng rồi cô thấy tên lính đó đứng dậy; hắn chỉ giả chết, và giờ hắn đang thận trọng tiến về phía trước, định tấn công Marek từ phía sau. Kate lên mũi tên khác, bắn vào hắn. Tên đó ngã khuỵu xuống, ôm lấy đùi; hắn chỉ bị thương thôi; Kate bắn thẳng vào đầu khi hắn còn nằm giữa đống gỗ.
Cô đang với lấy mũi tên khác thì thấy de Kere đã ngừng đánh nhau với Marek và đang phóng lên cầu thang về phía cô với một tốc độ đáng kinh ngạc.
Kate luống cuống lấy mũi tên khác, lên dây, bắn về phía de Kere. Nhưng cô quá vội và đã bắn trượt. Giờ de Kere đang vùn vụt phóng đến.
Kate buông cả cung lẫn tên xuống rồi bỏ chạy ra ngoài.
*Cô chạy dọc theo con dốc dẫn ra cối xay, mắt nhìn xuống dòng nước. Khắp mọi nơi cô có thể thấy đá lởm chởm bên dưới dòng nước cuồn cuộn trắng xóa: quá nông không nhảy xuống được. Cô buộc phải đi xuống theo con đường mà mình đã leo lên. Phía sau cô, de Kere đang quát tháo gì đó. Trên cái tháp canh đối diện, một nhóm cung thủ rút cung ra.
Khi loạt tên đầu tiên bay tới, cô đã tới cánh cửa của cối xay bột. De Kere khi đó đang chạy ngược lại, thét vào bọn cung thủ, giơ giơ nắm đấm lên trời. Tên găm quanh người hắn.
Ở tầng trên của cối xay, lính đang thúc vào cánh cửa vốn đã bị cái thang chặn lại. Cô biết cái thang cũng chẳng giữ được lâu đâu. Cô đi qua cái lỗ trên nền nhà và quăng người xuống căn phòng bên dưới. Ầm ĩ không chịu nổi, mấy tên lính say xỉn đã tỉnh, đang loạng choạng mắt lờ mờ đứng dậy. Nhưng bụi vàng trong không khí nhiều quá, chẳng thể nhìn rõ gì cả.
Đó chính là gợi ý cho cô: bụi ngập trong không khí.
Cô lần tay vào trong túi và lấy ra một trong mấy cái khối lập phương màu đỏ. Nó ghi “60”. Cô giật cái nắp ra, và ném nó vào góc phòng.
Cô lặng lẽ đếm ngược lại.
Năm chín. Năm tám.
De Kere giờ đang ở ngay tầng phía trên đầu cô nhưng hắn đang ngần ngại chưa dám xuống, không biết rõ là cô có vũ khí hay không. Cô nghe thấy có rất nhiều tiếng người nói và tiếng bước chân phía bên trên; bọn lính từ chòi canh đã phá được cửa. Phải có tới một tá người trên đó. Có thể hơn.
Bên khóe mắt cô liếc thấy một trong hai tên lính say xỉn bên đống túi đã bổ nhào về phía trước và chộp lấy cô. Cô đá mạnh vào giữa hai chân hắn và hắn ngã ra sau, rên rỉ, cuộn người lại trên nền đất.
Năm hai. Năm mốt.
Cô chúi người xuống, đi về phía căn phòng bên bé tí mà từ đó cô đã vào đây. Bánh xe nước đang kêu răng rắc, bắn nước ra khắp nơi. Cô đóng cánh cửa thấp lại, nhưng nó chẳng có khóa hay then cài gì hết. Bất cứ ai cũng có thể vào được.
Năm mươi. Bốn chín.
Cô nhìn xuống. Đường thông trên nền nhà, nơi bánh xe xoay xuống dưới, đủ rộng để cô có thể chui qua được. Giờ tất cả những gì cô cần làm là bám lấy một trong những mái chèo đang quay tới và cưỡi lên bánh xe cho tới khi cô xuống đủ thấp để an toàn hạ xuống dòng nước nông choèn bên dưới.
Nhưng khi đối diện với cái bánh xe nước, thử căn thời gian các bước, cô mới nhận ra rằng nói thì dễ hơn làm nhiều. Bánh xe dường như quay rất nhanh, chúng cứ vun vút trước mặt cô. Cô cảm thấy nước bắn lên mặt và làm mờ tầm nhìn. Thời gian còn lại bao nhiêu? Ba mươi giây? Hai mươi? Nhìn đăm đăm vào cái bánh xe, cô không tính được nữa. Nhưng cô biết mình không thể đợi được. Nếu Chris nói đúng, toàn bộ cối xay sẽ nổ tung ngay thôi. Kate với người ra trước, bám lấy một cái mái chèo đang quay tới – bắt đầu rơi cùng nó – sợ – thả nó ra – đưa tay với lại lần nữa – lại sợ – rồi lùi lại, thở sâu, chuẩn bị tinh thần, sẵn sàng làm lần nữa.
Cô nghe tiếng người nhảy thình thịch từ trên tầng trên, từng tên một, xuống căn phòng gần đó. Cô chẳng còn thời gian nữa.
Cô phải đi thôi.
Cô hít thật sâu, bám lấy cái bánh lái đang đến bằng cả hai tay, ấn người tựa vào bánh xe. Cô trượt qua cái lỗ – chìm vào dưới ánh nắng – cô đã làm được! – nhưng rồi đột ngột bị giật ra khỏi cáỉ bánh xe, và lơ lửng trên không trung.
Cô ngước nhìn lên.
Robert de Kere đang giữ chặt cánh tay cô trong bàn tay cứng như thép. Với người qua cái lỗ, hắn ta đã tóm được cô vào đúng giây cuối cùng khi cô rơi xuống. Và giờ hắn đang giữ cho cô lơ lửng giữa không trung. Cách vài phân, bánh xe vẫn tiếp tục quay. Cô cố giãy ra khỏi de Kere. Mặt hắn trông thật dữ tợn và đầy quyết tâm khi nhìn cô.
Cô cố vùng vẫy.
Hắn cứ giữ chặt.
Rồi cô thấy có gì đó thay đổi trong mắt hắn – một vẻ gì đó bất an – và cái sàn gỗ ướt nhẹp bắt đầu sụp xuống dưới chân hắn. Trọng lượng của cả hai người vượt quá sức chịu đựng của tấm ván gỗ cũ kỹ, hàng bao năm đã ngấm sũng nước từ bánh xe. Những tấm ván gỗ giờ cong oằn về phía trước. Một tấm ván vỡ nát ra mà không phát ra một tiếng động, và đầu gối của de Kere sụt xuống, nhưng hắn vẫn giữ chặt lấy cô.
Bao lâu rồi? Cô nghĩ. Dùng bàn tay kia, cô đấm vào cổ tay de Kere, cố bắt hắn thả mình ra.
Bao lâu rồi?
De Kere như một con chó bun, cứ bám chặt lấy, không chịu nhả ra. Một tấm ván sàn nữa vỡ ra, và hắn ta lảo đảo đổ sang một bên. Nếu một tấm nữa mà vỡ, hắn sẽ rơi xuống cùng cô.
Thế mà hắn cũng chẳng thèm quan tâm. Hắn sẽ bám lấy đến cùng.
Bao lâu rồi?
Với bàn tay còn tự do, cô bấu lấy một mái chèo đang tới và dùng lực của bánh xe để kéo người mình xuống khỏi nắm tay của de Kere. Hai cánh tay của cô rát lên vì căng cứng, nhưng nó có hiệu quả – những tấm ván nứt ra – de Kere ngã xuống – hắn thả cô ra – và cô rơi thêm khoảng một mét nữa xuống dòng nước đang sủi bọt trắng xóa quanh bánh xe.
Và rồi một luồng sáng vàng nhạt bùng lên, cả tòa nhà bằng gỗ phía trên cô gầm rú lên rồi biến mất. Cô thấy những tấm ván cứ bay tứ tán, rồi cô lộn nhào và đâm đầu xuống dòng nước lạnh giá. Cô thấy đầy sao, một loáng thôi, rồi cô bất tỉnh trong dòng nước đang cuộn chảy xung quanh.
* 09:04:01Chris tỉnh dậy trong tiếng quát tháo của bọn lính. Anh ngước nhìn lên, và thấy lính chạy qua cây cầu cối xay một cách cực kỳ hỗn loạn. Anh thấy một thầy tu mặc áo chùng trắng đang trèo qua cửa sổ của tòa nhà lớn hơn, rồi anh nhận ra đó là Marek, đang dùng kiếm đánh ai đó bên trong. Marek trượt xuống đám dây leo cho tới khi đủ thấp để nhảy, rồi rơi xuống dòng sông. Chris chẳng thấy Marek trồi lên khỏi mặt nước.
Anh vẫn đang nhìn thì cối xay bột nổ tung giữa một quầng sáng rực rỡ và gỗ bay tứ tung. Lính bị thổi bay lên không trung vì áp lực của vụ nổ, rơi như búp bê xuống khỏi tháp canh. Khi khói và bụi đã quang bớt, anh thấy rằng cối xay bột đã biến mất – tất cả những gì còn lại giờ là vài cây cột gỗ đang cháy dở. Xác lính chết nổi lập lờ trên dòng sông bên dưới, giờ ngập đầy ván gỗ từ cối xay xác xơ.
Anh vẫn chưa thấy Marek đâu hết, và cũng không thấy Kate đâu. Một chiếc áo chùng trắng của thầy tu được dòng chảy đưa tới chỗ anh, và anh đột nhiên có một cảm giác đau đớn rằng cô đã chết.
Nếu thật thế, thì anh chỉ còn có một mình. Liều liên lạc, anh chạm vào cái tai nghe và nói thầm, “Kate. André.”
Không có tiếng đáp lại.
“Kate, cô có đấy không? André?”
Anh chẳng nghe thấy gì qua tai nghe hết, cả sóng nhiễu cũng không.
Anh thấy xác một người đàn ông trôi úp sấp mặt trên sông, và trông có vẻ giống Marek. Có phải không? Phải, Chris chắc chắn; tóc đen, to lớn, cường tráng, mặc một cái áo trong bằng vải lanh, Chris rên rỉ. Lính ở phía bờ bên kia đang quát tháo; anh quay lại xem chúng đã gần tới đâu. Khi anh nhìn lại dòng sông lần nữa, cái xác đã trôi mất.
Chris trốn lại phía sau mấy bụi cây và cố nghĩ xem sẽ làm gì tiếp theo.
*Kate trồi lên, xoay ngửa người ra. Cô cứ để dòng nước cuốn mình xuống hạ lưu. Xung quanh cô, những cây cột gỗ đang bổ nhào xuống nước như tên lửa. Cơn đau trên cổ nhói đến nỗi cô phải thở hổn hển để lấy hơi, và với mỗi hơi thở, chân tay cô lại giật lên từng đợt. Cô không thể cử động được chút nào, và cô đã nghĩ mình bị liệt, cho tới khi dần dần nhận ra rằng mình vẫn có thể cử động được mấy đầu ngón tay và ngón chân. Cơn đau đã giảm dần, rồi trườn lên tứ chi cô, giờ trụ lại ở cổ, khiến cô cực kỳ đau đớn. Nhưng cô đã có thể thở thoải mái hơn một chút, và cử động được chân tay. Cô thử lại lần nữa: phải, cô có thể cử động được chân tay.
Thế là cô không bị liệt, cổ cô có bị gãy không nhỉ? Cô thử cử động một chút, quay đầu sang trái thật nhẹ, rồi sang phải. Đau chết đi được, nhưng có vẻ khá ổn. Cô cứ trôi đi. Thứ gì đó sền sệt nhỏ vào mắt, làm cô không nhìn rõ. Cô lau nó đi, thấy có máu dính trên mấy đầu ngón tay. Chắc là ở chỗ nào đó trên đầu. Trán cô nóng bừng lên. Cô lấy tay chạm vào nó. Lòng bàn tay đỏ thẫm máu.
Cô trôi xuôi dòng, vẫn nằm ngửa, vẫn rất đau, cô không thấy đủ tự tin để xoay người và bơi. Trong lúc này, cô vẫn cứ trôi đi. Cô băn khoăn không biết tại sao bọn lính lại không nhìn thấy mình.
Rồi cô nghe thấy những tiếng thét từ phía bờ, và nhận ra rằng bọn chúng đã nhìn thấy.
*Chris ngó qua bụi rậm vừa kịp lúc thấy Kate đang trôi ngửa xuôi xuống hạ lưu. Cô bị thương; cả nửa trái mặt cô đầy máu, chảy xuống từ trên đầu. Và cô chẳng cử động mấy. Có lẽ cô đã bị liệt rồi.
Trong giây lát, mắt họ chạm nhau. Cô khẽ mỉm cười. Anh biết nếu giờ lộ ra, anh sẽ bị bắt, nhưng anh không hề do dự. Giờ Marek đã chết, anh chẳng còn gì để mất; gì thì gì họ cũng sẽ ở bên nhau cho đến phút cuối. Anh nhào xuống nước, lội ra phía cô. Chỉ khi đó anh mới nhận ra sai lầm của mình.
Anh đang ở trong tầm tên bắn của những cung thủ vẫn đang ở trên cái tháp còn lại trên cầu, và giờ chúng bắt đầu bắn về phía anh, tên bay vùn vụt xuống nước.
Gần như ngay lập tức, một hiệp sĩ đầy đủ giáp trụ từ bên Arnaut phóng thẳng ngựa xuống nước. Hiệp sĩ đó đội mũ trụ, và không thể nhìn được mặt anh ta, nhưng anh ta rõ ràng là chẳng sợ gì hết, vì anh ta đã đưa cả người mình lẫn con ngựa ra chắn trước bọn cung thủ. Con ngựa của anh ta chìm sâu xuống khi nó phóng ra phía trước, và cuối cùng nó bơi, hiệp sĩ đã chìm xuống nước tới tận thắt lưng khi anh ta quăng Kate lên yên như quăng một cái bao ướt sũng và rồi giơ tay ra tóm lấy Chris, nói to, “Allons!”34 và quay lại vào bờ.
*Kate trượt khỏi yên ngựa và tuột xuống đất. Hiệp sĩ quát lên ra lệnh, một người đàn ông mang một lá cờ sọc chéo đỏ và trắng chạy vội tới. Ông ta kiểm tra thương tích của Kate, lau sạch và cầm máu, rồi lấy vải lanh băng lại.
Trong khi đó, vị hiệp sĩ xuống ngựa, tháo mũ trụ ra, bỏ nó đi. Anh ta là một người đàn ông cao lớn và cường tráng, đẹp trai và bảnh bao đến kinh ngạc, tóc đen lượn sóng, mắt đen, cái miệng đầy đặn quyến rũ, và ánh sáng trong mắt thể hiện sự thích thú trước cái ngốc nghếch của thế giới. Da anh ta ngăm ngăm, và anh ta trông có vẻ giống người Tây Ban Nha.
Khi Kate đã được băng bó xong thì vị hiệp sĩ mỉm cười, để lộ ra hàm răng trắng đến hoàn hảo. “Tôi sẽ rất hân hạnh nếu mọi người đi cùng tôi đấy.” Anh ta dẫn họ vào lại trong tu viện và vào nhà thờ. Ở bên cánh cửa phụ của nhà thờ có một nhóm lính đang đứng, và một người nữa cũng đang ngồi trên lưng ngựa, mang biểu ngữ xanh lá cây và đen của Arnaut de Cervole.
Khi họ đi tới nhà thờ, tất cả lính họ đi qua đều cúi đầu trước vị hiệp sĩ, nói, “Thưa ngài… Thưa ngài…”
Chris huých vào Kate. “Là ông ta đấy.”
“Ai cơ?”
“Arnaut.”
“Hiệp sĩ đó á? Anh đùa à.”
“Nhìn cách mấy người lính cư xử kìa.”
“Arnaut cứu mạng chúng ta,” Kate nói.
Chris nhận ra sự mỉa mai ở đây. Trong những tư liệu lịch sử về thời đại này ở thế kỷ hai mươi, Oliver được miêu tả như một thứ gì đó gần với ông thánh, trong khi de Cervole là một hình tượng tối tăm, “một trong những kẻ xấu xa nhất trong thời đại của hắn”, theo lời của một sử gia. Nhưng rõ ràng sự thật lại hoàn toàn ngược lại. Oliver là một tên khốn đê tiện, còn Cervole là một hình mẫu nổi bật của tinh thần hiệp sĩ – người giờ họ mang ơn cứu mạng.
Kate nói, “André thì sao?”
Chris lắc đầu.
“Anh chắc không?”
“Tôi nghĩ thế. Tôi nghĩ mình đã nhìn thấy anh ấy dưới sông.”
Kate không nói gì hết.
Bên ngoài nhà thờ Sainte-Mère là những hàng dài người, hai tay bị trói sau lưng, chờ đợi để được vào trong. Hầu hết đều là quân của Oliver với đồng phục nâu đỏ và xám, cùng vài người nông dân quần áo rách rưới. Chris đoán rằng có tổng cộng khoảng bốn mươi hoặc năm mươi người. Khi họ đi qua, những người đó nhìn họ không rời với ánh mắt ủ rũ. Một vài người bị thương; tất cả đều trông rất mệt mỏi.
Một người đàn ông, một tay lính đồng phục nâu đỏ, nói một cách đầy mỉa mai với tên bên cạnh, “Thằng lãnh chúa con hoang vùng Narbonne kìa. Hắn làm các việc cả Arnaut cũng thấy bẩn.”
Chris còn đang cố hiểu câu này thì vị hiệp sĩ đẹp trai đã quay phắt người lại. “Ngươi nói gì?” anh ta thét lên, đoạn túm lấy tóc người kia, giật đầu hắn ta lên, và dùng tay kia rạch họng hắn bằng một con dao găm. Máu phụt ra đổ xuống ngực hắn. Người đàn ông vẫn đứng đó trong giây lát, phát ra những âm thanh khàn khàn.
“Ngươi vừa tuôn ra lời sỉ nhục cuối cùng của mình rồi đấy,” hiệp sĩ đẹp trai nói. Anh ta cứ đứng, mỉm cười với người đàn ông, nhìn máu chảy, cười khi mắt người đàn ông mở trừng trừng vì hoảng sợ. Người đàn ông vẫn đứng. Đối với Chris, hắn ta dường như cứ đứng mãi như thế, nhưng có lẽ chỉ khoảng ba mươi hay bốn mươi giây thôi. Vị hiệp sĩ cứ lặng lẽ đứng nhìn, không hề cử động, nụ cười cũng không hề tắt.
Cuối cùng người đàn ông đó cũng ngã khuỵu xuống, đầu cúi gục, như thể đang cầu nguyện. Vị hiệp sĩ bình thản đặt chân xuống dưới cằm người đó và đá hắn ta ngã ra sau. Anh ta tiếp tục nhìn người đàn ông thở hấp hối, cứ thế trong độ một phút. Rồi hắn ta chết.
Hiệp sĩ đẹp trai cúi xuống, lau lưỡi dao vào tất của người đó, và lau chỗ giày dính máu vào cái áo chẽn bằng da. Rồi anh ta gật đầu với Chris và Kate.
Và họ bước vào nhà thờ Sainte-Mère.
*Bên trong ngập khói. Nền nhà là cả một khoảng không rộng lớn; còn chưa có ghế băng hay ghế tựa gì cho tới tận hai trăm năm nữa. Họ đứng ở phía sau, cùng với hiệp sĩ đẹp trai, người có vẻ rất bằng lòng chờ đợi. Ở một góc, họ thấy vài người lính đang túm tụm thì thầm.
Một hiệp sĩ mặc giáp trụ đơn độc đang quỳ gối giữa nhà thờ và cầu nguyẹn.
Chris quay người lại để nhìn mấy hiệp sĩ kia. Họ dường như đang tranh luận gì đó rất căng thẳng; những lời thì thầm của họ đầy vẻ giận dữ, nhưng anh không thể hình dung ra là họ đang nói về cái gì.
Trong khi họ đang đứng đợi, Chris thấy có gì đó nhỏ giọt lên vai mình. Ngước nhìn lên, anh thấy một người đàn ông treo lơ lửng ngay trên đầu mình, đang chầm chậm xoay xung quanh một sợi dây. Nước tiểu chạy xuống từ chân anh ta. Chris bước lùi khỏi bức tường và thấy nửa tá xác nữa, tay bị trói quặt sau lưng, treo trên những sợi thừng buộc vào lan can tầng hai. Ba xác mặc quân phục đỏ của Oliver. Hai cái xác khác mặc đồ thường dân rách nát. Và cái xác thứ ba là bộ áo chùng trắng của một thầy tu. Hai người nữa ngồi trên sàn nhà, lặng lẽ nhìn thêm nhiều sợi thừng nữa được buộc lên trên; họ thụ động, rõ ràng đã phó mặc cho số phận.
Ở giữa phòng, người đàn ông mặc giáp trụ làm dấu thánh và đứng dậy. Hiệp sĩ đẹp trai nói, “Thưa ngài Arnaut, đây là các trợ lý.”
“Hả? Anh vừa nói gì? Trợ lý?”
Hiệp sĩ quay người lại. Arnaut de Cervole khoảng ba mươi lăm tuổi, người đanh lại, khuôn mặt nhỏ, xảo quyệt một cách khó chịu. Ông ta có tật trên mặt, mũi cứ chun lại khiến ông ta có cái vẻ của một con chuột đang khịt mũi. Áo giáp dính đầy máu. Ông ta nhìn họ với ánh mắt chán nản, lười nhác. “Anh nói họ là trợ lý à, Raimondo?”
“Vâng, thưa ngài. Trợ lý của Học giả Edwardus.”
“À.” Arnaut đi quanh họ. “Sao họ ướt thế?”
“Chúng tôi đã kéo họ lên từ dưới sông, thưa ngài,” Raimondo nói. “Họ đang ở trong cối xay và đã thoát ra vào phút cuối.”
“Ô thế à?” Arnaut chẳng còn thấy tẻ nhạt chút nào nữa. Mắt ông ta sáng lên đầy thích thú. “Mong hai người nói ta hay, làm thế nào hai người phá hủy được cối xay thế?”
Chris đằng hắng và nói, “Thưa ngài, chúng tôi không làm thế.”
“Ô?” Arnaut cau mày. Ông ta nhìn sang bên người hiệp sĩ kia. “Tiếng gì thế này? Hắn đúng là không thể hiểu nổi.”
“Thưa ngài, họ là người Ai Len, hay có lẽ là người Hebrides.”
“Ô? Thế họ không phải người Anh rồi. Thế là họ tốt phúc lắm đấy.” Ông ta đi vòng quanh họ, rồi nhìn chằm chằm vào mặt họ. “Anh có hiểu ta nói gì không?”
Chris nói, “Có, thưa ngài.” Dường như nói thế thì ông ta hiểu được.
“Anh có phải người Anh không?”
“Không, thưa ngài.”
“Đúng thật, anh chẳng có vẻ gì là thế hết. Anh trông thật hiền lành và chẳng hiếu chiến chút nào.” Ông ta nhìn Kate. “Anh ta trông tươi trẻ như một thiếu nữ vậy. Và người này…” Ông ta bóp mạnh bắp tay của Chris. “Anh ta là một thư lại hay một thầy tu gì đó. Chắc chắn anh ta không phải là người Anh.” Arnaut lắc đầu, mũi chun lại.
“Vì lũ người Anh rất man rợ,” ông ta nói to, giọng vang vọng khắp nhà thờ đầy khói. “Mọi người đồng ý chứ?”
“Chúng tôi đồng ý, thưa ngài,” Chris nói.
“Lũ người Anh chẳng biết phải sống thế nào chỉ suốt ngày bất mãn và gây sự không ngừng. Chúng luôn giết vua của chính mình; đó là tục lệ dã man của bọn chúng. Những người anh em Norman của chúng ta đã thu phục bọn chúng và đã cố dạy bọn chúng biết thế nào là văn minh, nhưng dĩ nhiên là họ đã thất bại. Máu bọn Saxon man rợ đến thâm căn cố đế rồi. Bọn Anh thích thú với việc phá hủy, giết chóc và tra tấn. Không hài lòng với việc đánh lẫn nhau trên cái hòn đảo lạnh giá khốn khổ của mình, chúng mang quân đội tới đây, tới mảnh đất thịnh vượng và thanh bình này, gieo rắc tai họa lên những người dân chân chất. Mọi người đồng ý chứ?”
Kate gật đầu, nghiêng mình.
“Hẳn phải đồng ý,” Arnaut nói. “Sự tàn bạo của bọn chúng thì không ai địch nổi. Mọi người biết vị vua trước đây của chúng chứ? Edward đệ nhị ấy? Mọi người biết chúng đã chọn cách nào để ám sát ông ta chứ, với một thanh cời nóng? Làm thế, với một vị vua? Chẳng mấy kỳ lạ khi bọn chúng đối xử với đất nước chúng ta bằng sự tàn bạo thậm chí còn dã man hơn.”
Ông ta đi đi lại lại. Rồi quay lại chỗ họ.
“Và người lên cầm quyền tiếp theo, Hugh Despenser. Theo phong tục của bọn Anh, ông ta cũng phải bị giết. Mọi người biết bằng cách nào không? Ông ta bị trói vào một cái thang đặt giữa quảng trường công cộng, phần kín của ông ta bị cắt rời ra và bị đốt ngay trước mặt ông ta. Và việc đó xảy ra trước khi ông ta bị chém đầu! Thế nào? Charmant35.”
Ông ta lại nhìn về phía họ để chờ sự đồng cảm. Lại lần nữa họ gật đầu.
“Và giờ vị vua mới nhất đây, Edward đệ tam, đã học được một bài học từ các bậc tiền bối – là ông ta phải liên miên gây chiến, nếu không sẽ chết dưới tay dân chúng của mình. Thế là ông ta cùng thằng con hèn nhát, Hoàng tử xứ Wales, đã mang cái thói man rợ của mình tới Pháp, một đất nước chưa hề trải qua chiến sự dã man cho đến khi chúng tới đất này với đám kỵ binh càn quét của chúng, giết hại dân thường, cưỡng đoạt phụ nữ của chúng ta, sát sinh súc vật, phá hại ruộng vườn, hủy diệt các thị trấn và chấm dứt nghề buôn của chúng ta. Vì cái gì? Để cho cái thứ đầu óc khát máu người Anh kia có thể được lan ra ngoài lãnh thổ của chúng. Để chúng có thể đánh cắp tài sản của một đất nước đáng trọng vọng hơn. Để tất cả các phu nhân người Anh có thể đãi khách bằng những món ăn Pháp. Để chúng có thể tự xưng là những hiệp sĩ anh dũng, trong khi chúng chẳng làm gì can đảm hơn là đâm trẻ con đến chết.”
Arnaut ngừng cơn thịnh nộ của ông ta và nhìn qua lại mặt bọn họ, mắt đảo không ngừng, đầy vẻ ngờ vực. “Và đó là lý do,” ông ta nói, “ta không hiểu tại sao hai người lại nhập vào phía bọn lợn Anh, thằng Oliver ấy.”
Chris nói nhanh, “Không phải thế đâu, thưa ngài,”
“Ta không có nhiều kiên nhẫn đâu. Nói thật đi: các người giúp cho bên Oliver, vì thầy các người đang phục vụ cho hắn.”
“Không đâu, thưa ngài, Học giả bị bắt ép.”
“Bắt… bị…” Arnaut vung hai tay lên đầy tức tối. “Ai có thể nói ta nghe cái thằng chết trôi này đang nói gì không?”
Vị hiệp sĩ đẹp trai tiến lại gần họ. “Tiếng Anh của tôi khá tốt,” anh ta nói. Đến tai Chris: “Noái lại đi.” Nói lại đi.
Chris ngừng lại, nghĩ một chút rồi nói, “Học giả Edwardus…”
“Vâng…”
“… là tù nhân.”
“Tù-nhâân?” Hiệp sĩ đẹp trai cau mày, lúng túng. “Tùù-nhâân?”
Chris có cảm giác là tiếng Anh của vị hiệp sĩ này không giỏi như anh ta nghĩ. Anh thử lại bằng tiếng Latin, thật tệ và thật cổ. “Est in carcere – captus – heri captus est de coenobio sanctae Mariae.” Anh hy vọng rằng nó sẽ có nghĩa là, “Ông ấy đã bị bắt khỏi Sainte-Mère vào lúc sáng qua.”
Hiệp sĩ nhướng mày. “Lời mời?” Mà ông ta không muốn?
“Thật thế, thưa ngài.”
Hiệp sĩ nói với Arnaut, “Họ nói là Học giả Edwardus bị đưa khỏi tu viện vào ngày hôm qua trong khi ông ấy không hề muốn và giờ đang là tù nhân của Oliver.”
Arnaut nhanh chóng quay người lại, nhìn sát vào mặt họ. Với giọng trầm, dầy hăm dọa: “Sed vos non capti estis. Nonne?” Thế mà các người lại không bị bắt?
Chris lại ngừng lại. “Ừm, chúng tôi…”
“Oui?”36
“Không, không, thưa ngài,” Chris nói vội. “Non.37 Chúng tôi đã trốn được. Ừm, ef – effugi – i – imus. Effugimus.” Có phải đúng từ đấy không nhỉ? Anh vã mồ hôi vì căng thẳng.
Rõ ràng là cũng khá đúng, vì hiệp sĩ đẹp trai đã gật đầu. “Họ nói là họ đã trốn ra.”
Arnaut nạt, “Trốn? Trốn khỏi đâu?”
Chris: “Ex Castelgard heri…”
“Mấy người trốn khỏi Castelgard vào tối hôm qua à?”
“Etiam, mi domine.” Vâng, thưa ngài.
Arnaut nhìn anh chằm chằm, không nói gì suốt một lúc lâu. Trên lan can tầng hai, những người đàn ông lúc nãy đã bị thắt dây thừng quanh cổ và bị đẩy xuống. Trọng lực không làm gãy cổ họ, nên là họ cứ bị treo thế, kêu lên những tiếng tắc nghẹn và rên rỉ chờ chết dần.
Arnaut ngước nhìn họ như thể cảm thấy khó chịu vì bị những tiếng kêu hấp hối kia làm ngắt quãng. “Còn vài sợi thừng nữa,” ông ta nói. Ông ta quay lại nhìn họ. “Ta sẽ moi được sự thật từ mấy người thôi.”
Chris nói, “Tôi đã nói sự thật, thưa ngài.”
Arnaut xoay gót. “Các người đã nói chuyện với thầy tu Marcel trước khi ông ta chết chưa?”
“Marcel?” Chris cố hết sức trông có vẻ băn khoăn. “Marcel, thưa ngài?”
“Phải, phải. Marcel. Cognovistine fratrem Marcellum?” Ngươi có biết đạo hữu Marcel không?
“Không, thưa ngài.”
“Transitum ad Roccam Cognitum habesne?” Câu này Chris chẳng cần đợi dịch: Ngươi biết lối đi bí mật dẫn vào La Roque chứ?
“Lối đi… transitum…” Chris lại nhún vai, giả không biết. “Lối đi… Dẫn đến La Roque? Không, thưa ngài.”
Arnaut trông rõ ràng là không tin. “Có vẻ như ngươi chẳng biết gì hết.” Ông ta gí sát mặt vào họ, mũi chun lại, làm người ta có cảm giác là ông ta đang ngửi họ. “Ta nghi ngờ các ngươi. Thực tế, các ngươi chỉ là những kẻ dối trá.”
Ông ta quay sang vị hiệp sĩ đẹp trai, “Treo một tên lên, để tên còn lại nói.”
“Ai, thưa ngài?”
“Hắn,” Arnaut nói, chỉ về phía Chris. Ông ta nhìn Kate, véo má, rồi vuốt ve cô. “Vì cậu bé dễ thương này đã làm ta mủi lòng. Tối nay ta sẽ tiếp đãi cậu ta trong lều. Ta sẽ không để phí phạm cậu ta quá sớm đâu.”
“Được thôi, thưa ngài.” Hiệp sĩ đẹp trai quát ra lệnh, và từ trên tầng hai, mấy người đàn ông đã bắt đầu làm một sợi thừng khác. Những người khác tóm lấy cổ tay Chris và nhanh chóng trói quặt ra sau lưng anh.
Chris nghĩ, Chúa ơi, chúng sắp làm thế rồi. Anh nhìn Kate, mắt cô đang mở to đầy kinh hãi. Mấy người đàn ông bắt đầu kéo Chris đi.
“Thưa ngài,” một giọng nói cất lên từ trong góc. “Mong ngài xét cho.” Đám đông hiệp sĩ đang đứng đợi giờ rẽ ra, và phu nhân Claire xuất hiện.
*Claire nhẹ nhàng nói, “Thưa ngài, tôi mong được nói riêng với ngài một chuyện.”
“Gì? Dĩ nhiên rồi, theo ý cô thôi.” Arnaut đi về phía cô ta, và cô ta thì thầm vào tai ông ta. Ông ta ngẫm nghĩ, lắc đầu. Cô ta thì thầm lần nữa, quả quyết hơn.
Sau một lát, ông ta nói, “Gi? Làm thế thì được gì?”
Thêm nhiều tiếng thì thầm. Chris chẳng nghe được gì hết.
Arnaut nói, “Phu nhân, ta đã quyết định rồi.”
Lại thêm nhiều tiếng thì thầm nữa.
Cuối cùng, vừa lắc đầu, Arnaut vừa tiến về phía họ. “Phu nhân đây tìm kiếm con đường an toàn từ chỗ ta tới Bordeaux. Cô ấy nói rằng cô ấy biết mấy người, và rằng các ngươi là những người trung thực.” Ông ta ngừng lại. “Cô ấy nói rằng ta nên thả các ngươi ra.”
Claire nói, “Chỉ khi ngài muốn làm thế, thưa ngài. Vì tất cả mọi người đều biết rằng những người Anh đều chém giết vô tội vạ, trong khi người Pháp lại không thế. Người Pháp thể hiện lòng nhân từ được bắt nguồn từ sự thông minh và nòi giống tốt đẹp.”
“Thật đúng thế,” ông ta nói. “Đúng là người Pháp chúng ta đều là những người văn minh. Và nếu hai người này không biết gì về đạo hữu Marcel và lối đi bí mật, thì ta cũng chẳng có việc gì cho họ nữa. Và như ta nói đây, cho họ ngựa và đồ ăn rồi cho họ đi. Ta rất vui nếu được Học giả Edwardus của mọi người yêu mến, nên hãy chuyển lời vấn an tới ông ấy, và cầu Chúa sẽ giúp mọi người thượng lộ bình an gặp lại ông ấy. Thế nên hãy đi đi.”
Phu nhân Claire cúi đầu.
Chris và Kate cúi đầu.
Hiệp sĩ đẹp trai cắt dây trói cho Chris và dẫn họ ra ngoài. Chris và Kate bất ngờ trước tình thế đảo ngược này đến nỗi chẳng nói được gì khi quay lại phía dòng sông. Chris thấy run hết cả người còn đầu thì choáng váng. Kate cứ xoa mặt, như đang cố tỉnh lại.
Cuối cùng vị hiệp sĩ cũng nói, “Hai người đã nợ một phu nhân thông minh tính mạng của mình đấy.”
Chris nói, “Quả vậy…”
Hiệp sĩ đẹp trai cười mím miệng.
“Chúa mỉm cười với hai người,” vị hiệp sĩ nói.
Anh ta chẳng có vẻ gì là vui vẻ khi nói như vậy.
*Quang cảnh bên sông đã hoàn toàn biến đổi. Người của Arnaut đã chiếm được cối xay, giờ cờ xanh lá cây pha đen đang bay phần phật trên tháp. Cả hai bên bờ sông đều đầy ngập các kỵ sĩ của Arnaut. Giờ một dòng người và quân trang đang diễu hành lên con đường dẫn tới La Roque, làm tung lên cả một đám mây bụi. Có những người kéo theo những cỗ xe ngựa chất đầy lương thực, xe chở những người phụ nữ trò chuyện luôn miệng, trẻ em rách rưới, và các cỗ xe khác chất đầy những thanh gỗ khổng lồ – những cỗ máy bắn đá được tháo rời, để quăng đá và đuốc cháy qua những bức tường thành.
Vị hiệp sĩ đã kiếm cho họ một đôi ngựa – hai con ngựa bé tí xác xơ, vẫn còn vết đeo ách. Dẫn mấy con vật đi, anh ta đưa họ qua trạm kiểm soát.
Một vụ ầm ĩ nổ ra bên bờ sông làm Chris phải quay lại nhìn. Anh thấy một tá đàn ông đang lội xuống nước đến đầu gối, vật lộn với một khẩu thần công nạp đạn ở khóa nòng, làm bằng sắt, với một khối gỗ để làm giá đỡ. Chris chăm chú nhìn, hoàn toàn bị cuốn hút. Chẳng khẩu thần công nào ở thời này còn tồn tại hết, thậm chí miêu tả cũng không.
Tất cả mọi người đều biết pháo thô sơ đã được sử dụng vào thời này; các nhà khảo cổ học đã đào được những quả đạn pháo từ di chỉ của trận Poitiers. Nhưng họ tin rằng súng thần công rất hiếm, và chủ yếu chỉ để trưng ra – khoe mẽ thôi. Nhưng nhìn những người đàn ông kia đang vật lộn dưới sông để nâng nòng pháo lên và đặt nó lên một cỗ xe, anh đã thấy rằng bằng ấy nỗ lực rõ ràng không bao giờ lại bị bỏ phí vào một thứ chỉ có mỗi tác dụng tượng trưng. Khẩu thần công rất nặng; nó làm chậm bước tiến của cả đoàn quân mà rõ ràng là đang muốn tới La Roque trước khi trời tối; chẳng có lý do nào buộc khẩu thần công phải được chuyển đến sớm cả. Nỗ lực hiện tại chỉ có ý nghĩa duy nhất là khẩu thần công sẽ đóng vai trò quan trọng trong cuộc tiến công.
Nhưng bằng cách nào? Anh băn khoăn. Những bức tường thành của La Roque dày tới hơn ba mét. Một quả đạn đại pháo chẳng thể xuyên qua chúng được.
Hiệp sĩ đẹp trai chào nhanh và nói, “Chúa ban phúc phận và an lành đến cho hai người.”
“Chúa ban phúc và mọi điều tốt lành đến cho anh,” Chris đáp lại, và hiệp sĩ vỗ vào mông hai con ngựa, rồi họ phóng đi, về hướng La Roque.
*Vừa cưỡi ngựa, Kate vừa nói với Chris về những gì họ đã tìm thấy trong phòng của Marcel, và về nhà nguyện xanh.
“Cô có biết nhà nguyện này ở đâu không?” Chris nói.
“Có. Tôi đã thấy nó trên một tấm bản đồ trong những lần khảo sát. Nó ở Bắc La Roque khoảng nửa dặm. Có một con đường trong rừng có thể dẫn ta tới đó.”
Chris thở dài. “Thế là chúng ta đã biết đường hầm bí mật đó ở đâu,” anh nói, “nhưng André cầm miếng sứ, và giờ anh ấy chết rồi, có nghĩa là kiểu gì chúng ta cũng không rời khỏi đây được.”
“Không đâu,” cô nói. “Tôi giữ miếng sứ.”
“Cô giữ thật á?”
“André đưa nó cho tôi, lúc ở trên cầu. Tôi nghĩ anh ấy đã biết rằng mình sẽ không thể sống sót mà thoát ra được. Anh ấy đã có thể chạy trốn và tự cứu mình. Nhưng anh ấy không làm thế. Anh ấy ở lại và cứu tôi.”
Cô rưng rưng khóc.
Chris lặng lẽ cưỡi ngựa tiến lên, chẳng nói gì hết. Anh nhớ lại sự nhiệt huyết của Marek đã luôn làm những nghiên cứu sinh khác thấy nực cười – “Anh có tin được không? Anh ấy thực sự tin vào cái thứ tinh thần hiệp sĩ ngớ ngẩn đó!” – và việc họ đã cho những hành động của anh ta là một dạng khoe mẽ quái đản. Một vai hề, một hành vi giả tạo. Vì vào cuối thế kỷ hai mươi này, anh không thể nghiêm túc bắt người khác tin rằng anh tin vào danh dự và sự chân thật, cùng với sự trinh trắng của thân thể, hành động bảo vệ phụ nữ, sự thiêng liêng của tình yêu đích thực, và tất cả những thứ còn lại.
Nhưng hiển nhiên là André đã thực sự tin tưởng vào điều đó.
*Họ đi qua một vùng đất thật kinh hoàng. Mặt trời yếu ớt nhạt nhòa trong khói bụi. Đây đó có những giàn nho, nhưng dây leo đều bị cháy rụi, để lại những cái gốc bé tẹo sần sùi xấu xí, khói bốc nghi ngút lên trời. Những vườn cây ăn quả cũng trở nên đen kịt và thật hoang tàn, chỉ còn là những thân cây trơ trọi. Tất cả mọi thứ đều đã bị cháy rụi.
Khắp xung quanh, họ nghe thấy những tiếng kêu đau đớn của những người lính bị thương. Rất nhiều lính lui khỏi chiến tuyến giờ đã ngã gục bên đường. Vài người vẫn còn thở; những người khác đã xám ngoét cả rồi.
Chris đang dừng lại để lấy vũ khí từ một trong những xác chết kia, thì một người lính gần đó giơ tay lên và kêu thảm thiết, “Secors! Secors!”38 Chris đi về phía anh ta. Anh ta bị một mũi tên cắm sâu vào bụng, và một mũi khác trên ngực. Người lính mới ngoài hai mươi, và anh ta dường như đã biết rằng mình sắp chết. Nằm ngửa, anh ta nhìn Chris với ánh mắt van lơn, nói những từ Chris không thể hiểu nổi. Cuối cùng người lính chỉ tay vào miệng mình và nói. “Aquam. Da mihi aquam.”39 Anh ta khát; anh ta muốn uống nước. Chris chẳng còn cách nào khác, đành nhún vai. Anh chẳng có chút nước nào. Người đó tức giận, nhăn mặt, nhắm mắt lại, quay đi. Chris đi tiếp. Sau đó, khi họ đi qua những người đang kêu cứu, anh cứ đi tiếp mà không hề dừng lại. Anh chẳng thể làm được gì hết.
Họ có thể thấy La Roque ở phía xa, cao ngất bất khả xâm phạm trên đỉnh Dordogne. Và họ sẽ tới pháo đài đó trong vòng một tiếng nữa.
*Trong góc tối của nhà thờ Sainte-Mère, hiệp sĩ đẹp trai giúp André Marek đứng dậy. Anh ta nói, “Các bạn của anh đã đi rồi.”
Marek ho, và bám lấy cánh tay của vị hiệp sĩ để cố đứng vững khi cơn đau nhói lên dọc chân mình. Hiệp sĩ đẹp trai mỉm cười. Anh ta đã bắt được Marek ngay sau vụ nổ ở chỗ cối xay.
Khi Marek vừa trèo ra khỏi cửa sổ cối xay, hoàn toàn là do may mắn, anh ta rơi xuống một cái vũng đủ sâu để không bị đau. Và khi trồi lên khỏi mặt nước, anh ta thấy mình vẫn ở dưới chân cầu. Cái vũng tạo ra một dòng xoáy, thế nên dòng nước không thể đưa anh ta xuống hạ lưu được.
Marek đã cởi chiếc áo chùng thầy tu ra và ném nó trôi xuôi dòng khi cối xay bột nổ tung, gỗ và xác người bay tứ tung khắp mọi hướng. Một tên lính đổ nhào xuống nước gần chỗ anh ta, xác hắn ta xoay vòng vòng trong xoáy nước. Marek đang bò lên bờ thì một hiệp sĩ đẹp trai gí gươm vào cổ anh ta và ra hiệu cho anh ta tiến về phía trước. Marek vẫn đang mặc bộ đồng phục nâu đỏ và xám của lính Oliver, và anh ta bắt đầu lắp bắp tiếng Occitan, thề thốt rằng mình vô tội, mong được rủ lòng thương.
Hiệp sĩ nói đơn giản, “Yên lặng. Tôi đã thấy anh rồi.” Anh ta đã thấy Marek trèo ra khỏi cửa sổ cối xay, và tháo bộ áo choàng thầy tu ra. Anh ta đưa Marek về chỗ nhà thờ, gặp Claire và Arnaut. Đại Tư tế đang trong tâm trạng bực tức và rất khó chịu, nhưng Claire dường như có khả năng gây được chút ảnh hưởng nào đó với ông ta, kể cả trong trường hợp cô phản đối lại ý kiến của ông ta. Claire là người đã bắt Marek ngồi yên trong bóng tối khi Chris và Kate đi vào. “Nếu Arnaut có thể làm anh chống lại hai người kia, ông ta còn có thể tha cho anh và bạn anh. Nhưng nếu ba người các anh hội lại với nhau trước mặt ông ta, trong cơn tức giận ông ta có thể giết hết tất cả mọi người đấy.” Claire đã đạo diễn các sự việc tiếp theo. Và mọi chuyện đã diễn ra khá tốt đẹp.
Tới giờ là thế.
Giờ Arnaut nhìn anh ta đầy ngờ vực. “Thế các bạn của ngươi biết vị trí của đường hầm bí mật?”
“Họ biết,” Marek nói, “Tôi thề đấy.”
“Với lời nói của ngươi, ta đã tha mạng cho họ,” Arnaut nói. “Lời của ngươi, và quý cô đây, người đã đảm bảo cho ngươi.” Ông ta nhẹ hất hàm về phía phu nhân Claire, người đang nở nụ cười nhẹ nhàng đáp lại.
“Thưa ngài, ngài rất thông thái,” Claire nói, “vì treo một người có thể làm người bạn đứng nhìn phải động lưỡi. Nhưng thường thì, việc đó sẽ làm người bạn đứng nhìn ấy thêm quyết tâm mang bí mật đó xuống mồ. Và bí mật này quan trọng đến mức tôi mong ngài sẽ giữ nó nằm chắc chắn trong tay ngài.”
“Thế thì chúng ta sẽ đi theo hai người kia, xem họ dẫn chúng ta đến đâu.” Ông ta hất hàm về phía Marek. “Raimondo, hãy kiếm ngựa cưỡi cho con người đáng thương này. Và cho anh ta hai kỵ sĩ giỏi nhất hộ tống, còn anh sẽ đi theo sau.”
Hiệp sĩ đẹp trai cúi đầu, “Thưa ngài, nếu ngài muốn, tôi sẽ tự mình đưa anh ta đi.”
“Cứ làm thế đi,” Arnaut nói, “vì có thể là vẫn còn vài trò gian trá gì đó ở đây.” Và ông ta trao cho vị hiệp sĩ một cái nhìn đầy ẩn ý.
Trong khi đó, phu nhân Claire đã đi tới chỗ Marek và đặt tay anh ta thật trìu mến vào hai lòng bàn tay cô. Anh ta thấy có gì đó lạnh lạnh trong những ngón tay của cô, và nhận ra nó là một con dao găm nhỏ xíu, chỉ dài khoảng mười xăng ti mét. Anh ta nói, “Thưa phu nhân, tôi thực sự nợ cô rất nhiều.”
“Thế hãy cho tôi thấy anh sẽ đáp lại món nợ này thế nào, hiệp sĩ,” cô nói, nhìn thẳng vào mắt anh ta.
“Tôi chắc chắn sẽ làm thế, có Chúa chứng giám.” Anh ta luồn lưỡi dao xuống dưới lần áo chùng.
“Và tôi sẽ cầu Chúa cho ngài, hiệp sĩ,” cô nói. Cô chúi về trước và hôn nhẹ lên má anh ta. Vừa làm thế, cô vừa thì thầm, “Người hộ tống anh là Raimondo xứ Narbonne. Anh ta thích cắt cổ họng lắm. Khi anh ta biết được bí mật, cẩn thận đừng để anh ta cắt cổ họng anh, và cổ họng các bạn anh nữa.” Cô lùi ra xa, mỉm cười.
Marek nói, “Phu nhân, cô quá tốt bụng. Tôi sẽ khắc tâm ghi nhớ những lời tốt đẹp của cô.”
“Hiệp sĩ đáng kính, chúc anh thượng lộ bình an.”
“Phu nhân, cô sẽ luôn ở trong tâm trí của tôi.”
“Hiệp sĩ đáng kính, tôi muốn chúc…”
“Đủ rồi, đủ rồi,” Arnaut nói với giọng khó chịu, ông ta quay về phía Raimondo. “Giờ đi đi, Raimondo, vì cái thứ tình cảm thừa thãi này làm ta muốn ói.”
“Vâng thưa ngài.” Hiệp sĩ đẹp trai cúi đầu. Anh ta dẫn Marek tới cửa và bước vào khoảng sân ngập ánh nắng.