← Quay lại trang sách

07:34:49

“Tôi sẽ nói cho các vị biết cái vấn đề quái gở ở đây là gì,” Robert Doniger nói, trợn mắt nhìn cử tọa. “Vấn đề là làm quá khứ hồi sinh. Biến nó thành sự thật.”

Có hai thanh niên và một cô gái, họ đều ngồi thõng vai trên chiếc trường kỷ trong văn phòng gã. Họ ăn vận toàn một màu đen, mặc mấy cái áo jacket vai rúm ró trông cứ như chúng bị co lại sau khi giặt. Mấy người đàn ông thì tóc dài còn người phụ nữ thì tóc húi cua. Đây là những người làm truyền thông mà Kramer đã thuê. Nhưng Doniger nhận thấy rằng hôm nay Kramer lại ngồi đối điện với họ, có ý tách khỏi họ. Gã băn khoăn không biết liệu cô đã ngó qua tài liệu của họ chưa.

Việc đó làm Doniger bực mình. Dù gì đi nữa thì gã cũng chẳng thích báo giới. Và đây là lần thứ hai trong ngày gã phải gặp cái giống này rồi. Gã đã phải chịu lũ cứt thối PR lúc sáng, giờ là cái đống cứt thối này.

“Vấn đề là,” gã nói, “có ba mươi thành viên ban quản trị đến nghe bài phát biểu của tôi vào sáng mai. Tiêu đề bài phát biểu của tôi là ‘Triển vọng của Quá khứ’, và tôi chẳng có phương tiện trực quan thuyết phục nào để cho họ xem hết.”

“Hiểu rồi,” một thanh niên nói nhanh. “Đó chính là điểm khởi đầu của chúng ta ở đây, thưa ngài Doniger. Khách hàng muốn phục sinh quá khứ. Đó là việc chúng ta sẽ phải làm. Với sự giúp đỡ của cô Kramer, chúng tôi đã yêu cầu những quan sát viên của ngài thực hiện cho chúng tôi những bản mẫu video. Và chúng tôi tin rằng tư liệu này sẽ có được tác động xứng đáng…”

“Cứ xem xem,” Doniger nói.

“Vâng, thưa ngài. Có lẽ nếu chúng ta cho nhỏ đèn xuống một chút…”

“Cứ để đèn thế đi.”

“Được, thưa ngài Doniger.” Màn hình video trên tường sáng lên màu xanh da trời. Trong khi họ đang chờ hình ảnh hiện lên, một người đàn ông nói, “Chúng tôi thích lựa chọn đầu tiên này vì đấy là một sự kiện lịch sử nổi tiếng mà chỉ kéo dài có hai phút từ khi bắt đầu tới lúc kết thúc. Như ngài đã biết, rất nhiều sự kiện lịch sử diễn ra rất chậm chạp, đặc biệt là với cảm nhận của người hiện đại. Sự kiện này xảy ra rất nhanh. Không may là, nó lại diễn ra vào một ngày mưa.”

Màn hình hiện một hình ảnh xám, lờ mờ, những đám mây lơ lửng. Camera di chuyển ra xa để thu ảnh trên đầu một đám đông. Một người đàn ông cao lớn đang leo lên một cái bục gỗ thô sơ, không sơn vẽ gì hết.

“Gì thế? Một buổi treo cổ à?”

“Không,” cậu làm truyền thông nói. “Đó là Abraham Lincoln, ông ấy sắp sửa đọc bài diễn văn Gettysburg.”

“Thế à? Chúa ạ, ông ta trông thật thảm hại. Cứ như cái xác ấy. Quần áo thì nhàu nhĩ. Tay cứ thòi ra khỏi ống tay áo ấy.”

“Vâng, thưa ngài, nhưng mà…”

“Và giọng ông ta đấy à? Nghe cứ the thé ấy.”

“Vâng, thưa ngài Doniger, chưa ai từng được nghe giọng của Lincoln hết, nhưng đó là giọng thật…”

“Mấy người mất trí hết rồi à?”

“Không. Ngài Doniger…”

“Ôi, vì Chúa, tôi không dùng cái này được,” Doniger nói. “Chẳng ai muốn nghe Abraham Lincoln nói như Betty Boop40 hết. Các anh còn gì khác không?”

“Đây, thưa ngài Doniger.” Không hề bối rối, cậu thanh niên thay đĩa khác và nói, “Về đoạn phim thứ hai, chúng tôi đã sử dụng một cách tiếp cận khác. Chúng tôi muốn có cảnh hành động của một sự kiện lịch sử nổi tiếng nhưng lại một lần nữa, có lẽ tất cả mọi người đều biết. Thế nên đây là Giáng sinh, 1778, trên sông Delaware, nơi…”

“Tôi chẳng thấy cái mẹ gì cả,” Doniger nói.

“Vâng, tôi ngại là có hơi tối một chút. Đây là một cuộc vượt sông vào ban đêm. Nhưng chúng tôi đã nghĩ rằng George Washington vượt sông Delaware sẽ là một cảnh hay…”

“George Washington? George Washington ở đâu?”

“Ông ấy ở ngay đó,” cậu thanh niên nói, chỉ vào màn hình.

“Đâu?”

“Đó.”

“Ông ta là cái gã đang co ro chỗ đuôi thuyền á?”

“Đúng thế, và…”

“Không, không, không,” Doniger nói. “Ông ấy phải đứng chỗ mái chèo, như một vị đại tướng kia.”

“Tôi biết đấy là cách mà những bức tranh thường miêu tả ông ấy, nhưng chuyện thực sự xảy ra lại không phải thế. Ở đây ngài có thể thấy George Washington thật sự đã vượt…”

“Ông ta trông như bị say sóng ấy,” Doniger nói. “Cậu muốn tôi chiếu một đoạn phim George Washington bị say sóng à?”

“Nhưng sự thật là thế.”

“Vứt mẹ cái sự thật đấy đi.” Doniger nói, tiện tay quăng một trong số những cuộn băng hình của họ bay ngang căn phòng. “Mấy người có vấn đề gì vậy? Tôi không quan tâm tới sự thật. Tôi muốn có một cái gì đó lôi cuốn, hấp dẫn. Mấy người đang cho tôi xem một cái xác ướp di động và một con chuột chết trôi.”

“Ừm, chúng tôi có thể quay lại thảo luận…”

“Cuộc nói chuyện của tôi diễn ra vào ngày mai rồi,” Doniger nói. “Sẽ có ba thành viên ban quản trị rất quan trọng tới đây. Và tôi đã nói với họ rằng họ sẽ được thấy thứ gì đó rất đặc biệt.” Gã vung hai tay lên. “Chúa ạ.”

Kramer hắng giọng. “Thế dùng ảnh tĩnh thì sao?”

“Ảnh tĩnh?”

“Phải, Bob. Anh có thể lấy ra những khung hình riêng lẻ từ mấy đoạn phim này, và có thể rất có hiệu quả đấy,” Kramer nói.

“Ừ há, phải, có vẻ được đấy,” người phụ nữ làm truyền thông nói, đầu gục gặc.

Doniger nói, “Lincoln vẫn cứ trông nhăn nhúm.”

“Chúng ta sẽ dùng Photoshop để xóa những nếp nhăn ấy đi.”

Doniger nghĩ ngợi một lát. “Có lẽ,” cuối cùng gã cũng lên tiếng.

“Gì đi nữa,” Kramer nói, “anh cũng chẳng muốn cho họ thấy nhiều đâu mà. Ít thì hơn.”

“Được rồi,” Doniger nói. “Làm ảnh tĩnh đi, và cho tôi xem trong vòng một tiếng nữa.”

Những nhân viên truyền thông tản đi. Doniger chỉ còn một mình với Kramer. Gã đi lại phía sau bàn, đảo qua bài phát biểu của mình. Rồi gã nói, “Cô nghĩ nên để tên là ‘Triển vọng của Quá khứ’ hay ‘Tương lai của Quá khứ’?”

“ ‘Triển vọng của Quá khứ’,” Kramer nói. “Chắc chắn nên là ‘Triển vọng’.”

* 07:34:49

Được hai hiệp sĩ hộ tống, Marek phóng đi trong mịt mù bụi từ những chiếc xe chở đồ, và hướng về phía đầu hàng. Anh vẫn chưa thể thấy Chris hay Kate, nhưng cái nhóm nhỏ của anh đang di chuyển một cách rất nhanh chóng. Anh sẽ sớm đuổi kịp họ thôi.

Anh nhìn mấy hiệp sĩ ở hai bên. Raimondo bên trái, ưỡn thẳng, giáp trụ đàng hoàng, nụ cười nhạt. Bên phải, một chiến binh tóc muối tiêu cũng đầy đủ giáp trụ, rõ ràng là rất cứng cỏi và thiện chiến. Chẳng ai chú ý lắm đến anh, họ đã kiểm soát anh quá cẩn thận rồi. Đặc biệt là khi hai tay anh đã bị buộc lại, hai cổ tay chỉ cách nhau có hơn chục phân.

Anh cưỡi ngựa phóng đi, húng hắng ho giữa làn bụi. Cuối cùng anh cũng luồn được con dao găm từ dưới áo lên, và đặt nó dưới lòng bàn tay trong khi bám lấy cái mấu yên ngựa trước mặt mình. Anh cố đặt con dao sao cho những cử động lên xuống nhẹ nhàng của con ngựa có thể từ từ cắt đứt sợi dây trên cổ tay. Nhưng nói thì dễ hơn làm; con dao dường như lúc nào cũng ở sai vị trí, và dây trói thì mãi vẫn chưa được cắt ra. Marek liếc nhìn đồng hồ tính giờ trên cổ tay; nó ghi 07:31:02. Còn hơn bảy tiếng nữa thì hết pin.

Chẳng mấy chốc họ đã đi hết con đường ven sông và bắt đầu leo lên con đường ngoằn ngoèo đi qua ngôi làng của La Roque. Làng được xây trên những vách đá vắt vẻo trên dòng sông, những ngôi nhà gần như được làm hoàn toàn bằng đá, làm cho thị trấn có vẻ gì đó rất nghiêm trang và thống nhất, đặc biệt là bây giờ, khi tất cả mọi cửa ra vào và cửa sổ đều được đóng chặt để đề phòng chiến tranh.

Giờ họ đi giữa nhóm dẫn đầu đoàn quân của Arnaut, nhiều hiệp sĩ mặc giáp trụ hơn, mỗi người đều có gia đinh theo cùng. Người và ngựa trèo lên những con đường dốc rải sỏi, ngựa khụt khịt, hành lý chỉ chực đổ nhào khi đi lên. Những hiệp sĩ dẫn đầu có vẻ rất khẩn trương; rất nhiều xe hàng chở các phần vũ khí công thành. Rõ ràng là họ đã dự định sẽ công thành trước khi trời tối.

Họ vẫn đang trong thị trấn thì Marek thấy bóng Chris và Kate, đang khật khưỡng cạnh nhau trên lưng ngựa. Họ có lẽ ở cách chừng một trăm mét, thoắt ẩn thoắt hiện trên mỗi đoạn đường ngoằn ngoèo. Raimondo đặt tay lên cánh tay của Marek. “Chúng ta sẽ không tiến sát hơn nữa.”

Giữa đám bụi trước mặt, có lá cờ bay quá gần mặt một con ngựa. Con ngựa lồng lên, hí vang; một cỗ xe lật nhào, đổ hết đạn đại pháo ra, chúng cứ từ từ lăn hết xuống dưới đồi. Đây là giây phút hỗn loạn Marek đã mong chờ, và anh chớp luôn lấy thời cơ. Anh thúc ngựa, ngựa chẳng chịu đi. Rồi anh thấy hiệp sĩ tóc muối tiêu đã lanh lẹ giữ chặt lấy dây cương.

“Anh bạn,” Raimondo bình thản nói; phóng lên bên cạnh anh. “Đừng để tôi phải giết anh. Ít nhất, cũng chưa đến lúc đâu.” Anh ta hất hàm về phía tay Marek. “Và cất cái con dao ngớ ngẩn ấy đi, trước khi anh làm mình bị thương.”

Marek thấy má mình nóng bừng như bị bỏng. Nhưng anh vẫn làm theo; anh cất con dao găm nhỏ xuống dưới lần áo chùng. Họ lặng lẽ đi tiếp.

Từ đằng sau những ngôi nhà đá, họ nghe thấy tiếng chim kêu ầm lên hai lần liền. Raimondo quay ngoắt nhìn xung quanh khi anh ta nghe thấy nó; người đồng hành ở bên kia của anh ta cũng vậy. Hiển nhiên đó không phải là một con chim.

Những người đàn ông lắng tai nghe, và chẳng mấy chốc đã có tiếng kêu đáp lại từ phía xa trên đỉnh đồi. Raimondo đặt tay lên thanh kiếm, nhưng không làm gì khác nữa.

“Gì thế?” Marek nói.

“Không phải chuyện của anh.”

Và họ chẳng nói thêm gì nữa.

Những người lính đang bận túi bụi và chẳng chú ý gì đến họ hết, đặc biệt là khi yên của họ có màu xanh lá cây-đen của Arnaut. Cuối cùng họ cũng tới được đỉnh vách đá và đi vào một vùng đồng ruộng rộng mở, bên phải họ là tòa lâu đài. Cánh rừng ở gần ngay bên trái, và đồng cỏ rộng lán, thoai thoải trải rộng ra về hướng Bắc.

Trước tình hình lính của Arnaut ở khắp nơi xung quanh, Marek chẳng hề phấn chấn rằng mình chỉ cách vài mét từ cái hào ngoài và mấy trạm gác bên cửa vào lâu đài. Chris và Kate vẫn đang cách một trăm mét về phía trước, tít trên đầu.

Cuộc tấn công diễn ra nhanh đến bất ngờ. Năm kỵ sĩ phóng từ trong rừng ra cánh trái họ, hô to những tiếng xung trận và vung kiếm lên qua đầu. Họ phóng về phía Marek và những người kia. Đó là một cuộc phục kích.

Với một tiếng rú kinh hồn, Raimondo và hiệp sĩ tóc hoa râm rút kiếm ra chiến đấu. Những con ngựa xoay vòng lại; những lưỡi kiếm chạm nhau tóe lửa. Arnaut cũng tự mình phi nước đại lên trước và nhập vào trận đánh, hùng hổ tấn công. Marek trong chốc lát đã bị lờ đi.

Nhìn về phía hàng người, anh thấy một nhóm khác đã tấn công Kate và Chris. Marek liếc thấy chiếc lông chim đen của Guy, và rồi những tay kỵ sĩ đã bao vây hai người ấy. Marek thúc ngựa và bắt đầu phóng lên hàng đầu.

Ở phía trước, anh thấy một hiệp sĩ đã tóm được áo khoác của Chris và đang cố kéo anh xuống ngựa; một tên khác giật lấy dây cương ngựa của Kate, nó hí lên và xoay người lại. Một hiệp sĩ khác giật lấy dây cương của Chris, nhưng anh đá vào ngựa hắn để cho nó lồng lên; tên hiệp sĩ phải thả ra, nhưng người Chris đột nhiên đầy máu, anh thét lên vì bất ngờ. Chris không điều khiển con ngựa được nữa, nó hí vang và phóng thẳng vào rừng trong khi anh lệch sang một bên yên, yếu ớt bám lấy con ngựa. Trong giây lát, anh biến mất giữa những tán cây.

Kate vẫn cố giật dây cương ra khỏi tay hiệp sĩ đang giữ chặt lấy. Khắp nơi xung quanh họ đều là cảnh hỗn loạn; người của Arnaut gào thét và quây tròn lại, chạy đi lấy vũ khí, đâm vào những kẻ tấn công bằng những cây giáo. Một người đâm vào tay hiệp sĩ đang giữ ngựa của cô, và tay hiệp sĩ phải thả dây cương ra. Marek, dù không vũ khí gì, vẫn phóng thẳng vào giữa, bảo vệ Kate khỏi kẻ tấn công. Cô thét lên, “André!” nhưng anh nói với cô, “Đi! Đi!” đoạn anh thét lên, “Malegant!” và Guy quay ra đối mặt với anh ta.

Marek ngay lập tức phóng ngựa ra khỏi trận đánh, phi nước đại thẳng về phía La Roque. Những hiệp sĩ khác cũng quay ngựa lại và phá vòng vây khỏi những người lính kia, phi rầm rập qua cánh đồng đuổi theo sau Marek. Phía cuối hàng người, Marek nhìn thấy Raimondo và Arnaut đang chiến đấu giữa một đám mây bụi khổng lồ.

Kate thúc ngựa chạy về phía khu rừng ở hướng Bắc. Vừa phóng ngựa vừa nhìn lại phía sau, cô thấy Marek phóng qua cây cầu kéo của La Roque, vào trong lâu đài, và biến mất khỏi tầm nhìn. Những kỵ sĩ kia bám sát anh. Rồi những thanh chắn nặng trịch của cánh cổng sắt đổ ập xuống. Và chiếc cầu kéo được nhấc lên.

Marek đi rồi. Chris đi rồi. Một trong hai hoặc cả hai có thể đều đã chết rồi. Nhưng có một điều rõ ràng. Cô chính là người duy nhất còn tự do.

Giờ mọi việc phụ thuộc vào cô.