00:21:52
Trong phòng điều khiển, Stern quan sát những kỹ thuật viên nhúng lớp màng cao su màu nhạt vào một cái xô đầy keo dính, rồi đặt nó, vẫn đang chảy keo, vào thẳng miệng của tấm kính. Rồi họ gắn một cái ống cao áp vào và chỗ cao su bắt đầu nở ra. Trong giây lát, có thể thấy nó là một quả bóng khí tượng, nhưng rồi nó vẫn cứ nở ra; lớp cao su phình ra và mỏng dần, trở nên trong suốt, bao lấy những đường cong của tấm kính cho tới khi chạm tới mọi ngóc ngách của chiếc bể. Rồi những kỹ thuật viên đậy lại, ấn một chiếc đồng hồ định giờ, và đợi chất kết dính cứng lại.
Stern nói, “Mất bao lâu?”
“Hai mươi mốt phút nữa,” Gordon chỉ tay vào những bong bóng khí. “Nó thật đơn giản, nhưng rất có hiệu quả đấy.”
Stern lắc đầu. “Nó đã lởn vởn trong đầu tôi suốt cả tiếng qua.”
“Cái gì cơ?”
“Nổ tung,” anh nói, “Tôi cứ nghĩ mãi, chúng ta đang cố tránh cái gì ở đây cơ chứ? Và câu trả lời là, nổ tung. Như một cái xe ô tô, khi những cái lốp bị nổ. Tôi cứ nghĩ về chuyện nổ lốp xe. Và có vẻ rất kỳ cục, vì giờ nổ lốp là chuyện rất hiếm. Những chiếc xe đời mới không hề gặp phải chuyện này. Vì lốp xe loại mới có một lớp màng trong có thể tự vá lại được.” Anh thở dài. “Tôi cứ băn khoăn không biết tại sao chuyện lạ lùng này lại hiện ra trong đầu mình, và rồi tôi nhận ra rằng nó chính là giải pháp: có cách tạo ra màng dính ở đây.”
“Đây không phải là chất tự vá,” Kramer nói.
“Đúng thế,” Gordon nói, “nhưng nó làm kính dày thêm và giúp trải đều áp lực ra.”
“Đúng thế,” Stern nói.
Những kỹ thuật viên đã cho hết bóng khí vào trong bể, rồi đậy chúng lại. Giờ họ đang đợi keo cứng hết. Gordon liếc nhìn đồng hồ. “Còn ba phút nữa.”
“Thế mỗi bể thì mất bao lâu?”
“Sáu phút. Nhưng chúng ta có thể làm hai bể một lúc.”
Kramer thở dài. “mười tám phút. Chỉ vừa đủ thời gian thôi đấy.”
“Chúng ta sẽ làm được thôi,” Gordon nói. “Chúng ta có thể bơm nước vào với tốc độ lớn hơn.”
“Thế không làm tăng áp lực à?”
“Có. Nhưng chúng ta có thể làm được, nếu phải bắt buộc.”
Kramer nhìn lại lên màn hình điều khiển, trường tín hiệu vẫn đang chuyển động dạng sóng. Nhưng những đỉnh giờ đã rõ ràng hơn. Cô nói, “Tại sao trường từ lại thay đổi vậy?”
“Có thay đổi đâu,” Gordon nói mà không nhìn lại.
“Có mà,” cô nói. “Chúng có thay đổi đấy. Những đường gai càng lúc càng nhỏ hơn kia.”
“Nhỏ hơn?”
Gordon đi ra xem. Anh cau mày khi nhìn vào màn hình. Có bốn đỉnh, rồi ba, rồi hai. Rồi lại bốn, thật nhanh. “Nhớ nhé, những gì cô đang nhìn thấy thực ra là hàm phân phối xác suất,” anh nói. “Biên độ trường thể hiện xác suất các hiện tượng có thể xảy ra.”
“Nói tiếng Anh đi!”
Gordon nhìn chằm chằm vào màn hình. “Chắc chắn là ở đó đang có rắc rối. Và có là gì đi nữa, nó cũng đang thay đổi khả năng quay trở về của họ.”
* 00:15:02Chris vã mồ hôi. Anh vừa lẩm bẩm vừa lật cái xác bất động của tên lính lại, tiếp tục tìm kiếm. Anh đã mất mấy phút điên cuồng lục lọi bộ quân phục nâu đỏ pha xám của hai tên lính, cố tìm cái chìa khóa. Chiếc áo ngoài rất dài và bên trong, là áo chần bông; toàn thấy quần với áo hết lớp này đến lớp nọ. Cái chìa không thể bị giấu dễ thế được; Chris biết là ổ khóa cửa cái lồng cần có chìa dài khoảng chục phân, và làm bằng sắt.
Chris không thấy nó. Trên người tên lính đầu tiên không có, trên người tên lính thứ hai cũng không. Chửi thầm, anh đứng dậy.
Trong góc hầm, Arnaut và Oliver vẫn đang đánh nhau, hai thanh kiếm cứ chan chát không ngừng nghỉ. Marek đang đi dọc theo mấy bức tường, giơ một ngọn đuốc lên, tìm trong những góc tối của căn hầm. Nhưng anh cũng chẳng có vẻ gì là thành công.
Chris gần như có thể nghe thấy tiếng kim đồng hồ tích tắc trong đầu mình. Anh nhìn quanh, băn khoăn không biết một cái chìa khóa thì có thể giấu ở đâu được. Thật không may, anh đã nhận ra rằng nó có thể bị giấu ở khắp mọi nơi: treo trên một bức tường, hoặc bị giắt vào bên trong một ngọn đuốc. Anh đi lại chỗ cái tay quay và nhìn quanh nó. Và anh đã tìm thấy – một chiếc chìa khóa bằng sắt thật lớn, ở dưới chân cái tay quay. “Thấy rồi!”
Marek ngước lên, liếc nhìn chiếc đồng hồ tính giờ trên cổ tay trong khỉ Chris chạy vội về phía cái lồng và tra chìa khóa vào. Chiếc chìa vào thẳng được luôn, nhưng không hề xoay. Lúc đầu anh nghĩ nó bị tắc, nhưng sau khi vật lộn tới ba mươi giây, anh bắt buộc phải nghĩ rằng đây không phải chìa đúng. Bất lực và tức giận, anh ném cái chìa xuống đất. Anh quay về phía Giáo sư, đang bị khóa đằng sau chấn song.
“Em xin lỗi,” Chris nói, “Em thực sự xin lỗi.”
Như mọi khi, Giáo sư không có vẻ gì nao núng. “Thầy đang nghĩ, Chris ạ,” ông nói, “xem chính xác là mọi chuyện đã xảy ra như thế nào.”
“Vâng vâng…”
“Và thầy nghĩ là Oliver giữ nó,” Giáo sư nói. “Hắn đã tự tay khóa thầy lại. Thầy nghĩ là hắn giữ chìa khóa.”
“Oliver?”
Ở góc phòng, Oliver vẫn đang đánh nhau, dù hắn giờ đã thất thế rõ. Arnaut là một kiếm sĩ giỏi hơn, còn Oliver đã say và đang mệt lử. Cười đầy hiểm độc, Arnaut dồn Oliver dần ra phía cái hố với những đòn tấn công nhịp nhàng. Thế là Oliver, thở hồng hộc và mồ hôi chảy ròng ròng, tựa vào song sắt, quá mệt không thể đánh tiếp được nữa.
Arnaut từ tốn chĩa mũi kiếm vào cổ Oliver. “Nhân từ,” Oliver nói, thở hổn hển. “Tôi cầu xin lòng nhân từ.” Nhưng rõ ràng là hắn cũng chẳng mong chờ gì điều đó. Arnaut chầm chậm ấn thanh kiếm mạnh hơn. Oliver bật ho.
“Thưa ngài Arnaut,” Marek nói, tiến lên phía trước. “Chúng tôi cần chìa khóa mở lồng.”
“Gì? Chìa khóa nào? Lồng nào?”
Thở hổn hển, Oliver cười, “Ta biết nó đang ở đâu.”
Arnaut đâm gươm sâu hơn. “Nói ngay.”
Oliver lắc đầu. “Không bao giờ.”
“Nếu ngươi nói cho chúng ta,” Arnaut nói, “ta sẽ tha mạng cho ngươi.”
Nghe thế, Oliver quắc mắt nhìn lên. “Thật chứ?”
“Ta không phải thằng người Anh có thói phản bội, hai mặt,” Arnaut nói. “Đưa chúng ta chìa khóa, và ta thề với tư cách là một quý tộc Pháp thực thụ là ta sẽ không giết ngươi.”
Thở hồng hộc, Oliver nhìn Arnaut trân trân vài giây. Cuối cùng hắn đứng lên lại và nói, “Được rồi.” Hắn ném kiếm đi, lần tay vào dưới lớp áo, lấy ra một chiếc chìa khóa bằng sắt nặng trịch. Marek cầm lấy.
Oliver quay người về phía Arnaut. “Ta đã làm phần của ta rồi. Ngươi có phải là một người biết giữ lời không?”
“Quả thật,” Arnaut nói, “ta sẽ không giết ngươi…” Ông ta phóng vụt về phía trước, tóm lấy đầu gối của Oliver. “Ta sẽ tắm cho ngươi.”
Và ông ta quăng Oliver qua thanh chắn, xuống dưới hố. Oliver té nhào xuống làn nước đen bên dưới; hắn trồi lên khạc nhổ. Vừa chửi, hắn vừa bơi về góc hố và với tay tới chỗ những tảng đá để có điểm tựa. Nhưng chỗ đá quanh hố đen kịt những rêu nhờn. Tay của Oliver cứ trượt liên tục. Hắn không có chỗ nào bám được hết. Hắn bơi đứng, đập tay vô ích lên mặt nước. Hắn ngước nhìn Arnaut, chửi thề.
Arnaut nói, “Ngươi bơi có khá không?”
“Khá lắm, đồ con lợn Pháp.”
“Tốt,” Arnaut nói. “Thế thì ngươi sẽ được tắm lâu đấy.”
Thế rồi ông ta quay người đi khỏi cái hố. Gật đầu với Chris và Marek, ông ta nói, “Ta nợ các người. Cầu Chúa mãi mãi ban phúc cho các người.” Nói xong ông ta chạy vội đi nhập vào trận chiến. Họ nghe thấy tiếng bước chân của ông ta xa dần.
Marek mở khóa, và cửa chiếc lồng bật ra. Giáo sư bước ra ngoài. Ông nói, “Thời gian?”
“Mười một phút,” Marek hói.
Họ chạy vội ra khỏi hầm. Marek đang khập khiễng, nhưng anh ta vẫn cố đi cho nhanh. Đằng sau, họ nghe tiếng Oliver đập nước ầm ĩ.
“Arnaut!” Oliver thét lên, giọng hắn vang vọng giữa những bức tường đá. “Arnaut!”