← Quay lại trang sách

Miền nói dối

Robbie nói dối lần đầu tiên khi lên bảy. Mẹ cậu ta đưa một tờ tiền cũ xì nhàu nhĩ và sai con trai đi mua cho bà một bao thuốc Silk Cuts đầu lọc ngoài cửa hàng. Nhưng, Robbie lại đi mua kem. Cậu ta lấy lại tiền lẻ và giấu những đồng xu dưới một tảng đá trắng to ngoài vườn khu chung cư của gia đình mình. Khi bà mẹ hỏi chuyện gì đã xảy ra, cậu ta kể với bà là một gã thiếu niên đô con tóc đỏ chóe bị khuyết một cái răng cửa đã chặn đường để đánh và cướp tiền. Bà mẹ tin lời cậu con trai. Và kể từ đó, Robbie không ngừng nói dối. Khi học trung học, anh ta tha thẩn chơi ngoài bãi biển ở Eilat cả tuần sau khi kể cho người quản lý học sinh ở trường câu chuyện về một người cô sống tại Beer Sheba mới phát hiện bị ung thư. Hồi Robbie ở trong quân đội, bà cô tưởng tượng này bị mù và nhờ đó đã cứu anh ta thoát khỏi rầy rà to khi anh ta vắng mặt không phép. Không bị cấm túc, thậm chí chẳng bị cấm trại. Chẳng gì cả. Có lần, khi đến chỗ làm muộn hai tiếng, Robbie bịa ra câu chuyện về một con béc giê Đức nằm vật bên đường. Anh ta kể con chó đã bị xe cán phải, và anh ta đã đưa nó tới bác sĩ thú y. Trong lần nói dối này, con chó bị liệt hai chân, và Robbie mang nó tới chỗ bác sĩ thú y chỉ để biết rằng con chó sẽ không bao giờ cử động được hai chân sau nữa. Thế là đủ để được việc. Có vô vàn lời nói dối trong suốt con đường đời của Robbie. Những lời nói dối què quặt không tay, những lời nói dối bệnh hoạn, những lời nói dối tai hại, những lời nói dối có thể chết người. Nói dối khi đi bộ, nói dối khi ngồi sau tay lái, nói dối khi đang thắt nơ đen bảnh bao, và những lời nói dối có thể đánh cắp. Anh ta bịa ra chúng chỉ trong nháy mắt, không bao giờ nghĩ sẽ phải gặp lại chúng nữa.

Mọi chuyện bắt đầu với một giấc mơ. Một giấc mơ ngắn ngủi, mơ hồ về người mẹ đã mất. Trong giấc mơ này, hai mẹ con họ đang ngồi trên một tấm đệm rơm ở giữa một bề mặt màu trắng sáng dường như không đầu không cuối. Bên cạnh họ, trên bề mặt trắng vô hạn này là một cái máy bán kẹo cao su có phần đỉnh hình bong bóng, thứ máy kiểu cũ, bạn nhét một đồng xu vào khe, xoay tay cầm – và một cái kẹo cao su rơi ra. Và trong giấc mơ, bà mẹ Robbie nói với cậu con trai rằng thế giới bên kia đang làm bà nổi đóa, vì dân tình rất tử tế, nhưng ở đó chẳng hề có thuốc lá. Mà không chỉ không có thuốc lá, còn không cả cà phê. Không máy thu thanh. Chả có gì hết.

“Con cần phải giúp mẹ, Robbie,” bà nói. “Con phải mua cho mẹ một cái kẹo cao su. Mẹ đã nuôi nấng con, con trai. Suốt những năm đó mẹ đã dành cho con mọi thứ và không đòi hỏi điều gì. Nhưng giờ đã đến lúc đền đáp lại cho bà mẹ già của con. Mua cho mẹ một cái kẹo cao su nhé. Một cái màu đỏ, nếu con có thể, nhưng màu xanh dương cũng ổn.” Và trong mơ, Robbie loay hoay lục lọi khắp các túi áo túi quần, hy vọng tìm thấy chút tiền lẻ. Chẳng có xu nào. “Mẹ ơi, con chẳng có xu nào,” anh ta nói, đôi mắt ầng ậng nước. “Con không có tiền lẻ. Con đã tìm khắp các túi rồi.”

Robbie chưa bao giờ khóc khi thức, nên việc anh ta khóc trong mơ quả là lạ. “Con đã tìm dưới tảng đá chưa?” mẹ anh ta hỏi, và nắm chặt hai bàn tay cậu con trai. “Biết đâu những đồng xu vẫn còn đó thì sao?”

Và sau đó anh ta choàng tỉnh. Lúc ấy là 5 giờ sáng vào một ngày thứ Bảy, bên ngoài trời vẫn còn tối. Robbie chui vào xe và lái tới nơi anh ta từng sống khi còn bé. Đường xá vắng tanh, anh ta chỉ cần chưa tới hai mươi phút để tới đó. Ở tầng trệt tòa nhà, nơi từng là cửa hàng tạp hóa Pliskin, giờ có một cửa hàng tiện lợi và bên cạnh nó, thế chỗ tiệm sửa giày là một cửa hàng bán điện thoại di động đang tưng bừng mời chào những gói nâng cấp.

Nhưng bản thân tòa nhà không hề thay đổi. Hơn hai mươi năm đã trôi qua kể từ khi gia đình Robbie chuyển đi, tòa nhà thậm chí còn chưa được sơn lại. Khu vườn cũng vẫn thế, vài bông hoa, một vòi nước, một đồng hồ nước hoen gỉ, và cỏ dại. Góc vườn, cạnh những dây phơi quần áo, là tảng đá trắng, vẫn nằm nguyên đó.

Robbie đứng trong khu vườn phía sau tòa nhà, nơi anh ta đã lớn lên, mặc áo khoác có mũ, tay cầm một chiếc đèn pin nhựa lớn, và có cảm giác thật lạ lẫm. 5 giờ 30 phút sáng một ngày thứ Bảy. Giả dụ có một người sống ở đây xuất hiện – anh ta sẽ phải nói gì đây? Người mẹ quá cố của tôi hiện về trong giấc mơ và bảo tôi mua cho bà một cái kẹo cao su, vậy nên tôi tới đây tìm tiền lẻ chăng?

Thật lạ khi tảng đá vẫn còn ở đó sau bao nhiêu năm. Nhưng, nghĩ đi nghĩ lại thì, đá làm sao có thể tự đứng dậy mà bước đi được. Anh ta thận trọng nhấc nó lên, như thể có khả năng một con bọ cạp đang ẩn nấp bên dưới. Nhưng chẳng có con bọ cạp nào hết, không có rắn, và cũng chẳng có đồng xu nào. Chỉ có một cái hốc to bằng quả bưởi, và một quầng sáng phát ra từ bên trong hốc.

Robbie cố ghé mắt nhìn vào trong hốc, nhưng luồng sáng làm anh ta lóa mắt. Anh ta do dự trong một giây, rồi thò tay vào trong hốc. Nằm bệt xuống đất, anh ta đưa cả cánh tay xuống tới tận vai, cố chạm tới thứ gì đó dưới đáy. Nhưng chẳng có cái đáy nào cả, và thứ duy nhất anh ta nắm được là một thứ làm bằng kim loại lạnh ngắt, có vẻ là một cái tay cầm. Tay cầm của một cái máy bán kẹo cao su. Robbie xoay tay cầm mạnh hết sức có thể và cảm thấy nó nhúc nhích. Đây chính là khoảnh khắc cái kẹo cao su phải lăn ra ngoài. Đây chính là lúc cái kẹo đáng ra phải rơi từ trong lòng kim loại của cỗ máy xuống bàn tay cậu nhóc đang nóng lòng chờ nó xuất hiện. Đây là khoảnh khắc khi mọi thứ được trông đợi phải diễn ra. Nhưng chúng đã không xảy ra. Và ngay khi Robbie kết thúc việc xoay tay cầm, anh ta xuất hiện ở đây.

“Đây” là một nơi khác, nhưng cũng là một nơi quen thuộc. Đó là nơi từ trong giấc mơ của anh ta. Toàn màu trắng, không tường, không sàn, không trần, không ánh mặt trời. Chỉ có màu trắng và một cái máy bán kẹo cao su. Một cái máy bán kẹo cao su và một thằng nhóc tóc đỏ xấu xí nhễ nhại mồ hôi. Vì lý do nào đó, Robbie đã không để ý thấy cậu ta trước đó, và đúng lúc Robbie định mỉm cười với nó hay nói gì đó, thằng nhóc tóc đỏ đá vào ống chân anh ta mạnh hết sức bình sinh, và Robbie khuỵu xuống đất, oằn người lại vì đau. Khi Robbie quỵ xuống trên hai đầu gối, anh ta và thằng nhóc giờ đây cao bằng nhau. Thằng nhóc nhìn thẳng vào mắt Robbie, và dù biết họ chưa bao giờ gặp nhau, Robbie vẫn cảm thấy có gì đó quen thuộc ở cậu ta. “Mày là ai?” anh ta hỏi nó. “Tôi à?” thằng nhóc đáp, chưng ra một nụ cười đểu giả với một cái răng cửa bị khuyết. “Tôi là lời nói dối đầu tiên của ông.”

Robbie loạng choạng đứng lên. Chân anh ta đau như dần. Thằng nhóc đã biến mất từ lâu. Robbie xem xét cái máy bán kẹo cao su. Giữa những chiếc kẹo cao su tròn có những viên bi nhựa nửa trong suốt, bên trong đựng những món nữ trang rẻ tiền. Anh ta lục lọi khắp các túi tìm ít tiền lẻ, nhưng sau đó nhớ ra thằng nhóc đã giật mất ví của anh ta trước khi chạy đi.

Robbie tập tễnh bước đi, chẳng theo hướng cụ thể nào. Vì chẳng có phương tiện nào để đi trên bề mặt trắng, ngoại trừ cái máy bán kẹo cao su, nên tất cả những gì anh ta có thể làm là cố gắng rời xa khỏi nó. Cứ sau vài bước, anh ta lại quay người nhìn về phía sau để đoan chắc cái máy đang ở xa dần.

Đến một lần, anh ta quay lại và phát hiện thấy một con chó béc giê Đức đang đứng cạnh một ông già gầy khẳng khiu, đeo một mắt giả bằng thủy tinh và không có tay. Anh ta nhận ra ngay con chó qua cách nó nửa bò nửa lết lên phía trước, hai chân trước chật vật lê nửa sau bị liệt. Đó là con chó bị xe cán trong lời nói dối của anh ta. Nó thở hổn hển vì dốc sức và phấn khích, và rất hân hoan khi nhìn thấy Robbie. Con chó liếm tay Robbie và chăm chú nhìn anh ta với đôi mắt ươn ướt long lanh. Robbie không thể đoán ra nổi ông già gầy gò là ai.

“Tôi là Robbie,” anh ta nói.

“Tôi là Igor,” ông già tự giới thiệu, rồi vỗ vai Robbie bằng cái móc câu đeo trên tay.

“Chúng ta có quen nhau không nhỉ?” Robbie hỏi sau vài giây im lặng gượng gạo.

“Không,” Igor vừa nói vừa dùng một cái móc câu nhấc dây dắt chó lên. “Tôi có mặt ở đây chỉ vì nó. Nó đánh hơi thấy cậu từ cách xa hàng dặm và cuống lên. Nó muốn chúng tôi tới đây.”

“Vậy là không có mối liên hệ nào – giữa chúng ta phải không?” Robbie hỏi, cảm thấy nhẹ nhõm khi nói ra những lời này.

“Cậu và tôi ư? Không, chẳng có mối liên hệ nào hết. Tôi là lời nói dối của một người khác.”

Robbie thiếu chút nữa đã hỏi xem ông lão là lời nói dối của ai, song anh ta sợ câu hỏi có thể bị coi là thô lỗ tại nơi này. Về vấn đề nơi chốn, anh ta những muốn hỏi xem chính xác thì chỗ này là cái gì và liệu ở đó còn có nhiều người, hay nhiều lời nói dối, hay bất cứ cái gì bọn họ tự gọi mình, ngoài ông lão ra hay không. Nhưng anh ta nghĩ đây có thể là một chủ đề nhạy cảm và chưa nên nhắc đến nó vội. Thế là thay vì nói chuyện, anh ta vỗ về con chó tật nguyền của Igor. Đó là một con chó ngoan, và nó có vẻ hạnh phúc được gặp Robbie, lúc này đang thầm ước lời nói dối của mình chứa đựng ít đau đớn và khổ sở hơn.

“Cái máy bán kẹo cao su đó,” anh ta hỏi Igor sau vài phút trôi qua. “Nó nhận loại tiền xu nào nhỉ?”

“Lira,” ông già nói.

Robbie nói, “Vừa mới rồi ở đằng đó có một thằng nhóc. Nó lấy mất ví của tôi rồi. Nhưng dù nó không lấy thì trong đó cũng chẳng có đồng lira nào.”

“Thằng nhóc khuyết một cái răng phải không?” Igor hỏi. “Thằng ranh cặn bã đó, ai nó cũng ăn cắp. Nó thậm chí còn ăn cả đồ khô dành cho chó nữa. Ở chỗ tôi, ở Nga ấy, người ta sẽ túm gọn một thằng nhóc như nó rồi ném ra ngoài trời tuyết với độc đồ lót trên người, tới khi người nó tím ngắt, họ mới cho nó vào lại trong nhà.” Bằng một cái móc của mình, ông lão chỉ vào túi quần sau. “Ở đây tôi có vài đồng lira. Tự lấy đi. Coi như tôi trả.”

Robbie do dự, nhưng vẫn lấy một đồng lira từ trong túi quần ông lão ra, và sau khi cảm ơn ông già, anh ta đề nghị tặng ông cái đồng hồ đeo tay Swatch của mình để đổi lại.

“Cảm ơn,” ông lão gật đầu. “Nhưng tôi sẽ làm gì với một cái đồng hồ nhựa đây? Hơn nữa, tôi chẳng phải vội đi đâu cả.”

Khi thấy Robbie loay hoay tìm thứ gì khác để đưa cho mình, ông lão chặn anh ta lại và nói. “Dù sao tôi cũng nợ cậu. Nếu cậu không bịa ra chuyện nói dối về con chó, giờ tôi đã phải cô đơn lắm lắm. Thế nên giờ chúng ta hòa.”

Robbie tập tễnh quay lại nhanh nhất có thể về phía cái máy bán kẹo cao su. Anh ta vẫn còn đau điếng vì cú đá của thằng nhóc tóc đỏ, nhưng giờ đã đỡ hơn. Anh ta nhét đồng lira vào khe, hít một hơi thật sâu, nhắm mắt lại và xoay tay cầm.

Anh ta nhận ra mình đang nằm dài trên mặt đất trong khu vườn của tòa chung cư cũ nơi gia đình mình từng sống. Ánh sáng lúc rạng đông đang làm bầu trời chuyển sang những sắc thái khác nhau của màu xanh thẫm. Robbie rút tay ra khỏi cái hốc dưới đất. Và khi anh ta xòe bàn tay ra, bên trong là một cái kẹo cao su màu đỏ.

Trước khi rời đi, anh ta đặt tảng đá về đúng chỗ cũ. Anh ta chẳng hề tự hỏi mình về cái hốc và chính xác chuyện gì đã xảy ra dưới đó. Anh ta chỉ vào trong xe, lùi lại và lái đi. Cái kẹo cao su màu đỏ anh ta cho xuống dưới gối để dành cho mẹ mình trong trường hợp bà trở lại trong giấc mơ.

Thoạt đầu, Robbie nghĩ ngợi khá nhiều về chuyện đó, về nơi đó, về con chó, về ông lão Igor, về những lời nói dối khác anh ta đã nói ra nhưng may mắn không phải gặp lại. Còn có một lời nói dối kỳ cục anh ta đã nói với cô bạn gái cũ Ruthie khi không thể tới dùng bữa vào tối thứ Sáu tại nhà bố mẹ cô này – về cô cháu gái sống tại Natanyah bị chồng đánh đập, cũng như chuyện tay nọ đã dọa giết cô cháu thế nào, vậy là Robbie buộc phải tới để làm mọi thứ dịu xuống. Cho tới tận hôm nay, Robbie vẫn không hiểu vì sao anh ta lại bịa ra câu chuyện ngoắt ngoéo như thế. Có thể lúc đó anh ta nghĩ câu chuyện càng phức tạp và ngoắt ngoéo thì Ruthie càng dễ tin. Một số người khi né tránh các bữa ăn tối thứ Sáu thường nói họ bị nhức đầu hay chuyện gì đại loại thế. Nhưng anh ta thì không. Thay vì thế, vì anh ta cùng những câu chuyện của chính anh ta mà một gã chồng bệnh hoạn và một bà vợ tả tơi đang ở ngoài kia, cách không xa lắm, trong một cái hốc dưới đất.

Anh ta không quay trở lại chỗ cái hốc, nhưng điều gì đó ở nơi ấy ám ảnh anh ta. Thoạt đầu, Robbie tiếp tục nói dối, nhưng là những kiểu chuyện bịa trong đó không ai đánh ai, không ai bị què chân hay chết vì ung thư. Chẳng hạn: anh ta đi làm trễ vì phải tưới cây cho bà cô trong khi bà đi thăm cậu con trai thành đạt ở Nhật Bản. Hay: anh ta đến trễ một buổi tặng quà cho một bà mẹ tương lai vì một con mèo vừa đẻ trước cửa nhà anh ta và Robbie đành phải chăm lo cho lứa mèo con. Những chuyện kiểu đó.

Nhưng bịa ra chỉ toàn những lời nói dối tích cực là chuyện khó khăn hơn nhiều. Chí ít là trong trường hợp ta muốn chúng nghe đáng tin. Nói chung, nếu ta kể cho người khác điều gì đó tồi tệ, họ sẽ không thắc mắc gì, vì với họ đấy là chuyện bình thường. Nhưng khi bạn kể ra những chuyện tốt lành, họ liền nghi ngờ. Và thế là dần dần Robbie nhận ra anh ta cạn vốn bịa. Chủ yếu là do lười nhác. Và theo thời gian, anh ta ngày càng nghĩ về nơi đó ít hơn. Về cái hốc. Cho tới buổi sáng anh ta nghe lỏm Natasha ở phòng Kế toán nói chuyện với sếp của cô nàng. Ông bác Igor của cô này mới bị một cơn đau tim và cô cần nghỉ một thời gian. Ông bác tội nghiệp – một người góa vợ, vốn đã mất cả hai cánh tay trong một tai nạn ở Nga. Và bây giờ đến lượt quả tim của ông. Ông rất cô độc, không người giúp đỡ.

Ông trưởng phòng Kế toán cho cô nhân viên nghỉ phép ngay lập tức, không hỏi câu nào. Cô này quay về phòng làm việc của mình, lấy túi và rời tòa nhà. Robbie đi theo Natasha tới tận xe cô nàng. Khi cô này dừng lại để lấy chìa khóa từ trong túi ra, anh ta cũng dừng lại. Cô gái quay lại. “Anh làm bên Thu mua đúng không?” cô ta hỏi. “Có phải anh là trợ lý của Zaguri không?”

“Phải,” Robbie gật đầu nói. “Tên tôi là Robbie.”

“Chào Robbie,” Natasha nói với một nụ cười kiểu Nga bối rối. “Có chuyện gì thế? Anh cần gì sao?”

“Về lời nói dối cô vừa kể lúc trước với ông trưởng phòng Kế toán,” Robbie lắp bắp. “Tôi biết ông già đó.”

“Anh đi theo tôi tới tận xe của tôi chỉ để buộc tội tôi là kẻ nói dối sao?”

“Không,” Robbie nói. “Tôi không buộc tội cô. Thật đấy. Chuyện cô nói dối chẳng sao cả. Tôi cũng là một kẻ nói dối. Nhưng ông bác Igor trong câu chuyện của cô, tôi đã gặp ông ấy. Không thể lẫn được. Và cô – nếu cô không phiền nếu tôi nói thế – cô đã làm cho mọi thứ trở nên thật khó khăn với ông ấy. Vì vậy tôi chỉ muốn…”

“Anh có biến ra khỏi lối đi của tôi không đây?” Natasha lạnh lùng ngắt lời anh ta. “Anh đang chắn trước cửa xe tôi.”

“Tôi biết chuyện này nghe thật khó tin, nhưng tôi có thể chứng minh được,” Robbie nói, cảm thấy ngày càng khó xử. “Ông Igor này không có một mắt. Ý tôi là ông ấy có mắt, nhưng chỉ còn một bên thôi. Vào một thời điểm nào đó chắc cô đã bịa ra điều gì đó về chuyện ông ấy bị mất một bên mắt, phải không?”

Natasha đã chui vào trong xe, nhưng bỗng dừng lại. “Anh biết chuyện đó từ đâu hả? Có phải anh là bạn của Slava không?”

“Tôi chẳng biết Slava nào hết,” Robbie lẩm bẩm. “Chỉ Igor thôi. Thật đấy. Tôi có thể đưa cô tới gặp ông ấy.”

Họ đứng trong khu vườn đằng sau khu chung cư nơi anh ta từng sống. Robbie di chuyển tảng đá sang bên, nằm phục xuống mặt đất ẩm và đút cả cánh tay xuống cái hốc. Natasha đứng bên cạnh. Anh ta chìa cánh tay còn lại ra và nói. “Bám chặt vào.”

Natasha nhìn xuống người đàn ông đang nằm dài dưới chân cô. Ngoài ba mươi, đẹp trai, mặc một chiếc áo sơ mi trắng sạch sẽ là phẳng phiu, lúc này đã trở nên ít sạch và ít phẳng phiu hơn. Một cánh tay của anh ta tụt vào dưới hốc, má dán chặt xuống đất.

“Nắm chặt lấy,” anh ta nói. Và khi cô gái đưa tay ra nắm lấy tay anh ta, cô không đừng được băn khoăn rằng sao mình luôn gặp phải những kẻ dở hơi như thế. Khi anh chàng này bắt đầu với câu chuyện tào lao đó bên cạnh chiếc xe, cô đã nghĩ đó là một cách thú vị để bắt chuyện với cô, nhưng giờ cô hiểu ra anh chàng có đôi mắt dịu dàng và nụ cười bẽn lẽn đó thực sự là một kẻ gàn dở. Các ngón tay anh ta đan vào các ngón tay cô. Hai người cứ giữ nguyên tư thế đó, đông cứng, trong chừng một phút hay hơn, anh ta nằm dài dưới đất, cô đứng bên cạnh, hơi cúi người xuống, trông có vẻ bối rối.

“Được rồi,” Natasha thì thầm với giọng nhẹ nhàng, gần như của một chuyên gia trị liệu tâm lý. “Thế là chúng ta nắm tay nhau rồi. Giờ thì sao đây?”

“Bây giờ,” Robbie nói. “Tôi sẽ xoay tay cầm.”

Họ phải mất một hồi lâu để tìm ra Igor. Thoạt đầu, họ gặp một lời nói dối gù lưng, người đầy lông lá, hiển nhiên là người Argentina, tay này chẳng nói gì ngoài tiếng Tây Ban Nha. Rồi một lời nói dối khác của Natasha – một nhân viên cảnh sát nhiệt tình quá độ đội chiếc mũ cầu nguyện của người Do Thái khăng khăng giữ họ lại và đòi kiểm tra giấy tờ, nhưng chưa bao giờ nghe nói tới Igor. Cuối cùng, người giúp họ là cô cháu bị bạo hành sống tại Natanyah của Robbie. Hai người tìm thấy cô gái đang cho lứa mèo con trong lần nói dối gần nhất của anh ta ăn. Cô gái không thấy Igor từ vài ngày nay, nhưng cô biết phải tìm con chó của ông già ở đâu. Về phần con chó, sau khi kết thúc màn liếm bàn tay và mặt Robbie, nó hân hoan dẫn họ tới bên giường Igor.

Igor đang ở trong tình trạng rất tồi tệ. Nước da ông tái xám, và ông già đang vã mồ hôi nhễ nhại. Nhưng khi nhìn thấy Natasha, khuôn mặt ông sáng lên. Ông già phấn chấn tới mức ông nhấc mình dậy và ôm lấy cô, cho dù ông gần như không thể đứng nổi. Đến lúc đó, Natasha bắt đầu khóc và cầu xin ông tha thứ, vì giờ đây ông già Igor này không chỉ còn là một lời nói dối của cô mà còn là bác cô. Một ông bác hư cấu, nhưng dù sao vẫn là bác. Và Igor nói với cô rằng cô không nên áy náy làm gì, cuộc sống cô đã bịa ra cho ông tuy không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng ông trân trọng từng phút giây của nó, và Natasha không có gì phải lo lắng, vì so với vụ tai nạn tàu hỏa ở Minsk, vụ cướp ở Odessa, tia sét đã đánh trúng ông ở Vlapostock và bầy sói mắc bệnh dại ở Siberia, cơn đau tim này chẳng là gì hết. Và khi hai người quay lại chỗ chiếc máy bán kẹo cao su, Robbie nhét vào máy một đồng lira, cầm lấy tay Natasha và yêu cầu cô xoay tay cầm.

Sau khi hai người đã quay trở lại khu vườn, Natasha nhận ra cô đang cầm trên tay một viên bi nhựa với một món đồ trang sức bên trong: một lá bùa may mắn xấu xí màu vàng có hình trái tim.

“Anh biết không,” cô nói, “tôi định sẽ tới Sinai tối nay với một người bạn, ở đó vài ngày, nhưng tôi nghĩ tôi sẽ không đi nữa, và quay lại đây vào ngày mai để chăm lo cho Igor. Anh có muốn tới cùng không?”

Robbie gật đầu. Anh ta biết nếu muốn đi cùng cô gái, anh ta sẽ phải nghĩ ra một lời nói dối nữa tại văn phòng. Anh ta chưa dám chắc nó sẽ là về cái gì. Nhưng anh ta biết đó sẽ là một lời nói dối hạnh phúc, đầy ánh sáng, hoa và nắng. Ai mà biết được, có khi lại cả một, hai đứa bé nữa cũng nên, và chúng đang mỉm cười.