← Quay lại trang sách

Sợ phá Tam Giang và những xóm nước đen ở Huế

Phá Tam Giang là điểm đến tiếp theo của tôi. Chưa đến phá Tam Giang chưa thấu hết vẻ đẹp xứ Huế. Người ta vẫn thường bảo vậy khi đến Huế. Cũng đúng thôi, Huế đâu chỉ là mảnh đất cố đô với sông Hương mộng mơ và cung đình cổ kính.

Phá Tam Giang được biết tới là vùng đầm phá nước lợ lớn nhất ở khu vực Đông Nam Á. Một khu vực e ấp trong mình nhiều nét hoang sơ kì thú. Ngắm được bình minh hay hoàng hôn tại nơi này thì thật tuyệt, thi thoảng một con thuyền, một màn cất vó tung ra khoảng đầm mênh mông muôn vàn lấp lánh… tất cả cùng hòa quyện với nhau để làm nên một điểm đến ấn tượng cho du khách muốn tham quan xứ Huế.

Cùng với sự phát triển kinh tế, các nhà hàng quán xá mở ra nhiều hơn. Chợ cá cũng nhộn nhịp. Và mặt trái của hiện tượng ấy: tình trạng ô nhiễm thêm phần nghiêm trọng trên khu đầm phá rộng mênh mông này. Túi ni-lông, vỏ trái cây, bao tải… bị vứt tràn lan. Sát bờ đầm, những lớp rác thải, túi ni-lông, vật dụng lềnh bềnh nổi, mắc cả vào mái chèo.

Ô nhiễm dầu và bên cạnh đó là sự thay đổi lớn về diện tích mặt nước làm suy giảm nghiêm trọng nguồn lợi thủy hải sản. Cá tôm trong đầm không còn nhiều nữa, các quán xá ở đây cũng phải mua ở nơi khác về.

Hiện đang có khoảng 300.000 cư dân sinh sống ở 41 xã chung quanh phá. Đời sống của các hộ dân này gắn liền với khai thác trực tiếp hoặc gián tiếp nguồn tài nguyên trong đầm phá hoặc ven phá.

Không chỉ bị khai thác tận diệt, vùng đầm phá này còn bị đe dọa bởi phong trào nuôi tôm. Qua hơn mười năm, việc nuôi tôm hạ triều và nuôi chắn sáo của người dân ngày càng phát triển. Diện tích các hồ nuôi trồng thủy sản trên vùng đầm phá hiện nay trên 5.000ha và vẫn đang còn tiếp tục gia tăng. Qua mỗi mùa tôm, phá Tam Giang phải hứng chịu hàng triệu mét khối nước thải. Môi trường không đảm bảo tất yếu sẽ xảy ra những dịch bệnh không kiểm soát được và gây tác động xấu trở lại đối với cuộc sống của con người. Điều này đã liên tục xảy ra đối với những người dân nuôi tôm ở Thừa Thiên – Huế. Từ năm 2005 đến nay, dịch bệnh đốm trắng, vàng mang... đã gây ra tình trạng tôm chết hàng loạt ở các vùng nuôi tôm của các huyện Quảng Điền, Phú Vang, Phú Lộc, Hương Trà... Đã có lần, tỉnh Thừa Thiên – Huế tính đến phương án táo bạo: thay nước ở phá Tam Giang bằng cách xả nước ở hồ Truồi bởi tình trạng ô nhiễm do việc nuôi tôm của người dân đã đến mức báo động.

Ngày xưa muốn đến Huế, việc di chuyển hiểm trở, khó khăn. Người ta sợ phá Tam Giang (do ba con sông hợp lại: sông Ô Lâu, sông Bồ và sông Hương) bởi phá Tam Giang rất sâu, nguy hiểm cho tàu bè qua lại. Ngoài phá Tam Giang, người ta cũng bị truông Nhà Hồ đe dọa. Truông này chạy qua làng Hồ Xá, dài và vắng vẻ làm cho người đến Huế vô cùng e ngại:

Thương em, anh cũng muốn vô,

Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang

Nhưng giờ có lẽ người đi qua không sợ sâu mà sợ sự ô nhiễm. Tôi đã đọc được tất cả những thông tin đó trước khi đến Tam Giang của Huế. Điểm đầu tiên tôi ghé là khu chợ ở đây. Ống kính đã lắp sẵn sàng, tôi hăm hở tiến vào chợ. Bức ảnh đầu tiên tôi chụp là sự mâu thuẫn giữa một bên là biển cấm đổ rác nhưng bên cạnh toàn là rác thải và túi ni-lông. Một chị hồn nhiên đi vệ sinh ngay bên cạnh biển cấm.

Sau khu chợ Tam Giang là cảng cá Thuận An, Tân Lập, Tân Cảnh. Những nơi ấy bạt ngàn túi ni-lông. Dòng kênh nước quanh đây đen kịt, mùi hôi thối bốc lên… Tôi gặp anh Q., một người dân đang sống tại đây. Anh Q. tình nguyện làm hướng dẫn viên cho tôi. “Anh chưa đi đúng hôm gió thổi, nếu đúng ngày gió lên mùi rác nồng khắp trong không khí, không thể chịu nổi đâu. Nhà đóng kín cửa đến mấy thì thứ mùi kinh khủng ấy vẫn len lỏi vào được”.

Anh Q. dẫn tôi đến gần chỗ tàu neo đậu. Người dân cho hay: “Mỗi tàu cá xả đến cả tạ túi ni-lông, gần trăm con tàu đó chú thử tính xem? Chỉ khi nào nước lũ về nó mới trôi ra biển và đi về đâu không rõ nữa”.

Tôi cũng xin lên các tàu đánh cá, vừa để hỏi han tình hình, vừa để tìm điểm chụp những tấm ảnh chân thật nhất. Trước ống kính máy ảnh của tôi, ngư dân vẫn hồn nhiên quăng túi ni-lông xuống biển. “Chuyện thường ở đây anh ơi, anh chụp có mà hết cả ngày cũng không xuể”. Họ cười khà khà với nhau, họ chế giễu tôi. Và cứ mỗi lần giương ống kính lên, ngắm ấn chụp tôi lại thấy người mình run lên. Tôi luồn xuống dòng kênh nước đen, đặt ống kính sát nhất để chụp được bức ảnh thật nhất về độ ô nhiễm nước ở đây. Khi lên bờ, sự nhớp nháp, mùi hôi thối của dòng kênh làm tôi không sao chịu nổi. Tôi ói ra, mặt nhợt nhạt, anh Q. phải chở tôi về. Ngày hôm đó và xóm nước đen ở Huế là ký ức khủng khiếp mà tôi không bao giờ quên.

Thứ trưởng Bộ Tài nguyên – Môi trường Võ Tuấn Nhân cho rằng cùng với sự phát triển dân số và kinh tế, số lượng chất thải nhựa và túi ni-lông phát sinh tại Việt Nam gia tăng nhanh khủng khiếp. Ông Nhân cho biết, từ số liệu điều tra cho thấy lượng chất thải nhựa và túi ni-lông chiếm khoảng 8-12% trong chất thải rắn sinh hoạt.

Ước tính, mỗi năm nhân loại sử dụng khoảng 500 – 1.000 tỉ chiếc túi ni-lông. Túi ni-lông đang bị coi là một trong những “thủ phạm” nguy hiểm gây “ô nhiễm trắng” cho môi trường.

Qua bao cảng cá tôi từng đến, tôi nghĩ rằng đã đến lúc nhà nước cần có dự án về nâng cao ý thức cho ngư dân trong sử dụng các sản phẩm từ nhựa.

Vứt bỏ một túi ni-lông chỉ tốn một giây, nhưng nếu không có sự tác động bởi nhiệt độ cao của ánh sáng mặt trời thì phải mất từ 500 – 1.000 năm mới có thể phân hủy được.