Đức Phật
Hoàng tử Siddhattha nhìn theo hút bóng Channa phi ngựa trở về, dắt theo con tuấn mã Kanthaka của chàng. Chờ cho đến khi người ngựa khuất hẳn, chàng mới đi vào rừng.
Trong cánh rừng ấy có rất nhiều thiền viện của các nhà hiền triết. Siddhattha tìm tới họ xin học. Những điều họ dạy rất có ích, mở thêm cho chàng những cánh cửa về phía cuộc sống bình dân, về cách thu phục tín đồ và quản lý giáo đoàn. Nhưng không một ai chỉ được cho chàng con đường đạt tới việc xóa bỏ khổ đau, đạt tới giải thoát cuối cùng. Nghe nói ở xứ Magadha có nhiều triết gia giỏi, chàng bèn tìm đến.
Ngày nọ, chàng đi khất thực giữa kinh đô Rajagaha của vương quốc Magadha, ngang qua hoàng cung thì đại vương Bimbisaranhìn ra. Vua nhìn thấy một giáo sĩ lang thang trang phục quá đơn sơ nhưng nước da trắng hồng, gương mặt cao quý và cặp mắt sáng rực. Tất cả đều chứng tỏ đây là một du sĩ đạo cao đức trọng, hứa hẹn là người uyên bác. Hiếm khi có một du sĩ thánh thiện xa lánh cõi trần tục ở tuổi trẻ như thế. Đại vương sai người đi điều tra, theo bước du sĩ trên tuyến đường khất thực khắp kinh thành. Theo về tận am thất của du sĩ trong cánh rừng ngoài thành. Rồi một ngày, vua Bimbisara tìm đến lều cỏ của du sĩ xin được đàm đạo. Nhà vua kinh ngạc trước sự uyên bác, thái độ khiêm nhường và hiền hậu của vị giáo sĩ. Hỏi ra mới biết Siddhattha mới có hai mươi chín tuổi, chỉ hơn nhà vua năm tuổi. Năm ấy vua Bimbisara hai mươi tư tuổi, lên ngôi được chín năm.
- Ngài còn trẻ quá, sao đã sống cuộc đời khắc khổ của một người tu hành? Chi bằng Ngài hãy ở lại đây giúp ta trị nước, cũng coi như Ngài san sẻ với ta một nửa giang sơn này.
- Ta có cả một giang sơn chứ không phải chỉ có một nửa, nhưng ta đã ra đi. Ta không thích của cải và quyền lực, mà chỉ muốn tìm đường đi tới chân lý. Ta đến vương quốc của bệ hạ chỉ mong học hỏi thêm ở các nhà hiền triết mà thôi.
Không giữ được Siddhattha, vua Bimbisara đành để cho chàng ra đi, nhưng không quên dặn theo:
- Ví thử Ngài tìm được chân lý, xin Ngài hãy trở lại đây truyền dạy cho ta. Còn như không tìm được thì hoàng cung của ta vẫn luôn rộng cửa đón Ngài.
Sidhattha gặp được nhiều thầy giỏi. Chàng nhanh chóng lĩnh hội được mọi điều họ giảng giải. Có vị còn mời chàng ở lại và nhường ngôi giáo chủ của giáo phái cho chàng. Nhưng chàng không nhằm đạt tới ngôi giáo chủ. Chàng vẫn không thỏa mãn vì những kiến thức Vệ Đà hay Upanishad của họ cũng không đứa tới việc chấm dứt mọi khổ đau. Cuối cùng chàng quyết định phải ra đi, phải sống cùng dân chúng và tiếp tục tìm kiếm.
Rồi một hôm, chàng lội qua sông Neranjana, tới một cánh rừng ở bên kia. Đến đó, chàng gặp năm giáo sĩ đang tu hành xác. Họ ăn uống rất ít, sống ở ngoài trời và ngồi cực kỳ yên lặng hàng giờ liền.
- Vì sao các người lại tự hành hạ thân xác mình như thế?
Chàng hỏi.
Một người đáp:
- Mọi người trên đời này đều chăm lo quá nhiều cho thân xác mình, thế mà vẫn phải chịu đau khổ. Chúng ta nghĩ rằng nếu có thể học được cách chế ngự nỗi đau đớn thì chắc sẽ tìm ra con đường loại bỏ được mọi khổ đau nơi trần thế.
Có lẽ những người này nghĩ đúng. Suốt bao năm qua, chàng đã sống một cuộc đời vương giả, thân thể được chăm sóc chu đáo, nhưng chàng vẫn không thôi đau khổ Siddhattha bèn nhập bọn với năm giáo sĩ khổ hạnh. Chàng hy vọng lần này sẽ học được cách thiền định đúng đắn để tập trung suy tưởng. Chàng tập thiền nín thở trước. Nín thở càng lâu càng tốt. Hơi thở chỉ còn vào ta qua đường thông hai lỗ mũi hập hờ thoi thóp. Nhiều lúc gần như ngưng đọng không có giao thông. Khi hai đường lỗ mũi ngưng đọng thì mắt hoa. Trong tai chỉ còn tiếng gào rú. Đầu đau thắt như bị siết vòng đai sắt. Bụng quặn lên từng đợt, con tinh xà quẫy cuộn trong đó như sắp phá toang ổ bụng mà ra. Nhịn được thở thì toàn thân cũng nóng bừng bỏng rát.
Thiền định kiểu này không thể đạt được tri thức lẫn bình yên cho tâm. Chàng chuyển sang những phương pháp hướng ngoại hành hạ thể xác. Chàng chỉ có đứng suốt ngày, cùng lắm chỉ dựa vào cây cói chốc lát. Chuyển sang ngồi thì chỉ ngồi xổm. Chuyển sang nằm thì chỉ nằm trên gai nhọn.
Ngày ngày chàng vẫn đi vào thành khất thực, nhưng chỉ ăn hoa trái ngũ cốc. Mùa hè, ở trong rừng, chàng thực hành lõa thể, không manh vải trên người, chàng phơi mình ra trong nắng cháy thịt da, ban đêm mới vào trú một lát trong cái hang Dungsiri. Mùa đông, chàng chỉ mặc giẻ rách, vỏ cây hoặc rơm bện thành áo. Chọn lúc đêm xuống, nhiệt độ ngoài trời đạt đến độ đóng băng, chàng ra ngồi thiền định giữa trời. Thức ăn thì mỗi ngày rút xuống chỉ còn một trái cây hoặc một nắm cơm.
Đến mức này Siddhattha đã gần như chết đói. Da đầu chàng khô héo quắt queo. Hai hố mắt sâu hoắm trên một cái đầu như xương sọ. Tay chân như que củi. Cột xương sống lồi ra như chuỗi hạt. Khung xương sườn trơ ra như rui mè rường cột của một ngôi nhà đổ nát. Thế mà chàng vẫn ngồi yên. Chàng vẫn tiếp tục thiền định.
Năm người cùng tu khổ hạnh rất cảm phục. Họ cho rằng đãy chính là người sẽ thấu hiểu được chân lý về nỗi khổ của loài người.
Sáu năm trời trôi qua như thế.