Đức Phật
Phật vẫn nhớ lời dặn khi xưa của hoàng đế Bimbisara, nếu tìm ra chân lý thì hay trở lại truyền giảng cho ngài. Khi giáo lý của Phật được tiếp nhận rộng rãi. Phật cùng giáo hội đến ngụ tại kinh thành của Bimbisara và nhận lời để hoàng đế đến tiếp kiến. Tập quán ngày ấy là vua chúa đến diện kiến tại thiền viện của các giáo sĩ. Lòng tôn kính được bày tỏ đúng đắn hơn.
Hầu hết mọi người trong triều đều chưa biết mặt Phật. Nhưng họ đều đã biết ít nhiều về giáo sĩ danh tiếng Kassapa, người mới đây đã tự nhận làm đồ đệ của Phật. Chưa biết thực hư thế nào? Ai là thầy của ai đây? Trước đông đảo quần thần, Phật bèn tổ chức một cuộc vấn đáp giữa Người và giáo sĩ Kassapa để mọi người khỏi hồ nghi.
- Ta nghe nói rằng mới đây hiền giả Kassapa còn là người thờ lửa trong rừng, vậy cớ gì ngài từ bỏ việc thờ lửa?
- Thưa Đấng Giác Ngộ, người ta tế lễ Thần Lửa chỉ là xin tài xin lộc, xin dục lạc với giai nhân. Con giờ đây đã tìm thấy một giáo pháp hướng đến an lạc thanh tịnh, con đã từ bỏ tế đàn.
- Hiền giả không còn ham tìm thú vui trong tế đàn nữa, vậy giờ đây hiền giả tìm sự an lạc ở nơi nào?
- Nhờ có Đấng Giác Ngộ mà con nay không còn u minh tăm tối, con đã tự soi sáng cho mình và đạt giải thoát. Tế đàn như vậy đâu còn nghĩa lý gì.
Giáo sĩ Kassapa nói xong, bèn quỳ xuống nhắc lại hai lần.
- Đấng Giác Ngộ là đạo sư của con. Con là đệ tử cửa Người.
Một đạo sĩ tiếng tăm chính thức tuyên bố Phật là bậc đạo sư của mình gây ấn tượng mạnh cho đại vương Bimbisara. Càng mạnh mẽ là bài thuyết giảng của Người. Sau cuộc tiếp kiến, đại vương và những người hiện diện đều xin được làm tín đồ tại gia. Bimbisara nói:
- Trẫm từng có năm điều ước thì nay tất cả đã thành tựu. Trẫm ước được làm vua. Trẫm ước có một giáo sĩ cao trọng đến viếng thăm vương quốc của mình. Trẫm ước sẽ được thân hành đến viếng thăm Bậc Giác Ngộ. Trẫm ước được Bậc Giác Ngộ ấy thuyết giảng. Trẫm ước có thể hiểu được lời dạy của Bậc Giác Ngộ ấy. Bây giờ thì, thưa Đấng Giác Ngộ, đệ tử xin nương tựa Phật, nương tựa Pháp, nương tựa Tăng mà trở thành một cư sĩ.
Đại vương Bimbisara hoan hỉ tặng cho Phật một nơi để lưu lại trong những mùa mưa. Đó là rừng trúc Veluvana, ở bên ngoài cửa bắc của kinh thành. Rừng trúc vừa yên tĩnh cho các Phật tử hành thiền, thuận tiện cho các tín đồ lui tới, vừa gần kề kinh thành. Thủ tục cúng dường đơn giản. Vua Bimbisara đổ nước qua hai lòng bàn tay khum lại của Phật và để cho nước chảy tràn xuống một cái bát bằng vàng. Trúc Lâm tinh xá từ nay đã thuộc về tăng đoàn. Phật đáp lại thịnh tình của vua Bimbisara bằng một bài thuyết giảng mới.
Thời ấy có hai vị đại vương ở miền bắc Ấn. Bimbisara là đại vương đứng thứ hai. Đứng thứ nhất là đại vương Pasenadi của vương quốc Kosala. Cả hai vị đều trở thành Phật tử tại gia. Việc Phật giáo hóa vua Pasenadi phải kể vòng quanh một chút.
Có một doanh nhân cực kỳ giàu sang tên là Anathapindika. Ông là người của vương quốc Kosala, nhưng vợ ông là người của vương quốc Magadha. Một lần ông sang bàn chuyện làm ăn với người anh vợ thì nghe cả kinh thành bàn tán xôn xao về một hiền triết. Ông tìm đến thiền viện Trúc Lâm diện kiến Phật. Ông bị thuyết phục ngay tức khắc. Ông mời Phật và tăng đoàn sang kinh thành Savatthi vào những mùa mưa. Ông sẽ hiến tặng một nơi biệt lập làm tinh xá. Trở về kinh thành của mình, Anathapindika tiếp tục tìm được một vùng đất ưng ý. Đó là vùng đất thuộc quyền sở hữu của hoàng tử Jeta, con trai vua Pasenadi. Nhưng hoàng tử Jeta không muốn bán.
- Có trả ta 10 vạn đồng tiền kahapana, ta cũng không bán.
Hoàng tử tuyên bố sau một hồi vị phú thương đàm phán dai dẳng.
- Thưa hoàng tử, có phải ngài vừa nói ngay cả l0 vạn đồng ngài cũng chẳng bán hay không?
Vị thú thương hỏi lại
- Phải, 10 vạn đồng cũng không.
Hoàng tử quả quyết.
Anathapindika là chủ tịch nghiệp đoàn buôn bán vàng bạc ở thành Savatthi. Ông rất am hiểu pháp luật. Lập tức ông đưa vụ việc ra tòa án hoàng gia. Có cả nhân chứng hẳn hoi. Thật là gay cấn. Nhưng tòa phải xử. Tòa phán quyết rằng bất kể đó chỉ là một cách từ chối thì việc nêu ra một giá tiền khổng lồ cũng là bộc lộ ý muốn bán, người không muốn bán thì sẽ không nêu ra giá tiền làm gì.
Thế là vị phú thương mua được Jetavana. Khu rừng nhiều cây cổ thụ, nhiều nhất là xoài, có cả ao hồ đầy nước. Phật và giáo hội lưu lại đây vào mùa mưa. Dân chúng kéo đến nghe Người thuyết giảng. Một lần đại vương Pasenadi thân hành đến diện kiến. Chưa nghe thuyết pháp, nhà vua đã bộc lộ nỗi ngờ vực:
- Thưa giáo sĩ, có phải ngài nói rằng ngài đã được khai sáng, đã tỉnh thức và trở thành Đấng Giác Ngộ đó không?
- Quả là ta có nói như vậy.
- Giáo chủ của các giáo phái Bà La Môn khi gặp trẫm đều nói rằng họ chưa phải là một bậc giác ngộ hoàn toàn. Vậy giáo sĩ làm sao đã trở thành bậc Đại Giác khi mà còn quá trẻ như thế này?
Phật ngang tuổi vua Pasenadi. Pasenadi lênngôi đã gần hai chục năm. Tuổi gần kề bốn mươi, làm vua thì không còn trẻ. Nhưng làm một bậc hiền triết thì lại bị coi còn quả trẻ.
Phật đáp:
- Trên đời này có bốn thứ không thể xem thường vì nó còn trẻ: thứ nhất là một con rắn lục nhỏ, nhỏ xíu thôi, rất khó nhìn thấy, nhưng đã cắn thì chết người. Thứ hai là một ngọn lửa nhỏ, nhỏ nhưng có thể thiêu cháy những cánh rừng rộng lớn. Thứ ba là một ông hoàng trẻ tuổi, trẻ nhưng ông ta sẽ là người quyết định vận mệnh của hàng triệu con người. Thứ tư là một nhà tu hành trẻ tuổi.
Vua Pasenadi hiểu lời Phật có hàm ý cả tuổi trẻ cả nhà vua. Rồi Phật thuyết giảng triết thuyết của mình cho nhà vua nghe. Vua Pasenadi sau đó xin làm Phật tử tại gia.
Đại vương Pasenadi đã tốt nghiệp Viện Đại học Takkasila danh tiếng. Vua thích tư duy triết lý nên điều đó cũng cản trở ít nhiều công việc triều chính. Đôi khi ông thiếu quyết đoán. Đôi khi ông chán nản. Suốt ngày phải phân xử những chuyện dối trá ở chốn pháp đình. Xong công việc ông chỉ thích lui về một mình, ngẫm ngợi về các triết thuyết.
Và cả hưởng lạc. Nhiều năm theo thầy học đạo ở Viện Đại học, ông phải tu mình ép xác và lao động quần quật cho đạo sư. Lên làm vua, ông tự bồi thường cho quãng đời trước bằng những ham mê sắc dục. Nhà vua có một hoàng hậu và bốn vương phi. Hàng trăm cung tần mỹ nữ. Pasenadi còn ham mêăn uống. Tuổi tứ tuần mà nhà vua đã ôm một cái bụng như cái trống. Vừa diện kiến Phật, ông vừa ăn không ngơi miệng. Thấy ông đi đứng lặc lè, Phật phải nhắc:
- Người nào biết ăn uống điều độ thì giảm được dục tham, thân thể lúc nào cũng khỏe mạnh, tuổi già chậm đến. Đức vua hãy nhớ kỹ đỉều này.
Đại vương Pasenadi lập tức quay sang nô tài đứng quạt hầu bên cạnh:
- Nếu ta quên thì ngươi hãy nhớ thay ta. Hãy nhắc nhở ta điều này trước mỗi bữa ăn.
Đại vương Pasenadi và đại vương Bimbisara giữ được mối quan hệ thân hữu với Phật gần bốn mươi năm, cho đến tận khi cả hai vị đại vương đều chết bi thảm. Nhờ có sự bảo trợ của hai vị này, giáo lý của Phật nhanh chóng lan rộng ảnh hưởng khắp vùng bắc Ấn.
* *
Ở kinh thành Kapilavatthu quê hương Phật, người ta đều nghe nói đến một Đấng Giác Ngộ mới xuất hiện với triết thuyết thu phục cả thiên hạ, nhưng không ai biết rằng đó chính là vị hoàng tử đã mất tích của mình. Cho đến một ngày kia, Phật quyết định trở về thăm lại quê hương. Người gửi một đồ đệ tới kinh thành bảo trước ngày trở về. Người ta bất ngờ. Thế là hoàng tử Siddhattha không mất tích, không chìm vào cõi vô danh như muôn vạn du sĩ. Mọi người sung sướng hò reo. Mọi người nôn nao mong ngóng. Nhà vua nóng ruột, không thể chờ đợi được, bèn phái một quan thượng thư đi xem xem con trai mình ra sao sau từng ấy năm trời. Vị thượng thư đến nơi Phật cùng đồ đệ đang lưu lại Tất cả các nhà sư đều mang mỗi người một cái bát bằng gỗ. Họ đi từ nhà này sang nhà khác trong làng để khất thực, rồi trở về, lặng lẽ ăn một bữa ăn đạm bạc.
Quan thượng thư trở về thành Kapilavathu, tâu lại tất cả cho nhà vua hay.
- Trời ơi. Con trai ta, một hoàng tử dòng dõi, đã trở thành kẻ ăn mày.
Nhà vua kêu lên.
Nhà vua cho đánh ngựa thẳng tới nơi con trai mìnhđang trú ngụ. Con trai nhà vua bây giờ là Đấng Giác Ngộ, có hàng nghìn đệ tử. Họ qua lại, chào hỏi nhau, thái độ bình đẳng hòa hợp.
- Con trai ta, có thật là sáng sáng con đi khắp các nhà để xin ăn hay không?
- Thưa phải, đó là tập quán của chúng con.
- Tập quán nào?
Nhà vua suýt nữa thì cao giọng. Chợt nhận ra đang ở một nơi có hàng nghìn người hiền hòa, vua cố giữ giọng bình thường.
- Tập quán nào? Ngươi sinh ra trong dòng họ các nhà vua chưa một lần trong đời biết xin xỏ cái gì hết. Tập quán của chúng ta là ăn thức ăn trong những chiếc đĩa bằng vàng bằng bạc, chứ không phải trong cái bát gỗ. Tập quán nào, ngươi nói ta nghe?
Phật ôn hoà đáp:
- Thưa phụ vương, Người xuất thân dòng dõi hoàng gia, đó là sự thật, nhưng con thuộc dòng dõi các nhà sư, những Người Giác Ngộ. Những người này rất khiêm nhường. Chẳng phải họ không biết làm lấy mà ăn nhưng khi đi xin bố thí, họ muốn khơi gợi ở người đời lòng trắc ẩn, khiến cho người đời muốn làm điều thiện. Bằng cách nhận bố thí của mọi người không phân biệt đẳng cấp, họ chứng tỏ mọi người đều bình đẳng. Con nói "tập quán" là tập quán của những Người Giác Ngộ này.
Rồi Phật cầm tay vua cha, đắt đi cùng ở trong tinh xá um tùm cây cối. Người nói về Bốn Chân Lý Diệu Kỳ, về con đường chấm dứt mọi đau khổ của kiếp người. Cũng vẫn là những cây những lá ấy, nhưng nhà vua nghe thấy tiếng những tế bào diệp lục râm ran chuyển vần trong lá, tiếng nhựa chuyển trong cây. Sóng nước trên mặt hồ cúng lớp nọ tiếp sau lớp kia, tan biến, thay đổi, không bao giờ ngừng nghỉ. Trời đất cũng khác trước.
Lâu sau, nhà vua trầm ngâm nói:
- Người còn hơn cả con trai của ta nữa. Khi Người mới ra đời, ẩn sĩ Asita đã tiên đoán rằng Người sẽ trở thành một bậc thầy lớn. Hỡi Đấng Giác Ngộ, xin hãy nhận thêm ta làm Phật tử tại gia.
Họ về tới kinh thành Kapilavatthu, tất thảy dân chúngđều xin được trở thành đồ đệ Đấng Giác Ngộ. Bà dì đã nuôi nấng hoàng tử Siddhattha khi xưa và người vợ của chào xin quy y, nhưng phải nhiều năm sau, hội chấp thuận mở rộng cho cả phụ nữ, đàn bà mới được toại nguyện.