Đức Phật
Tên cha mẹ đặt cho cho chàng là Ahimsaka. Mười sáu tuổi, chàng được cha gửi lên Viện Đại học Takkasila.
Ngay lên đường, Ahimsaka ra tới bờ suối thì đã thấy nàng Amrita ôm bình nước ngồi trên một tảng đá. Dầu trước khi khoác tay nải nghiên bút rời nhà lên đường chàng đã linh cảm sẽ có cuộc gặp gỡ này, ở chính quãng lội qua suối này, thì bây giờ thấy Amrita chàng lại không đám đoán chắc là nàng ngồi đợi hay chỉ tình cờ ra suối lấy nước mà thôi. Ahimsaka năm ấy mười sáu. Amrita mười bốn. Hai nhà đều có ý tác thành đôi lứa cho đôi trẻ, nhưng cả hai nhà cũng đều hiểu chưa đến lúc nói ra. Tuổi ấy ở chốn kinh đô Savatthi đã là cặp phu thê có con đầu. lòng. Song cha của Ahimsaka, một giáo sĩ tạo Bà La Môn và là viên chủ tế trong triều đình, vẫn còn nấn ná vì muốn cho con theo đòi đèn sách.
Ahimsaka chưa biết nên dừng lại hay cứ thẳng đường mà lội ào qua suối thì Amrisaka khẽ khàng gọi:
- Chàng hãy dừng chân uống chút nước rồi hẵng đi.
Được lời, Ahimsaka quay bước, tiến lại gần nàng. Chàng chìa đôi bàn tay khum lại, hứng nước từ chiếc bình vào đôi bàn tay khum khum hình chiếc bát rồi Ahimsaka ghé môi uống dòng nước chảy tràn trong lòng tay mình.
- Trước khi ta lên đường, cha ta chỉ dặn một lời rằng nếu uổng công đèn sách thì hôm nay coi như là ngày vĩnh viễn giã biệt gia đình.
Lẽ ra phải nới với Amrita một điều gì khác, nhưng Ahimsaka chỉ nói được như thế. Chàng vã chỗ nước cỏn lại trong lòng tay lên mặt rồi thẳng người dậy.
- Thân phụ chàng biết rằng chàng vô cùng sáng dạ nên mới nói vậy. Còn thiếp, thiếp tin rằng chàng sẽ có ngày công thành danh toại vinh quy.
Ôi chao, cha nàng sao khéo đặt tên nàng là Amrita là Thiên Tửu, một lời nàng nói và ánh mắt nàng nhìn thực đúng là chất men say chưng cất ở chốn thiên đường.
Ẩn viện của thầy Chandra thuộc quần thể Viện Đại học rải rác khắp rừng. Theo chỉ dẫn của cha, từ đường cái, Ahimsaka sẽ lối tìm vào cánh rừng phía đông. Đi được một đoạn, Ahimsaka gặp năm chàng trai chàng bèn hỏi đường. Đám này đều cao lớn, đều cở tuổi mười tám đôi mươi. Không giúp thì thôi, chúng lại hè nhau bẹo tai bẹo má rồi giật lấy chiếc tay nãi để xem có cái gì làm lệ phí nhập môn. Nhập môn rồi chúng mới chịu cho làm đồ đệ. Nghe thế đã hiểu bọn này đang là môn sinh tại ẩn viện của thầy Chandra. Không thấy có gì đáng giá ngoài mấy quyển kinh Vệ Đà một thằng ném cái tay nãi ra xa mà bảo rằng lũ khố dây ti toe đua đòi chữ nghĩa hãy khôn hồn kiếm đường chạy cho mau kẻo rồi tai vạ. Thế thì sự nhẫn nhục của Ahimsaka phải cháy thành lửa giận. Năm gã trai tưởng có thể cậy đông, đứa nọ lao vào cứu đứa kia, nhưng rốt cục cả năm đều đo đất. Chúng dìu nhau bỏ chạy. Chúng chưa biết rằng anh chàng mười sáu tuổi nọ đã làu thông cả bốn tập kinh Vệ Đà từ năm mười hai tuổi đã nổi danh võ nghệ cao cường giữa đám thiếu niên ở chốn kinh đô.
Ahimsaka tự tìm đường vào ẩn viện. Sụp xuống chạm tay vào bàn chân thầy Chandra tỏ ý kính cẩn. Rồi chàng đứng dậy chắp tay xưng danh cha mình cùng lời gửi gắm đứa con trai cho thầy. Chanda không nói gì mà chỉ tay ra dãy nhà lá trước mặt. Các môn sinh kẻ đi cắt tranh chặt tre, kẻ đang khênh vác, kẻ leo lên mái nhà lợp lại mái và chằng đỡ, sửa soạn đón mùa mưa đang đến gần. Ahimsaka vội chạy ra góp them một tay với họ. Xong việc rồi, thấy một chàng trai đang loay hoay với một gốc cây to tướng, mãi vẫn không sao xẻ nó thành củi được, Ahimsaka liền đỡ lấy cái rìu. Thì ra nãy giờ chàng kia đã không tìm đúng thớ gỗ mà chẻ. Ahimsaka vung rìu. Thoăn thoắt. Lâu sau gốc cây đã biến thành một đống củi lớn, anh chàng kia chỉ việc khuân củi vào kia dự trữ cho mùa mưa.
Chandra đã tới bên tự lúc nào. Ông nhìn đống củi nhìn lồng ngực vồng căng và những bắp thịt xoắn bện khắp thân hình Ahimsaka, rồi lại nhìn chiếc rìu trong tay chàng.
- Hãy nói ta nghe, cái gì sắc hơn lưỡi rìu chém đá?
- Thưa Guru, đó là tri thức.
- Gì mạnh hơn sức mạnh cơ bắp?
- Là nhân tâm, thưa Guru.
Đến đây thì mọi lời thưa gửi theo phép tắc thông lệ đều được bỏ hết, bởi câu hỏi và câu trả lời cứ lớp lớp tràn qua như sóng nước. Cái gì nhanh hơn thần gió Vayu? Tư tưởng. Gì tưới mát đồng ruộng và làm cây xanh lá hơn thần biển Vatuna làm mưa? Công sức con người. Dao có giết chết người hay không? Dao giết được thể xác sự tăm tối ngu dốt mới giết chết con người ngay cả khi người đó đang tận hưởng vinh quang phú quý. Có gì rộng lớn hơn cả cõi đời này không, đi mới thấy không biết đâu là tận cùng, đi mới thấy còn xa mới đến đích? Đó là sự học, thưa Guru… Đám môn sinh toát mồ hôi. Đó là cung cách đàm đạo giữa hai người ngang hàng. Chàng trai kia vẫn một mực gọi thấy là Guru, là sư phụ. Guru Chandra thì gật gù, lý lẽ vẫn là lý lẽ sách vở, nhưng xem thế đủ biết đây là kẻ thông minh và khát học.
Ahimsaka được chính thức nhận vào ẩn viện sau cuộc vấn đáp.
Vừa lúc ấy năm gã trai chắn đường Ahimsaka về tới. Kẻ ôm đầu đưa kéo lê chân. Chúng rên rỉ với Guru rằng chúng đi chặt cây, bị cây đổ xuống người.
Chuyện xích mích buổi đầu lẽ ra rồi cùng quên đi. Quên đi bắt sống chúng với nhau ba năm trời trong cùng một ẩn viện. Cùng đèn sách đàm luận bốn tập kinh Vệ Đà. Cùng học ngôn ngữ, thiên văn, chiêm tinh, y học. Lại chung tay quần quật vỡ đất trống cây. Rồi tập tành võ nghệ cung nỏ. Rồi tọa thiền suy ngẫm trong cái yên lặng và thanh sạch tuyệt đời của tâm linh. Thế mà những gã đó không quên được. Chỉ là vì Ahimsaka không những được miễn nhiều môn học, trước khi đến ẩn viện chàng đã làu thông kinh sử học được từ cha mình, màđôi khi thầy Chandra còn đưa chàng lên làm trợ giảng trước gần ba chục môn sinh. Võ nghệ cao cường hơn người đã là một cái tội. Anh minh sang láng hơn người cũng là một cái tội. Mà đâu đã hết, Ahimsaka còn được bà Devi, vợ thầy Chandra, chăm chút đặc biệt.
Gần mãn khóa học ba năm, bọn người kia đã lôi kéo được nhiều kẻ khác để dựng lên một màn kịch.
Một buổi chiều, sau chuyến công cán lên kinh đô về gần đến ẩn viện, thầy Chandra bỗng nghe tiếng người lao xao trong rừng cây phía bên phải con đường mòn. Hình như họ đang tụng ca một người nào đó. Chandra vạch lá nhìn, hóa ra là quá nửa phần đám môn sinh đang hăng hái đàm luận. Không một kẻ nào nhìn thấy thầy đi ngang qua.
- Các huynh đệ hãy tin ta đi, Ahimsaka quả thực là một Guru thực sự, một người thầy vĩ đại trong số tất cả những người thầy trên thế gian này.
- Huynh nói phải lắm ta sẵn lòng tin rằng đến cả Thần Trí Tuệ Ganesha cũng phải nhường bước cho Ahimsaka.
- Ngay như phu nhân thầy Chandra cũng khen như vậy. Mấy hôm rồi thầy đi vắng, phu nhân suốt ngày đàm đạo với Ahimsaka.
Thầy Chandra thành con cá cắn câu. Thầy đùng đùng lao về nhà đúng lúc bà Devi đang trìu mến quạt cho Ahimsaka ăn chút bánh ngọt bà mới làm từ sữa tươi và đậu xanh. Ahimsaka vội buông ra đứng dậy chắp tay chào thầy. Nhận luôn một cơn sấm sét thịnh nộ dội xuống đầu. Phận làm trò là phải ra trước cửa đón đợi mỗi khi thầy trở về chứ không thể là một kẻ phàm phu tục tử trong cái sự ăn uống đến mức không nhìn thấy gì. Mới được đôi ba chữ mà đã khinh nhờn đạo lý, tưởng đã ti toe làm thầy thiên hạ được rồi hay sao. Mau mau thu dọn y phục tư trang rồi đi cho khuất mắt ta, ta không có một học trò như thế, không bao giờ nhận một kẻ như thế. Bà Devi cùng dăm ba môn sinh biết chuyện xúm vào chỉ xin thầy bớt giận mà nghĩ lại. Nhưng sự cố chấp và ghen ghét của bậc thức giả họa chăng chỉ có lũ rừng mới cuốn trôi đi được. Ahimsaka phải khăn gói ra đi. Mà biết đi về đâu. Mỗi dịp chàng được về thăm nhà, cha chàng đều nhắc lại như đinh đóng cột rằng nếu không học được lời lẻ thánh hiền thì đừng có bao giờ trở về nhìn mặt cha nữa. Mỗi lần nói vậy là một lần người cha ngấm ngầm hài lòng với đứa con. Ông tin rằng Ahimsaka không khi nào để cho lời nguyền thành sự thật. Nay thì chàng đã phụ lòng trông cậy của cha.Nhưng dù sao chàng vẫn hy vọng sau khi nghe rõ ngọn ngành, cha chàng sẽ rút lại lời nguyền. Một khi không tìm được chốn dung thân trong thiên hạ thi gia đình là bến cuối phải tìm về.
- Không đâu, mi lầm rồi
Người cha gầm lên.
- Ta không bao giờ nuốt được nỗi nhục có đứa con bị đạo sư phế bỏ. Cả triều đình này sẽ nghĩ sao khi vị quốc sư cửa họ lại dung dưỡng trong nhà một kẻ tanh hôi.Thôi đi đi, ta coi như mi đã chết rồi. Chết ngày hôm nay.
Giá mà Ahimsaka có thể chết được. Chết thật sự. Chàng đi lang thang khắp kinh đô. Chàng tìm tới như họ mạc và bạn bè thuở ấu thơ. Những lời đồn đại đã đi nhanh hơn chân người. Xem kìa, kẻ bị thầy đuổi bị cha từ đang dẫn xác đến. Người ta đóng sầm cửa trước mũi Ahimsaka. Ở chợ thì người ta bê thúng bê sọt chạy như chạy giặc cướp. Đói khát Ahimsaka lần ra bờ suối. Nàng Amrita khi ấy cũng đang lấy nước dưới suối. Vừa mới nhấc chiếc bình đất đặt lên đầu thì nàng nhìn thấy Ahimsaka. Cái nhìn lập tức chuyển sang khiếp hãi ghê sợ. Amrita bỏ chạy. Ahimsaka đuổi theo. Mong được thanh minh với một người có thể sẽ chịu nghe chàng nói. Cái bình nước làm cho Amrita chạy chậm, nàng bèn quẳng luôn bình nước để chạy. Bình nước rơi vỡ tan. Ngay trước mặt. Đến thế thì Ahimsaka không đuổi nữa.
Ahimsaka đi vào rừng hái quả chín uống nước suốiqua ngày. Đêm đêm chàng treo mình ngủ trên những chạc cây. Một sớm tinh sương, chàng lơ mơ thấy có một người lạ xốc nách chàng dậy, đón nhận chàng như đón nhận một người bạn trở về. Mở mắt thì hoá ra là đàn kền kền đang đậụ xung quanh. Ai chẳng biết loài chim to kềnh này chuyên ăn xác chết. Chúng sục vào nách Ahimsaka để xem chàng đã chết hay chưa đó thôi. Nhưng Ahimsaka cảm thấy ấm áp hơn. Ít ra lũ chim này đã không bỏ đi khi thấy chàng. Ít ra chàng vẫn còn những con kền kền là bạn.
Mấy chục ngày trôi qua trong rừng. Ahimsaka vẫn chưa biết đi về đâu, chưa biết kiếm đâu ra miếng cơm tấm bánh. Cho đến một hôm. Đang tìm lối đi ra đường cái, chàng bị một kẻ thình lình từ sau một gốc cổ thụ vọt ra chặn đường. Chỉ một thoáng chàng nhận ra ngay kẻ kia. Gã đang lăm lăm con dao nhọn đòi nộp hết của cải. Trong các bụi cây chung quanh nhấp nhô bốn cái đầu rình rập. Chúng đấy, năm gã môn sinh đón đường bắt nạt ngày Ahimsaka mới đến ẩn viện.
Chúng không nhận ra chàng do đám râu tóc phủ dày trên mặt. Từ ngày ở ẩn viện, Ahimsakađã mang máng biết lũ môn sinh xa nhà này vẫn thảng hoặc ra đường trấn cướp tư trang của khách bộ hành. Vừa là lưu manh nơi học thuật vừa làm lưu manh chốn đường chợ rừng xanh dễ thế a? Ahimsakađưa cho kẻ trấn đường cái tay nải chẳng còn gì đáng giá. Bút nghiên và kinh kệ đã đem đốt cùng lá khô sưởi trong đêm lạnh rồi. Tay nải chưa đủ. Gã nọ bắt Ahimsaka lột nốt tấm dhoti che thân xem có giấu gì trongngười hay không? Đến mức ấy thì chàng phải tự vệ. Cũng chỉ nhằm tước vũ khí của gã nọ mà thôi. Ahimsaka đã giật được con dao từ tay gã. Gã cướp đường lại vẫn hùng hực xông đến, rồi tự lao vào lưỡi dao sâu lút cán.
Đánh loạt một cái, bốn tên trong bụi lao ra. Vung dao vung rìu loang loáng. Cũng loang loáng, chàng tung mình những đường quyền chớp giật. Chỉ thoáng chốc bốn gã nọ đã nằm ngổn ngang. Rìu búa của chúng tự chém vào chúng. Hồn vía theo nhau xuống địa ngục cả một lượt. Ahimsaka tìm thấy trong bụi cây gần đó mấy cái tay nải chúng mới trấn được của khách qua đường. Có cả một túi bánh chappati còn nóng hổi. Lũ kền kền cũng vừa kịp bay tới sà ngay xuống đống xác chết. Bên này Ahimsaka được một bữa bánh chappati. Bên kia lũ kền kền cũng được một bữa tiệc thỏa thuê.
Thốt nhiên, một ý nghĩ vụt đến. Kế sinh nhai làở đó chứ đâu xa. Chàng sẽ có cái ăn, mà lũ kền kền bạn chàng cũng có phần.
Kể từ đó trên quãng đường rừng tự Savatthi đến Takasila xuất hiện một tên cướp đường. Ban đầu hắn chỉ đến cướp ẩn viện của Guru Chandra, đốt sạch mấy dãy nhà của ẩn viện, chém chết Guru Chandra và hầu hết đám môn sinh, chỉ trừ có bà Devi và dăm ba người khác. Tiếp đến, hắn chặn tất cả các chuyến xe ngựa bò kéo của đám lái buôn, giết hết những người áp tải hàng. Những người nằm im giả chết giữa đống xác người thuật lại rằng kẻ đó một lúc có thể địch được mấy chục trai tráng. Chém giết xong rồi, y còn cúi xuống chặt một ngón tay của người chết, xâu thành một cái tràng hạt đeo trên cổ. Rồi y ngữa mặt lên trời hú gọi đám kền kền bay tới. Lời đồn đại đại nhanh hơn chân người. Người ta gọi y là Anguli Mala. Mala là cái tràng hạt. Anguli là ngón tay út. Kẻ đeo tràng hạt xâu bằng những ngón tay người.
Vua Pasenadi treo giải một trăm thỏi bạc cho ai bắt được Anguli Mala. Ai mà dám bắt y, ngoại trừ lính triều đình. Vua sai quân đi thật. Nhưng không hiểu bằng cách nào tên cướp cứ dụ cho đám binh lính tản ra, lạc nhau, chia nhỏ thành từng toán rồi giết lần lượt từng toán cho đến hết mới thôi.
Từ đó ngang qua cánh rừng, hễ thoáng bóng tên cướp là khách bộ hành và đám láí buôn chỉ có bỏ của chạy lấy người. Nhà vua nâng giải lên một nghìn thỏi bạc cho ai lấy được đầu Angul Mala. Vua truyền cho dân chúng tránh đi con đườngấy. Nhưng dường mới thì phải vòng xa gấp những ba lần.
Chẳng biết bao nhiêu năm đã trôi qua. Anguli Mala ngày càng xa dần xã hộí loài người. Người ta bảo rằng bao giờ cái tràng hạt trên cổ y có đủ một nghìn ngón tay út của một nghìn người thiệt mạng thì y mới bỏ đi kiếm ăn ở vùng khác. Lời đồn ấy trở ngược lại đến tai y. Thì ra đó là sản phẩm của miệng lưỡi thế gian. Được thôi, nếu lũ người kia muốn thế, thì y cũng sẽ lấy cho đủ một nghìn cái ngón tay út.
Ngày nọ có một người trạc tuổi Anguli Mala vai tay nải đi ngang qua cánh rừng. Dáng vẻ ông ta đàng hoàng đỉnh đạc thật hiếm thấy ở những kẻ đi qua đoạn đường rùng rợn này. Anguli Mala mang cung tên, xách kiếm tiến ra trước mặt người nọ.
- Mở mắt ra mà nhìn đi, trước mặt ngươi là Anguli Mala và hắn cần ngón tay út của nhà ngươi.
Người đàn ông sững lại giây lát, rồi điềm tĩnh chìa bàn tay về phía y như đưa tặng một món quà:
- Vậy thì hãy chặt lấy rồi để cho ta đi. Ta vừa được tin vợ ta sinh con trai đầu lòng sáng nay.
- Không đâu, ta không cần ngón tay út của một kẻ đang sống.
Người kia lại im lặng một chốc rồi nói.
- Vậy ta phải chết thật rồi. Thì đây, ngươi có thể làm cái việc ngươi muốn.
Anguli Mala sửng sốt:
- Nhà ngươi đến với cái chết thanh thản vậy sao?
- Phải, nhờ có Đức Phật mà ta biết rằng một khi hiểu được Tứ Diệu Đế và thấu suốt Bát Chính Đạo, thông tin quy luật cuộc đời, thì con người không sợ cái chết mà đón nhận nó như một điều tất yếu.
Suýt nữa y đã để cho người nọ đi. Nhưng vẻ học thức hàn lâm làm cho máu y sôi sục lên. Lại còn nhắc đến đám giáo sĩ là bọn người mà Anguli Mala căm giận.
Của nả người thiệt mạng để lại chẳng có gì nhiều. Mấy cuốn sách trong đó gợi nhớ đến năm tháng xa xưaở ẩn viện của Guru Chandra. Tò mò, y mang mấy quyển vở của người thiệt mạng ghi chép lời dạy của một ông thầy nào đó được gọi là Đấng Giác Ngộ về đọc. Có nhiều điều mới lạ, y không hiểu hết, nhưng từng dòng chữ cứ quấn chặt cứ bám riết lấy tâm trí, bắt y phải nghĩ ngợi, phải băn khoăn tự hỏi, tự giải đáp. Mà y vẫn không thỏa mãn.
Thế là y quyết định cải trang làm một cư sĩ, tìm theo địa chỉ ghi trong cuốn vở mà tới thiền viện của cái người được gọi là Đức Phật.
Đang giờ Phật giảng bài. Cửa thiền viện rộng mở cho tất cả những ai muốn vào. Các đệ tử trong giáo đoàn của Phật ngồi lẫn với cư sĩ gần xa kéo tới. Các vị quan trong triều và những trưởng giả giàu có ngồi cùng với những bác tiều phu gánh củi về ngang, những chú mục đồng chăn trâu cắt cỏ, những người đàn bà dệt cửi xe tơ. Anguli Mala ngang nhiên đi tới, chọn một chỗ ngồi ngay trước mặt Phật. Đấy là một Ông thầy tuổi trạc sáu mươi, nước da trắng, cặp mắt sang chói, vùng trán cao khiết chứng tỏ một nguồn gốc vương giả. Rõ ra đây không phải là người phàm trần. Từ thuở bé, Anguli Malađã nghe mẹ nói rằng mỗi khi ở chốn trân ai có giặc giã loạn lạc hay đói nghèo tăm tối, thì Thần Bảo Vệ Vishnu lại giáng trần dẹp giặc, đem no ấm cho dân lành, dìu dắt họ ra khỏi vòng mê tối. Biết đâu chẳng phải là thần Vishnu đang ngồi đây, đang nhìn thấy mọi tội lỗi và cả những ý nghĩ trong đầu Anguli Mala lúc này.
Y bỗng rùng mình. Từng đợt gió mạnh nối tiếp nhau tràn qua vườn cây trong tinh xá, thổi tung áo mà của mọi người, trút lá rào rào khắp xung quanh. Tấm áo cà sa của Phật cũng bị hất tung lên ngang tấm thắt lưng, trong cảnh huống ấy lại lộ cả đôi chân xếp bằng tròn của Người trở lên đến tận thắt lưng. Phật vẳng sang sảng. nói, cơn gió ngang ngược không làm Người bị phân tán. Đại đức Ananda ngồi bên, mãi ghi nhớ từng lời để truyền đạt lại cho những người không có mặt vàđể soạn thành sách. Mải như thế nên không biết chuyện vạt áo của Người đang bay phần phật ra kia. Ahimsaka bất chợt ái ngại cho đấng hiện thân của thần Vishnu đang bi cơn gió mạnh phơi lộ phần cơ thể trần tục trước mắt hàng trăm người ngồi nghe giảng đạo.Y xoay người chuyển tới ngồi cạnh Phật, kín đáo ngồi dằn lên phần gấu áo của Người. Cơn gió trở nên bất lực. Thần Vishnu trở lại là thần Vishnu thánh thiện.
Cái ma lực hút Anguli Mala lại gần và chắn gió cho Phật cùng mặc cảm tội lỗi khi ngồi bên Người đã khiến y tự thề rằng sẽ không bao giờ quay lại cái thiền viện ấy nữa.Y đã đi quá xa trên con đường giết chóc. Tin đồn lại nối tiếp tin đồn. Đến lẩn nọ, người tạ đồn rằng cái tràng hạt trên cổ Anguli Mala đã có 999 ngón tay út của đúng bằng ấy số người bị y giết hại. Hôm ấy là ngày Angul Mala đi săn lung người thứ 1000.
Một bóng nguời đang thong thả đi men theo con đường xuyên qua rừng. Mắt Anguli Mala hoa lên vì đã tới rồi cái giờ khắc y chờ đợi từ lâu. Y băng mình chạy trên vách đá, chặn đầu kẻ tự đến nộp mạng kia. Đến chỗ định rẽ xuống đường cái thì y nhận ra là người nọ đã đi qua một quãng khá xa rồi. Y bèn ngược trở lên, lại chạy vòng vèo trên những vách đá, quyết đón đầu và uy hiếp nạn nhân bằng sự xuất hiện thình lình ngay trước mặt như vẫn thường làm. Té ra là y lại tính lầm đường một lần nữa. Chỗ mà y định lao xuống thì người nọ đã đi qua một đoạn. Có điều gì xảy ra trong đầu y vậy? Y vốn thông thuộc đường trong cánh rừng này. Chân ai mà địch nổi với cặp giò hươu của y. Không vòng trờ lên vách đá nữa. Anguli Mala lao xuống đường. Y thét lên với người đang đi ở đằng trước, bảo ông ta dừng lại.
Người nọ vẫn ung dung bước đi, buông lại một câu trả lời:
- Ta đã dừng lại từ lâu, dù ta đang bước đi. Chính là nhà ngươi mới chưa chịu dừng bước.
Anguli Mala nhìn xuống đôi chân mình. Y đang đứng yên bên đường. Sao người kia lại bảo là y chưa chịu dừng bước? Y lao lên chắn trước mặt ông ta. Đó là một nhà sư đang đi khất thực với chiếc bát bằng gỗ trong tay.
Người ấy mỉm cười:
- Ngươi chưa hiểu ư? Ta đã dừng từ lâu rồi việc hủy diệt sự sống của mọi sinh linh. Chỉ có nhà ngươi là chưa chịu dừng lại.
Ánh thép trong mắt Anguli Mala từng xuyên thẳng vào mắt nạn nhân làm cho họ bị mà lòa vì sợ hãi không còn nhìn thấy đường chạy. Ánh thép ấy lúc này gặp phải một cái nhìn ấm nóng của ngọn lửa. Anguli Mala như bị tan ra trong ngọn lửa ấy. Cái nhìn nhắc nhớ tới người bác mà y vẫn thường quấn quýt dạo còn thơ bé.
- Mọi sinh linh, kể từ con ong cái kiến cho đến con voi con ngựa, đều muốn duy trì sự sống và tự vệ cho sự sống của mình. Con người cũng vậy. Ai cũng biết rằng mạng sống của mình là quý hơn hết ấy. Vậy ta hãy học lấy cách yêu quý con người, gìn giữ sự sống cho con người và muôn loài.
- Ông đừng có nhắc đến con người, chính con người mới không biết yêu thương đồng loại. Ông có biết cái gì sắc hơn lưỡi dao hủy diệt hay không? Đó là lòng ghen ghét, đố kỵ và sự độc ác của người đời. Còn cái gì mạnh hơn cả sức mạnh cơ bắp, hơn cả sức cuồng phong và bão lũ? Đó là sự thành kiến và sự kỳ thị đầy con người ra xa con người.
Vô tình y đã nhắc lại những câu vấn đáp nhập ẩn viện của Guru Chandrakhi xưa.
Người kia mỉm cười cảm thông.
- Ta bắt đầu hiểu rằng ngươi có những lý do riêng để thù hận con người. Nhưng triết lý ấy thiên lệch và cay nghiệt quá. Ngươi hãy đi đi trong cõi đời này rồi sẽ thấy những người biết yêu con người nhiều hơn cả cát sông Hằng kia. Hằng hà sa số. Mà cũng gần thôi, ngươi hãy trở về với thiền viện của chúng ta, ngay cạnh kinh đô. Ở đó ngươi sẽ được sống trong tình người thực sự.
Anguli Mala giật mình nhìn lại người đang đứng trước mặt hôm nay ở ông không toát ra vẻ thần thánh như thần Vishnu. Chỉ đơn giản là một người thầy hiền minh, một người bác nhân hậu.
- Người là Đấng Giác Ngộ đó ư? Tiếc thay, ta gặp Người muộn mất rồi. Ta đã đi quá xa trên con đường đẫm máu.
- Không đâu, làm việc thiện bỏ điều ác thì không bao giờ quá muộn. Bể khổ thật bao la, song hễ muốn nhìn thấy bến, ta chỉ việc quay nhìn lại. Ngươi sẽ tìm thấy chốn nương thân và sự chở che trong thiền viện của ta.
Phật đổi giọng thân tình:
- Vậy chứ con tên gì?
- Là... là... Anguli Mala.
- Không, ta hỏi cái tên chào đời của con. Và phụ mẫu của con là ai?
Ký ức tưởng đã xa xôi lắm dội về. Người đàn ông cũng đổi cách xưng hô:
- Con tên là Ahimsaka. Cha con là Gagga, mẹ con là Mantani.
- Cái tên thật hay. Ahimsaka là không sát sinh, không bạo lực. Hỡi con trai của ông Gạgga và bà Mantani đáng kính. Kể từ phút này con đã được phục sinh trong đạo pháp của lòng yêu mến con người.
Ahimsaka theo Phật về thiền viện Jetavana, được làm lễ xuống tóc ngay hôm ấy, được nhận tấm cà sa và một chiếc bát gỗ để hàng ngày đi vào kinh thành khất thực.
Được vài ngày thì một buổi sáng vua Pasenadicùng đoàn quân binh mã rầm rập kéo qua thiền viện. Nhà vua bước từ trên xa giá xuống, rẽ vào thăm Phật để nhận một lời khuyên trước khi lên đường.
- Có chuyện gì vậy, thưa đại vương? Lại thêm một cuộc tập trận hay sao?
- Thưa Đấng Giác Ngộ, không hề có chuyện đó. Hôm nay chiến xa và binh mã của vương quốc Kosala lên đường để tiêu diệt Anguli Mala, xóa bỏ một tai họa dai đẳng nhiều năm qua. Trẫm nguyền có phải đốt trụi cả cánh rừng ấy cũng cam.
- Ví thử ta không cần đốt cháy một khu rừng, không cần phải điều động binh mã tổng lực mà Anguli Mala vẫn tự nguyện về đây cải tà quy chính, nguyện suốt đời không sát sinh và sẽ miệt mài tu học cùng trau dồi đạo đức? Được như vậy thì đức vua có còn muốn bắt và chém đầu người đó hay không?
Vua Pasenadi nghĩ rằng Phật đang đưa mình vào một cuộc đàm luận, nên cũng nói thật lòng:
- Nếu quả thực như vậy thì chẳng những trẫm không xử trảm y mà còn hoan hỉ cúng dường cho người đó thực phẩm, y áo thuốc men như vẫn cúng dường cho Phật cùng đệ tử của Người. Song tự nguyện trở lại làm người lương thiện là điều không thể có đối với một kẻ bất nhân như Anguli Mala.
Phật đưa tay chỉ một khất sĩ trẻ râu tóc cạo sạch đang đứng bên cạnh.
- Thưa đại vương, đây chính là Anguli Mala, giờ đã là khất sĩ Ahimsaka trong giáo hội của ta.
Nhà Vua và mấy viên tướng tháp tùng vội sờ tay vào đốc kiếm. Nhưng tất cả vũ khí đã bỏ lại bên ngoài thiền viện. Định thần, vua nhận thấy vẻ vô hại trên gương mặt của vị khất sĩ nọ. Vua tiến lại thăm hỏi đôi lời. Khi biết đích xác đó là Anguli Mala ngày trước, nhà vua bèn quỳ xuống chạm tay vào bàn chân khất sĩ tỏ lòng tôn kính.
Ahiaka kể từ đó sáng sáng mang bát đi khất thực trong kinh thành như mọi khất sĩ khác. Nhận được chút thực phẩm cúng dường của bất kỳ ai dù sang hèn giàu nghèo, Ahimsaka đều như lời Phật mà chắp tay cúi đầu cảm tạ, bằng cách đó để nói với người đời rằng Phật pháp coi tất cả mọi người đều bình đẳng.
Một đứa trẻ mang từ trong nhà ra môt bát cháo sữa, kính cẩn rót cháo vào bình bát của Ahimsaka mà không để rơi một giọt.
Ahimsaka nói:
- Con ngoan quá. Cầu mong cho con và cha mẹ con được hưởng mọi ân phúc. Thằng bé hồn nhiên đáp:
- Cảm ơn thầy. Con chỉ còn mẹ. Cha con đã bị tên cướp Anguli Mala giết hại đúng vào ngày mẹ sinh ra con.
Ahimsaka cúi đầu bước đi. Trong giờ thọ trai hôm ấy, khất sĩ không động đến bát cháo sữa. Cũng không ăn một hạt cơm trong bát những sa môn khác đưa cho. Phật nhìn thấy và hiểu cả. Quá khứ tội lỗi vẫn còn ám ảnh Ahimsaka.
Một buổi Phật cùng Ahimsaka đi qua một khuôn viên vắng người. Thốt nhiên có tiếng người rên la gần đó. Thì ra có một thiếu phụ bụng mang dạ chửa trên đường về nhà được mẹ dìu tới đây thì trở dạ. Bà mẹ nhìn thiếu phụ đẻ khó đang quằn quại đau đớn thì chỉ còn biết nhờ hai vị khất sĩ cầu nguyện giúp. Phật quay sang bảo Ahimsaka.
- Con hãy nói rằng từ khi sinh ra tới nay con chưa hề phạm tới tính mạng của một sinh vật nào, cầu cho nhự thật ấy mà sản phụ này được mẹ tròn con vuông.
- Trời ơi, vậy thì nàng nguy mất vì như vậy là con nói dối.
Đức Phật mỉm cười ý nhị:
- Vậy thì sẽ để lại một chút. Con hãy nói từ khi sinh ra trong chính pháp lương thiện tới nay con chưa hề phạm tới tính mạng của một sinh vật nào, cầu cho nhờ sự sự thật ấy mà sản phụ được mẹ tròn con vuông.
Ahimsaka vốn trước có học nghề y ở viện đại học. Vừa khấn theo là lời Phật dạy, khất sĩ giúp cho người đàn bà vượt cạn. Đứa trẻ ra đời cả mẹ cả con đều bình yên vô sự. Bà già mừng hết chỗ nói, đỡ lấy đứa bé mà sụp xuống lạy tạ hai vị khất sĩ ngang đường. Ahimsaka cũng vui mừng.
Khất sĩ đã bắt đầu xóa được mặc cảm tội lỗi.
Tuyến đường khất thực trong kinh đô lại đưa chân. Ahimsaka trở lại trước cửa nhà đứa bé đã có lần cúng dường một bát cháo sữa. Khất sĩ đang đứng chờ đứa bé mang thức ăn ra thì có người nhận ra Anguli Mala trong cái lốt khất sĩ. Biết bao nhiêu gia đình trong kinh thành có người thân bị tên cướp giết hại. Hận thù cũ vẫn chưa xóa được. Chỉ một lời hô, hàng trăm lời ứng. Người gậy gộc người gạch đá ào ào xông tới. Trút hờn căm xuống đầu khất sĩ. Ahimsaka ngồi xuống trong thế tọa thiền, hứng chịu tất cả. Chỉ thoáng chốc khất sĩ không còn ngồi được nữa mà đổ vật xuống, lăn lộn tơi tả trên đường. Đám người căm hờn khiêng cái thân hình đầy máu vứt sang bên đường rồi bỏ đi.
Ahimsaka tỉnh dậy, lần bò về được thiền viện, phục xuống dưới chân Phật:
- Thưa Đấng Giác Ngộ, con giờ mới thực hiểu giáo lý của Người. Nỗi đau con chịu ngày hôm nay đã giúp con xóa được nỗi đau của quãng đời lầm lỗi. Con đã chịu đựng đau đớn trong sự thấu hiểu và tình thương với mọi sinh linh, đặng xóa bỏ cho được hận thù muôn đời.
Ahimsaka nói vậy và trước mắt lại hiện lên hình ảnh thiếu phụ với một thanh củi đang tới tấp quật xuống bộ mặt nhuễ nhõa máu của Ahimsaka. Nàng vừa đánh vừa gào lên. Nàng kể lể rằng tên cướp Angula Malađã đón đường giết chồng nàng ở giữa rừng đúng vào ngày nàng sinh đứa con trai đầu lòng. Nếu hôm nay mọi người chỉ chậm chân chút nữa thì hắn giết nốt đứa con duy nhất của nàng. Người đàn bà ấy đã tự vệ như một mái gà tự vệ mà cứu đàn con trước lũ diều quạ. Ahimsaka ngữa mình đón những cú đánh của nàng cho đến khi ngã xuống. Ahimsaka hiểu rằng từ nay tâm trí mình bắt đầu được yên tĩnh. Người đàn bà ấy chính là nàng Amrita ngày trước.