Đức Phật
Tin dữ đến khi Phật sang tuổi tám mươi. Người biết Người đã xin vua Vidudabha mấy lần cũng chỉ ngăn cho hậu quả đến chậm. Người không thể diệt trừ được nguyên nhân đã bén rễ từ lâu. Nhân nào quả ấy. Quả này là vì nhân ấy.
Tuổi tám mươi, Phật nghe trong mình đã biết không còn được bao lâu nữa. Nhiều năm rồi Người đã bị xương khớp hành hạ. Ở Rajagaha có suối nước nóng. Người phải thường xuyên ra suối ngâm nước nóng để chữa trị. Bệnh đường ruột cũng làm người khổ sở. Phật phải chườm nước nóng, uống mật mía và các loại thảo dược. Một ngày Phật gọi các trưởng lão thân tín lại bảo:
- Ta cùng về Kapilavatthu đi thôi. Ở nơi quê hương, ta sẽ từ giã các thầy. Ananda khóc:
- Suốt bao nhiêu năm Người đã dẫn đường cho các đệ tử đi. Đệ tử biết làm gì đây nếu không còn Người nữa?
- Đừng có khóc, Ananda. Ta luôn dạy các thầy rằng cái chết là một phần tự nhiên của cuộc sống. Có gì đáng sợ đâu. Và khi ta đã đi rồi, hãy để cho những lời dạy của ta làm ngọn đèn dẫn lối cho các thầy. Nếu các thầy hiểu những lời dạy đó, các thầy không cần đến ta nữa. Nào, ta đi.
Hành trình kéo dài cả tháng qua mấy vương quốc. Chuyến đi nhìn lại những nơi bàn chân Người đã đặt tới. Nhìn lại dân chúng nay đã thành tín đồ. Những nơi Người đi qua lần này, dân chúng truyền tin cho nhau, tìm đến nghe giảng thuyết và tham vấn những chuyện của mình, chuyện trong làng ngoài nội.
Tại nhà một người thợ rèn tên là Cunda, Phật vui vẻ ăn các món ăn thí chủ bày ra. Có một món Người ăn cho vui lòng thí chủ, nhưng Người lại bảo nhỏ các đệ tử đừng ăn. Người ngờ món ấy không vệ sinh. Quả thực ngay sau đó, Người bị bệnh huyết lỵ.
Nhưng hành trình vẫn tiếp tục. Phải đi qua hai con sông hướng về phía bộ tộc của Người mới đến định cư.
Đến thành Kusinara thì Phật báo:
- Đừng đi nữa. Đây sẽ là nơi ta vĩnh biệt các con.
Phật chọn một rừng cây sa la để vào nghỉ. Loài cây này thường mọc thành đôi, cứ hai cây một ở cạnh nhau. Người ta gọi là cây sa la song thọ. Phật nằm xuống ở chỗ giữa hai cây sa la. Tháng tư hoa sa la bắt đầu nở rộ khoe sắc.
Một ông già bước lại gần xin được gặp Phật. Các trưởng lão bảo ông hãy lui ra, Phật đang nằm nghỉ. Người nghe được, bèn gọi:
- Chư vị cứ để người ấy vào.
Cơn đau khiến Phật phải nằm ép về bên phải, nhưng Người vẫn lắng nghe chuyện của ông già. Giúp ông đôi ba lời khuyên. Xong cuộc đàm đạo, ông già xin quy y. Phật chấp nhận. Đó là đệ tử cuối cùng được chính Phật làm lễ quy y. Tên ông là Subhadha.
Lúc này trưởng lão Ananda lại khóc. Ngài là em họ Phật. Một người nghe đâu hiểu đấy học đâu nhớ đấy. Sau này ngài là người sẽ thuật lại mọi lý thuyết của Phật cho các đệ tử ghi lại thành sách.
Ananda kém Phật hai mươi chín tuổi, tức là bằng tuổi Rahula, con trai Người. Rahula là một nhà sư không có gì xuất sắc. Ananda thì làm phụ tá, thậm chí làm phụ giảng cho Phật đã được hai mươi lăm năm. Giờ đây sắp vắng Người, Ananda không hoang mang sao được.
- Đệ còn nhiều điều phải học, mà bậc đạo sư lại sắp ra đi. Đệ biết làm cho đây? Phật bảo:
- Ta vẫn thường bảo các thầy rằng ai cũng phải chia lìa với những gì mình thân thiết yêu quý. Không có gì tồn tại mãi mãi. Bất cứ việc gì có sinh thì có diệt. Vật gì mà có khởi sinh ra đời, được tạo dựng hình thành thì tất phải có ngày mòn cũ tiêu tan. Ananda ngừng khóc. Tất thảy đều yên lặng lắng nghe.
- Mọi thứ dù sớm muộn đều sẽ đổi thay, cho nên đừng có khư khư cố sở hữu một cái gì. Thay vào đó các thầy hãy dành trọn cuộc đời để làm trong sạch tinh thần, đặng mà tìm kiếm chân lý, tìm kiếm niềm hạnh phúc lâu bền.
Người nằm nghiêng về bên phải mà ra đi.
Những bậc giác ngộ như Phật, khi ở trên đời, người đời gọi đó là những người đến viếng thăm thế gian này. Tám mươi năm Phật đã đến viếng thăm cuộc đời trần thế.
* *Phật di chúc việc tang lễ dành cho các tín đồ tại gia. Nhưng Người mất ở trong một rừng cây, khá xa phố thị. Trưởng lão Ananda phải vào thành báo cho dân chúng.
Cư sĩ tại gia ở vùng này ít ỏi. Họ không tiếc công mang hương hoa đến. Không tiếc lời chia buồn xuýt xoa. Nhưng tang lễ thì không ai muốn đứng ra nhận. Họ ngần ngại nhìn nhau. Đùn đẩy cho nhau. Củi trầm lẫn củi thường thì cũng cần một số lượng lớn. Dầu bơ tinh khiết nữa. Phí tổn cho thầy tế nữa. Ai là người phải chịu phí tổn bây giờ. Bàn bạc phân công mãi. Đẩy qua đẩy lại mãi. Cuối cùng mỗi nhà mới chịu đóng góp một phần nhỏ. Vừa đủ mua một lượng củi bình thường ít ỏi.
Tiếp đó là bất đồng về hình thức lễ tang. Các cư sĩ địa phương bảo đem Phật ra bờ sông hỏa táng. Theo đúng tục lệ.
- Tục lệ nào ở đây? Phật là giáo chủ của một tôn giáo không cổ vũ việc cúng tế lửa, cũng không thanh tẩy bằng nước sông.
Một trưởng lão bảo.
- Nhưng Phật xuất thân hoàng tử của một dòng dõi võ tướng theo đạo Bà La Môn. Dòng dõi ấy đều nhúng nước sông thiêng trước khi hỏa táng.
Một cư sĩ phản bác.
Sau rốt các trưởng lão quyết định hỏa táng, nhưng không phải là trên bãi sông. Xong một việc thì lại nảy ra việc khác. Trên giàn hỏa táng có đặt Phật trong tư thế ngồi, tư thế chỉ dành cho các vị vua hoặc các du sĩ? Bàn bạc mãi, đa số bác bỏ tập quán của đạo Bà La Môn. Phật là người của tôn giáo tỉnh thức, lễ hỏa táng cũng sẽ không theo tập quán Bà La môn. Phật phải được hỏa táng ở tư thế nằm. Là chuyện khác đặt ra. Hỏa táng ở hướng nào? Hướng nam hay hướng đông? Đa số đồng tình lắm ở hướng đông. Phật đã hướng về phía mặt trời mọc mà đắc đạo.
Việc tang lễ lúng túng và khá lộn xộn. Phải hoãn đi hoãn lại Mất gần một tuần..Thi hài được quấn vãi trắng kín mít, đặt trên cáng, rồi được khiêng vào thành qua cửa bắc. Đám tang ít người, lặng lẽ đi trong thành rồi ra bằng cửa đông. Thi hài được mang đến một ngôi đền. Việc hỏa tang được làm ở đây.
Không còn một tiếng khóc. Các sư đã nhắc nhở đám cư sĩ tại gia từ trước. Phật đi về cõi Niết Bàn. Được giải thoát vĩnh viễn. Phật không muốn nghe tiếng khóc. Đoàn nhà sư chỉ có mấy người đi bờ vòng quanh bệ hoả táng. Ba vòng. Không phải bảy vòng như tập tục Bà La Môn giáo. Hết ba vòng, họ chắp tay búp sen lễ Phật rồi châm lửa.
Đôi chân Phật bọc trong vãi trắng vẫn còn chìa ra khỏi bệ củi. Lượng củi gỗ thu thập được quả ít ỏi.