Chương 1 XUÔI DÒNG THIÊN ĐỨC
Hay Chuyện tình trong bãi dâu xanh
Mùa xuân Mậu Ngọ, năm Nguyên Phong thứ 8 (1258).
Hai vua cùng các vương hầu trở lại kinh thành Thăng Long sau trận chiến Đông Bộ Đầu, Ngột Lương Hợp Đài kéo tàn quân chạy trốn ra khỏi biên giới Đại Việt.
Dự buổi thiết triều tại chính điện cùng với trăm quan, định công ban thưởng và bố cáo cho toàn dân yên nghiệp như cũ xong, Trần Quốc Tuấn sửa soạn xuôi về Vạn Kiếp. Kể từ khi nhận mệnh vua, lĩnh quyền tiết chế, dẫn tướng lĩnh thủy bộ lên biên giới chống giặc đến nay cũng đã giáp năm chàng tướng trẻ chưa về hương ấp, nơi có ban thờ cha, có phu nhân Thiên Thành và các con chàng vẫn đang sinh sống ở đó. Ngoài kinh thành Thăng Long, chàng cũng có phủ đệ với đầy đủ người hầu, kẻ ăn người ở. Bên cạnh là phủ của nghĩa mẫu Thụy Bà, người đã nuôi nấng chàng từ khi năm tuổi. Sau khi đuổi giặc ra khỏi cửa ải, Quốc Tuấn trở về kinh thành.
Chàng đã phi ngựa thẳng về phủ Mẫu trước. Nhìn thấy nghĩa mẫu khỏe mạnh tươi cười ra đón, chàng tướng trẻ vừa lập công lớn ngoài chiến trận, mặt vẫn còn sạm nắng gió, sung sướng nhảy xuống ngựa. Công chúa Thụy Bà rạng rỡ vui mừng, bà giang hai tay định ôm Quốc Tuấn vào lòng như hồi chàng còn bé. Bà khựng lại, bà chỉ cao đến ngực chàng võ tướng kiêu hùng. Nhưng Quốc Tuấn đã khuỵu chân xuống ôm tay bà, thốt lên: “Mẫu, con nhớ người quá. Ơn tổ tiên, thấy người vẫn bình an, khỏe mạnh. Con khôn xiết vui mừng.”
Thụy Bà dặn Quốc Tuấn: “Xong việc triều đình, con về Vạn Kiếp trước, mấy bữa nữa, sắp xếp mọi việc trong phủ yên ổn, ta sẽ về làm lễ kính cáo với đại huynh rằng con đã lập đại công. Ngoài quà của Quan Gia gửi, ta cũng có quà cho cả nhà, con mang về cho mọi người vui. Trên đường về, con rẽ vào chỗ Bãi Soi bên bờ sông Thiên Đức, nơi cha con xưa chiêu dân lập ấp, xem họ có được yên ổn qua cơn giặc giã không nhé. Yên Sinh Vương lúc sinh thời luôn dặn ta trông nom đến họ, con nhớ làm tròn.”
Sáng sớm, Quốc Tuấn xuôi về Vạn Kiếp.
Nhà Trần vốn có lệ các thân vương hoàng tộc, ngày thường thì ở đất phong của mình, chỉ khi nhà vua triệu kiến mới về kinh thành. Quốc Tuấn thừa hưởng đất phong của cha là An Sinh Vương Trần Liễu ở Vạn Kiếp. Ngay sau khi đánh tan giặc Thát, Quốc Tuấn đã ban thưởng cho quân sĩ dưới quyền trong đội quân bản bộ của mình. Tất cả mọi người, trên dưới cùng nhau uống một trận rượu tẩy trần say sưa ngay trên bến Đông Bộ Đầu, rồi kéo quân trở về Lục Đầu Giang, Vạn Kiếp đóng trại chờ lệnh chủ tướng. Quốc Tuấn chỉ giữ một chiếc khinh thuyền đỗ lại bến sông Cái đợi, xong việc triều đình cũng sẽ trở về hương ấp dưới đó.
Chiếc khinh thuyền dài ba trượng, rộng hơn hai ngũ, đóng bằng gỗ tếch bên xứ Lan Xang [1] cung tiến vừa nhẹ vừa chắc. Thuyền có hai tầng, tầng dưới là nơi ăn ở của đội trạo nhi, mỗi bên mười một tay chèo. Tầng trên là nơi nghỉ của vị tướng trẻ và đội cận vệ thân tín. Thuyền từ bến Đông Bộ Đầu, ngược sông Cái, đến Ngã ba Dâu rẽ vào cửa Đức Giang rồi xuôi theo sông Thiên Đức. Quãng đường sông dài có mấy chục dặm thuận dòng chèo thẳng chỉ già một buổi sáng là về đến cửa Mỹ Lộc, vào Lục Đầu Giang, lên thái ấp Vạn Kiếp. Trần Quốc Tuấn bảo quân lính không cần căng buồm, từ tốn mà lái thuyền chèo xuôi theo dòng. Chàng lên lâu thuyền đứng khoanh tay ngắm cảnh sông nước.
[1] Nước Lào ngày nay. (BT)
Sông cuối xuân nước vẫn trong xanh, chưa có mưa thượng nguồn phù sa đổ về làm đỏ màu nước. Con sông này, Quốc Tuấn đã đi lại không biết bao nhiêu lần kể từ khi còn bé cho đến lúc trưởng thành, lập gia thất. Thật ra đường từ Vạn Kiếp về kinh thành Thăng Long còn có một con đường ngựa trạm chạy xuyên qua vùng nam Kinh Bắc, nhưng Quốc Tuấn vẫn thích đi đường thủy hơn. Mọi luồng lạch, bãi cát, doi sông, bến bờ Quốc Tuấn thuộc như trong lòng bàn tay. Hai bên bờ sông là những cánh bãi phù sa tươi tốt đang kỳ xanh mướt ngô, dâu. Xa xa bên tả là dãy núi Chè xanh ngát. Xa nữa bên hữu là núi Thiên Thai. Văng vẳng trong không trung tiếng đàn sáo, tiếng sênh phách, tiếng trống hội rộn ràng. Mùa xuân mở hội, mừng đất nước yên hàn, mừng xóm làng bình an qua cơn binh lửa. Gió từ dòng sông thổi vào mặt mát rượi. Tâm trạng Quốc Tuấn vô cùng hào sảng. Ngắm non sông đất nước cẩm tú vừa qua nạn binh đao, đang trở lại thanh bình tươi tốt, trong lòng chàng rộn lên một niềm vui khó tả. Trận chiến đánh tan lũ giặc dữ kia, chàng đã lập công đầu. Chí trai Đông A cầm gươm xông pha trận tiền đã thỏa. Nợ nước, ơn vua đã đáp đền…
Miên man ngắm cảnh và thỉnh thoảng lại đắm chìm vào trong dòng suy tưởng, con thuyền đã đến bến Hồng Hạc, huyện Siêu Loại lúc nào không hay. Quốc Tuấn ra hiệu cho quân sĩ neo thuyền ở lại bến đợi. Một mình chàng nhảy phắt lên bờ, đi về Bãi Soi. Vùng này vốn là đất ở của họ Trần thủa xưa, dân tình một lòng theo vua tôi nhà Trần đánh giặc. Họ đã được hưởng nhiều ơn mưa móc của An Sinh Vương nên rất trung thành với nhà Trần. Khi An Sinh Vương còn sống họ đã lập sinh từ trên mảnh đất cao ráo giữa làng, khi Ngài mất, dân Bãi Soi lấy đó làm nơi vọng tưởng Ngài, hương khói quanh năm.
Quốc Tuấn định đi bộ xuyên qua bãi dâu, qua cánh đồng đầu làng Trầm rồi sang Bãi Soi hỏi thăm bô lão nhân dân. Chàng không muốn kinh động đón rước phiền phức mọi người. Yên dân, đó là bài học các bậc cao nhân đã dạy chàng từ thủa ấu thơ. Việc nước nhà thành bại, đầu tiên là yên dân. Dân là nước, ta là thuyền, chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân. Dân yên nước lặng thì thuyền mới giương buồm rẽ sóng. Nhân gian cũng vừa trải qua một cơn giặc giã, hãy để cho sức dân phục hồi sau kỳ binh lửa bạo tàn, không có việc gì phải kinh động đến họ… Vị tướng trẻ nghĩ vậy, và một mình một gươm băng qua cánh bãi, nhằm thẳng hướng Bãi Soi đi tới.
Viên võ tướng thảnh thơi đi một mình trên con đường nhỏ trong bãi dâu. Lá dâu xanh thẫm rập rờn trong gió, trong nắng như những bàn tay thiếu nữ vẫy chào vị tướng quân trẻ tuổi tài ba chiến thắng trở về. Trong lòng chàng đang tràn ngập niềm vui, chàng đã hoàn thành nhiệm vụ Đức vua giao cho một cách xuất sắc. Những chiến công chàng lập trong cuộc chiến vừa qua được quân dân cả nước râm ran, trầm trồ truyền tụng. Chàng đi giữa vùng đất thanh bình, nơi cha chàng đã từng giúp dân khai phá khi xưa, đã cắm đất lập nên làng xóm yên ổn ấm no cho họ. Quốc Tuấn cứ ung dung đi, không mảy may có điều gì lo ngại. Vùng Kinh Bắc vốn là đất lập nghiệp đầu tiên của họ Trần kể từ khi thiên di từ đất Mân, bên này sông Dương Tử xuống, rồi ra An Sinh, Đông Triều, rồi mới xuống Long Hưng,Thiên Trường. Đất của ta, dân của ta, không có điều gì để chàng phải mảy may lo lắng.
Nhưng đến giữa bãi, Trần Quốc Tuấn hơi khựng lại, thủ thế theo phản xạ của một bậc võ công cao cường. Xa xa, chàng nghe có tiếng rầm rập, tiếng la thét, tiếng bước chân chạy dồn… Bỗng trên con đường nhỏ xuất hiện một nàng thiếu nữ đang hớt hải chạy ngược lại phía mình, xống áo tả tơi, mặt tái mét, thở không ra hơi. Nhìn thấy Quốc Tuấn, nàng lao tới, vồ lấy chàng và chỉ tay về phía sau, một con trâu to lớn đen sì đang sầm sập xông tới, truy đuổi thiếu nữ. Với phản xạ của một võ tướng dày dạn chiến chinh, Quốc Tuấn gạt phắt thiếu nữ ra phía sau lưng mình, nhưng chàng chưa kịp rút gươm thì con trâu đã hung hăng húc tới. Quốc Tuấn chỉ kịp xuống tấn, hai tay tóm lấy cặp sừng con trâu đang xông thẳng vào mình, vừa đẩy vừa ghìm. Con trâu điên cuồng choãi cả bốn chân ra sức vùng vẫy đôi sừng đen bóng vừa vằng vừa đánh định hất tung đối thủ lên. Mắt nó vằn đỏ, hai bên mép sùi bọt trắng xóa. Thì ra đây là một con trâu điên. Bình thường, trâu là một giống vật rất lành, là bạn thân thiết của con người từ nông phu đến anh đánh xe. Nhưng thỉnh thoảng có con bị điên, lúc đó chúng trở nên hung tợn khác thường. Chúng truy sát bất cứ người nào nhìn thấy. Nhưng lần này, chẳng may cho nó gặp phải một cao thủ võ nghệ đứng đầu môn phái Đông A. Một môn phái võ sở trường đấu tay không, cận chiến. Chỉ trong chưa đầy nửa khắc [2], Quốc Tuấn đã đẩy con trâu điên chùn chân, lùi về phía sau. Vừa đẩy, chàng vừa vặn chéo cặp sừng to tướng trên đầu nó, những tiếng kêu răng rắc, răng rắc ghê rợn vang lên… Con trâu đực rống lên đau đớn, hình như cái đau đã làm nó tỉnh trí, nó hốt hoảng lui dần và rồi dự muốn quay đầu bỏ chạy. Quốc Tuấn cũng buông tay, thả cho con nghiệt súc tháo chạy. Chàng quay lại đỡ nàng thiếu nữ vẫn bám nấp sau lưng mình từ nãy. Nàng chừng mười bảy, mười tám tuổi, khuôn mặt trẻ trung của nàng đang tái nhợt vì sợ hãi quá độ.
[2] 1 khắc =15 phút.
Những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, chảy thành dòng nhỏ trên má. Xống áo nàng tả tơi, cái yếm đào gần như tuột hết, lấp ló phô ra bộ ngực mẩy căng đang dập dồn thở gấp. Vừa phải trải qua một cơn hoảng sợ cực độ, dường như sức chịu đựng đã hết, quá mệt, thiếu nữ nhắm mắt, lả buông người mà ngất vào tay Quốc Tuấn. Chàng vội đỡ lấy thiếu nữ và ngồi xuống bờ nương dâu, để cho nàng nằm dựa vào lòng mình nghỉ ngơi đợi hồi sức. Quốc Tuấn cũng cần phải vận khí phục hồi sức lực sau một cuộc đấu bất ngờ. Ngồi nghỉ, chàng mới có dịp nhìn ngắm kỹ thiếu nữ hơn. Thật là một cô gái đẹp, Quốc Tuấn thầm nghĩ khi đã tự vận công hít thở để trở lại bình thường. Chàng đã có đủ bình tĩnh để lướt qua dung nhan cô gái. Nhìn thấy đôi chân thon thả trắng nõn, thò ra từ chiếc váy đen xắn quai cồng xộc xệch. Đôi chân như sáng rực lên trên màu xanh của cỏ bãi, dâu non… Quốc Tuấn như bị thôi miên. Không gian xung quanh bỗng dưng tĩnh lặng, dường như chỉ có tiếng thở của đôi trai gái đang dần trở lại nhịp bình thường. Khuôn mặt cô gái được nắng xuân chiếu vào dần hồng hào trở lại. Đôi môi xinh đẹp như một nét vẽ thắm đỏ. Nàng thật xinh đẹp. Một vẻ đẹp không giống các thiếu nữ khuê các trong cung cấm mà chàng thường hay gặp. Khỏe mạnh và có chút gì hoang dại. Chàng ngồi ngây ra ngắm người đẹp hồi lâu, rồi một cảm giác gì đó vừa lạ lẫm vừa quen thuộc bỗng dâng lên trong lòng… Một lúc sau, nàng thiếu nữ mở mắt ra. Thấy mình đang nằm trong lòng Quốc Tuấn, nàng giật mình, vội ngồi thẳng người lên, đỏ bừng mặt, quay sang phía bên kia sửa sang xống áo. Rồi nàng xoay người lại trước mặt Quốc Tuấn mà quỳ xuống: “Xin đội ơn chàng đã cứu tiểu nữ khỏi con trâu điên.” Quốc Tuấn vội đỡ nàng lên, cả hai cùng đứng dậy: “Không có gì, sao nàng đi đâu một mình mà gặp phải con trâu điên vậy?”
“Dạ, tiểu nữ đi hái dâu, đang trên đường gánh lá dâu về thì chả biết làm sao, con nghiệt súc này ở đâu cứ thế xồng xộc lao đến húc. Tiểu nữ phải bỏ cả quang gánh tháo chạy đến đây thì may mà gặp chàng.” Quốc Tuấn nhìn về phía xa xa, trên con đường nhỏ giữa bãi dâu, một đôi quang gánh lổng chổng, những bó lá dâu ngổn ngang tung tóe xung quanh. Chàng mỉm cười: “Ta đến xếp lại gánh lá về làng chứ?”
Hai người cùng đi tới xếp lại gánh lá dâu vừa bị con trâu ban nãy húc đổ văng trên mặt đất. Trần Quốc Tuấn vốn là một chàng trai uy nghi, đẹp đẽ. Hôm đó chàng bận đồ võ tướng màu tía, ngang lưng đeo gươm báu. Khuôn mặt vuông vức ngời ngợi. Mũi cao miệng rộng, cặp lông mày rậm càng làm nổi bật đôi mắt to sáng rực. Cả kinh thành Thăng Long khi nhìn thấy chàng phi ngựa, múa gươm, bắn cung và thi triển các tuyệt kỹ võ nghệ Đông A trên Giảng Võ Đường đã xuýt xoa bảo nhau, Trần Quốc Tuấn như là tướng nhà giời được cử xuống giữ yên bờ cõi cho nước nhà Đại Việt vậy. Líu ríu đi đằng sau, thiếu nữ trộm ngắm người vừa cứu mình. Thiếu nữ chợt nhìn vào thanh gươm chàng vẫn đeo bên mình, khuôn mặt nàng bỗng sáng rỡ lên, trong lòng bừng bừng như có lửa nhen. Nàng bỗng thấy đâu đây những âm thanh reo vui trào lên xôn xao…
Hai người cùng nhặt từng bó lá dâu xếp lại, cả một gánh đầy. Còn bó cuối cùng, cả bốn bàn tay đều đưa tới, nhắm vào bó lá dâu xanh ngát. Vô tình, họ chợt nắm vào tay nhau. Trong một lát họ nhìn thẳng vào mắt nhau…
Nàng nhìn chàng. Đắm đuối.
Chàng nhìn nàng. Mê mẩn.
Bó lá dâu tuột khỏi bốn bàn tay.
Không ai thốt lên lời nào…
Xung quanh bãi dâu bỗng im phắc. Cả những cành dâu vừa mới còn tinh nghịch đùa giỡn trong nắng xuân cũng ngưng lại. Như đợi chờ…
Trần Quốc Tuấn từ thủa lên năm đã được công chúa Thụy Bà là cô ruột đem vào cung nuôi nấng. Chàng được dạy đủ phép tắc xử thế của một vương tôn công tử, nên dù trong tình thế nào, chàng cũng biết mình phải làm gì.
“Xin lỗi tiểu thư, đã làm nàng giật mình”, Quốc Tuấn lên tiếng.
Một nụ cười e ấp không thành tiếng bỗng nở trên cặp môi đỏ thắm màu bích đào. Nàng e lệ khúc khích:
“Thưa tướng quân Trần Quốc Tuấn, tiểu nữ là con nhà lương dân làng Trầm, không phải tiểu thư cành vàng lá ngọc nào đâu ạ.”
Dường như nụ cười rạng rỡ hiền hậu của người thôn nữ xinh đẹp làm Quốc Tuấn tỉnh lại. Chàng vốn nức tiếng đất Việt là văn võ toàn tài. Kiến văn của chàng ngay các danh sĩ đất Thăng Long cũng không dám so bì. Chàng thắc mắc:
“Sao nàng lại biết ta là Trần Quốc Tuấn vậy?”
“Thưa tướng quân, tiểu nữ đã từng nhìn thấy mặt Ngài từ hồi theo cha lên chơi kinh thành. Lúc nãy hoảng sợ chưa nhớ ra. Mà trên bao thanh gươm Ngài đang đeo bên mình có dòng chữ Trần Quốc Tuấn đó ạ.”
“Thì ra nàng biết chữ…”
“Ngài không ngờ ở chốn thôn quê mà cũng có người con gái đọc được chữ thánh hiền sao?”
“Ta không có ý đó. Nhưng xin hỏi tên tuổi nàng là gì và là con cái nhà ai vậy?”
“Tiểu nữ tên gọi Quế Lan, con ông đồ Dương Đức Tụng, người làng Trầm.”
“A! Có lẽ nào cũng chính là ông đồ Kinh Bắc Dương Đức Tụng ở phố Hàng Tơ sao?”
“Vâng, chính là cha tiểu nữ. Giặc giã binh đao nên cha tiểu nữ đã trở về làng rồi ạ.”
“Thật là hữu duyên. Ta đã được gặp ông đồ lần đầu trong một buổi bình văn tại phủ của Vũ Uy Vương. Ta vẫn khâm phục kiến văn của cha nàng khi ông giải về đạo lý của trời đất. Ta đã đến nhà ông đồ tại phố Hàng Tơ đàm đạo nhiều lần, sao ta không gặp nàng nhỉ?”
“Dạ, tiểu nữ ở quê trồng dâu nuôi tằm với mẹ, chỉ thỉnh thoảng mới ra kinh thành thôi ạ!”
“Ôi… Thế hôm nay ta được gặp nàng ở đây, có phải là một sự hữu duyên không?”
“Dạ… Tiểu nữ không biết… Nhưng tiểu nữ đã từng mong có một ngày được gặp tướng quân…”
Nói nhanh xong câu này, bỗng đôi má nàng Quế Lan đỏ rực lên, mắt nàng long lanh, phát ra một ánh nhìn lạ lẫm. Vừa như e thẹn, vừa như bạo dạn lả lơi mời mọc. Ánh mắt ấy chiếu thẳng vào Quốc Tuấn. Thiêu đốt. Quốc Tuấn cũng nhìn thẳng vào đôi mắt nàng thiếu nữ. Một đôi mắt to trong veo đẹp lạ lùng. Từ trong đôi mắt đó có một dòng ánh sáng tỏa ra. Rực cháy. Nồng nàn. Ánh mắt nàng dịu dàng mê hoặc viên tướng trẻ có khuôn mặt kiêu dũng kia. Ánh mắt đó cứ như một dải lụa vô hình mềm mại níu kéo dẫn dụ Quốc Tuấn lại với nàng. Chàng tiến lại, nàng đứng yên ngây ra. Trong mê đắm, họ trao mình vào tay nhau. Rồi nàng gục đầu vào vầng ngực trẻ trung vạm vỡ của chàng thì thầm: “Quốc Tuấn chàng, em đã thầm mong có một ngày được gặp chàng như thế này, lâu lắm rồi, chàng biết không? Em đã ngày đêm cầu trời, khấn Phật. Ôi, các đấng cao xanh đã không phụ lòng em…” Quốc Tuấn cảm động, siết chặt tấm thân nóng hổi mềm mại của Quế Lan. Đã gần một năm nay chinh chiến sa trường, chàng ăn ngủ cùng quân sĩ, toàn tâm toàn ý lo việc binh, chàng đã hầu như quên thân xác đàn bà. Nhưng trong buổi sáng thanh bình trên nương dâu bên bờ sông Thiên Đức, được chiêm ngưỡng nhan sắc của người con gái trẻ đẹp, mọi cảm giác khát khao trần tục của một viên võ tướng trẻ tuổi sung mãn từ đâu bỗng bừng bừng trỗi dậy. Hương trinh nữ thanh khiết từ người nàng nồng lên một mùi thơm mê dụ. Mùi hương thơm tỏa ra từ thân thể người con gái đẹp làm Quốc Tuấn hứng khởi. Chàng là một người con trai dòng giống Đông A, mạnh mẽ và đa tình… Chàng bỏ mặc cho lòng mình dẫn đi. Là một trang nam nhi tuấn kiệt bậc nhất của Đại Việt, chàng đọc sách thiên kinh vạn quyển, luôn biết tự răn mình, thân nam nhi sinh ra ở đời để làm việc lớn cho nước nhà. Nhưng phép tắc nhà Trần thì lại thoải mái, không gò bó trong chuyện ái ân trai gái, giai nhân luôn vây quanh, khiến nhiều khi Quốc Tuấn cũng không kìm nổi mình. Và bây giờ, chàng cũng để mặc cho ánh mắt nàng thiếu nữ mời gọi. Cứ như Quốc Tuấn đang thả lỏng mình sau những ngày căng thẳng vất vả chinh chiến sa trường, sau những chiến công hiển hách. Chàng để mặc cho sự mê đắm của ái tình trai gái cuốn hút mình. Tào Mạnh Đức khi xưa chinh chiến Giang Nam, xây lầu Đổng Tước cũng chỉ mong đem hai nàng Kiều về vui thú đó sao…
Quốc Tuấn ôm chặt thân thể Quế Lan, nâng khuôn mặt kiều diễm của nàng lên, nhìn sâu vào mắt nàng. Đôi mắt to sáng rỡ, đang bừng lên niềm hoan lạc không che giấu. Dường như bầu trời trong veo in cả vào đôi mắt nàng, ánh biếc một màu xanh kỳ lạ. Nàng đắm đuối nhìn chàng. Chàng trai ưu tú, vị dũng tướng mà danh tiếng đang rền vang đất nước… Nàng sung sướng lả người trong tay chàng. Nàng thì thào trong hơi thở gấp gáp nồng nàn. Quốc Tuấn không nghe rõ điều gì, nhưng chàng hiểu nàng muốn gì. Khi hai lồng ngực căng tràn sức sống ép chặt vào nhau. Lúc đó trái tim của họ bỗng hòa vào cùng một nhịp. Nhịp mê man của tình ái vừa bừng phát. Họ bỗng trở thành một, niềm khao khát mong đợi của người này cũng là khối tình nóng bỏng của người kia, đang mong chờ được tưới tắm xuống thân thể đẹp đẽ tươi mát của nhau…
Họ bùng lên, nắm tay nhau chạy băng băng vào sâu trong nương dâu. Những cây dâu mềm mại ở hai bên luống, chưa kịp hái lá, đan cài vào với nhau thành một mái xanh tự nhiên. Quốc Tuấn tung bộ võ phục trải lên nền đất phù sa mát rượi. Siết chặt nàng Quế Lan. Xiêm y tuột ra, hai thân thể đẹp đẽ quấn vào nhau. Xung quanh, cả bãi dâu bát ngát bỗng rung lên dào dạt. Những chiếc lá xanh thắm hình trái tim rập rờn trong một vũ điệu huê tình. Những con hồng hạc đẹp đẽ đang tắm mát dưới bến sông bỗng đồng loạt kêu lên những tiếng vui mừng thảng thốt...
—★—Quế Lan là con gái duy nhất của ông đồ Dương Đức Tụng, người làng Trầm, huyện Siêu Loại, trấn Kinh Bắc.
Ông đồ Tụng từ bé đã nổi tiếng là văn hay chữ tốt trong vùng. Thế nhưng học tài thi phận, trải bao kỳ thi, ông cũng chỉ được cái danh ông đồ. Nhà ông vốn có của ăn của để trong làng, ngoài nương dâu canh cửi, còn mở một cửa hàng tơ lụa ngoài kinh thành Thăng Long nên ông thường xuyên đi về giữa làng Trầm với phố Hàng Tơ. Mặc dù không có danh phận gì, nhưng vốn tính quảng giao, lại có thực sở học sâu sắc, nên các bậc danh sĩ kinh thành đều kính trọng ông. Những dịp tao ngộ văn chương thơ phú họ đều mời ông tham gia xướng họa.
Rằm tháng Giêng năm Bính Ngọ, Vũ Uy Vương cho mời tất cả danh sĩ đất kinh thành đến phủ mình uống rượu và cùng bàn luận chuyện văn chương, chuyện đời. Hoàng gia nhà Trần nhiều người giỏi thơ văn, nhiều người thông lý bác học, hiểu nghĩa cơ trời. Nhiều người coi vinh hoa phú quý chỉ ngang tấm áo cũ không hơn. Đức vua Trần Thái Tông đã từng bỏ lên núi Yên Tử đi tu mà người ta vẫn không cho Ngài dứt nợ đời. Huynh trưởng của Trần Quốc Tuấn là Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung, ngay từ thủa tráng niên đã vào núi ngồi thiền, đọc sách để tìm hiểu bản thể và lẽ huyền vi của vạn vật. Trong những cuộc yến tiệc văn nhân mặc khách tụ tập tại các phủ đệ của các vương hầu trên kinh thành Thăng Long, mọi người có thể đọc thơ, bình văn, nêu kiến giải về kinh sách của các bậc thánh hiền trong thiên hạ. Ai có bài thơ hay, ai có kiến giải thông tuệ về lẽ đời, về vạn vật, được mọi người tán thưởng đều được chủ nhân sai tửu lệnh ban rượu.
Năm ấy Quốc Tuấn mười tám tuổi, cũng tới dự hội Nguyên tiêu tại phủ Vũ Uy Vương. Tại buổi đó, ông đồ Kinh Bắc Dương Đức Tụng đã đọc một bài văn sách rất lạ. Ông nói, vạn vật trên đời đều do ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, tuân theo luật tương sinh tương khắc mà tạo nên. Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa rồi Hỏa sinh Thổ mà Thổ rồi lại sinh Kim. Kim khắc Mộc thì lại có Hỏa chế Kim. Thủy chế Hỏa thì lại có Thổ chế lại. Nhưng rồi Thổ lại bị Mộc trấn. Mọi vật trên thế gian đều ở cái vòng tuần hoàn đó mà ra vậy. Mọi sự trên cõi nhân gian dù người, dù thú, dù vật cũng không thoát khỏi cái lẽ tương sinh tương khắc đó. Khắc sinh, khắc diệt. Có cái diệt vong, lại sẽ có cái nảy sinh tươi tốt. Luật trời thế rồi. Luật đời cũng vậy. Khi sinh ra giống con người, ông trời đã tạo ra âm dương, đực cái để mà giao hòa tương sinh. Từ đó vạn vật sinh sôi mà cũng từ đó vạn vật tiêu vong. Bởi trong cái tương sinh lại nảy ra tương khắc, sự hủy diệt bắt đầu. Tương sinh tương khắc trong âm dương ngũ hành là để thực hành một cái thiên luật bất biến, ấy là lẽ quân bình. Núi cao sẽ có vực sâu kế bên. Vẻ vang đắc chí sẽ có khổ tận đớn đau liền kề. Mạnh mẽ lớn to như voi ngà trâu mộng sẽ có con kiến nhỏ nhoi tiêu diệt… Trời xanh đã định, mọi lẽ đều quân bình. Mọi thứ là từ ngũ hành tương sinh tương khắc tạo nên, âm dương giao hòa mà thành. Âm dương xoay chuyển, càn khôn dịch dời, mọi sự lại vô vi. Đó là luật trời. Con người ta sống trong trời đất phải hiểu được cái lẽ tất nhiên thì sẽ thấy thái hòa. Mọi sự trong trời đất đều sẽ quân bình.
Hôm đó mọi người nghe rất tâm đắc, tửu lệnh dâng rượu mời nhiều. Trần Quốc Tuấn nghe và vô cùng khâm phục lý lẽ cao siêu huyền diệu của ông đồ. Suy cho cùng, chàng cũng thấy mọi sự quả là có thiên luật. Thỉnh thoảng có dịp gặp huynh trưởng Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung, Trần Quốc Tuấn cũng đàm đạo với cư sĩ để hiểu thêm về luật đời, cơ trời. Cũng đã hơn một lần Quốc Tuấn bày tỏ nguyện vọng được theo huynh trưởng vào núi tọa thiền tìm ra chân lý. Thế nhưng Trần Quốc Tung cười mỉm bảo: “Em ta không vào núi lánh đời được. Sứ mệnh của em là ở đời. Em sẽ đắc đạo trong đời mà không cần phải ngồi am cỏ lều gianh như ta.”
Cuối hôm hội Nguyên tiêu năm ấy, Trần Quốc Tuấn ra vái chào ông đồ Kinh Bắc Dương Đức Tụng mà tự giới thiệu rằng: “Tôi là Trần Quốc Tuấn xin bái yết Ngài. Kiến thức của Ngài thật là sâu rộng. Tôi mong có ngày gặp mặt để đàm đạo sâu hơn về mọi lẽ huyền vi của trời đất với Ngài.”
“Ấy chết. Không dám thất lễ với vương tử. Quả là mỗ này đã được nghe danh vương tử lâu rồi, nay được gặp thực là thỏa lòng. Xin mời vương tử lúc nào quá bộ tới tư gia ngoài Thành, mỗ xin được hầu chuyện.” Thế rồi từ đó, thỉnh thoảng Trần Quốc Tuấn lại tới nhà ông đồ Dương Đức Tụng trên phố Hàng Tơ đàm đạo. Hai người nói chuyện rất tâm đắc. Trần Quốc Tuấn bái lạy ông đồ Dương Đức Tụng, coi như thày học của mình.
—★—Nhưng đến nay Quốc Tuấn vẫn chưa gặp Quế Lan ở trên kinh thành bao giờ.
Bởi vì nàng ở quê chăm việc tằm tang với mẹ chứ không đi buôn bán. Việc chuyển tơ lụa từ làng Trầm ra cửa hàng ngoài đó do cha nàng và mấy người nhà làm. Nàng chỉ hái dâu, chăn tằm, se tơ dệt lụa cùng mẹ. Thỉnh thoảng kinh thành có dịp hội hè, cha nàng mới đem ái nữ ra chơi vài buổi.
Trong một dịp như thế, nàng đã nhìn thấy Quốc Tuấn.
Hôm ấy Quốc Tuấn cưỡi ngựa hộ tống kiệu nhà vua trên phố, một chàng võ tướng trẻ tuổi đẹp trai, cao lớn vạm vỡ cưỡi trên con ngựa tía. Khuôn mặt chàng ngời ngợi, những đường nét nam nhi rực sáng. Dường như từ người chàng có một đạo hào quang tỏa ra lung linh. Cô bé mười tuổi Quế Lan đã mê mẩn ngắm chàng. Từ đó, hình ảnh Quốc Tuấn đã in sâu trong trái tim cô. Cô bé thầm mong ước sau này lớn lên, đến tuổi lấy chồng, sẽ có một chàng trai tuấn tú và đẹp đẽ như thế, cũng cưỡi trên lưng một con ngựa tía, đến đón mình đi. Và rồi trong những giấc mơ đêm của thiếu nữ, cô hằng mơ về chàng dũng sĩ đó…
Trai quanh vùng Siêu Loại ai cũng biết tiếng Quế Lan.Xinh đẹp và đảm đang. Tuy là con gái duy nhất một nhà khá giả nhưng nàng rất chăm chỉ, tằm tang canh cửi khéo, lại thông hiểu việc đời. Nàng là con gái ông đồ, nên được cha dạy cho chữ thánh hiền từ bé. Nàng rất thích đọc sách, những lúc thanh nhàn, nàng hay đem sách của cha ra đọc. Và nàng mơ mộng nghĩ suy. Những chàng trai trong làng, quanh vùng rắp ranh có ý đến hỏi mình về làm vợ khiến nàng chỉ thêm buồn sầu, bởi chẳng có trang anh hùng cái thế nào như trong sử sách cả. Không có ai giống như chàng võ tướng cưỡi ngựa qua phố trên kinh thành Thăng Long. Chưa có chàng trai nào xứng đáng để cho nàng nâng khăn sửa túi, nàng từ chối mọi lời cầu hôn. Cha nàng, ông đồ Dương Đức Tụng thở dài. Ông hiểu con gái mình. Với một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn như Quế Lan, không là một đấng anh hùng cái thế thì cũng phải là văn nhân tao nhã mới có thể làm con ông xiêu lòng. Nhưng là người cha, khi con gái lớn chưa vu quy, ông không yên. Quế Lan là con gái duy nhất, nên ông chiều chuộng từ bé, ông lại càng không nỡ ép gả…
—★—Quế Lan gặp Quốc Tuấn ở bãi dâu, như duyên tiền định.Họ giao tình với nhau. Trai tài gái sắc. Rồng gặp mây. Cá gặp nước. Cả nương dâu xanh ngát bên bờ sông Thiên Đức hân hoan ca hát. Gió sông ào ạt thổi, nắng xuân nhảy nhót reo vui mừng mối duyên trời. Lúc họ trao mình vào nhau, một đàn chim hồng hạc thốt nhiên tự trên trời cao sà xuống mép nước. Những con linh điểu đẹp đẽ vươn mình tắm rửa trên dòng nước ngọt lành của con sông. Chúng nhảy nhót gù nhau, những đôi cánh rộng lớn giang ra vẫy gọi trong vũ điệu huyền bí. Những cái cổ kiêu hãnh thon thả vươn lên lắc lư mê đắm. Từ những đôi mỏ hồng xinh xắn, những tiếng kêu âu yếm như tiếng thầm thì của tình yêu thần thánh thăng hoa…
Quốc Tuấn âu yếm ôm Quế Lan trong lòng. Quế Lan sung sướng mãn nguyện gối đầu vào bộ ngực vững chãi của chàng võ tướng. Quốc Tuấn là người thao luyện võ thuật từ bé nên thân thể chàng rất nở nang rắn chắc. Những bắp cơ ngực, tay, chân, vai, bụng cuồn cuộn căng tràn, rắn đanh như được đúc bằng đồng. Quế Lan thì thon thả nhỏ nhắn, thân thể trắng muốt mềm mại. Khi nàng nằm ôm Quốc Tuấn, hệt như dải lụa nõn quấn quanh một cây đại thụ. Họ nằm ôm nhau như vậy trong buổi sáng cuối xuân nắng ấm. Họ nằm giữa bờ bãi mà như nằm trong cung vàng điện ngọc. Xung quanh, những hàng dâu xanh mướt che chở cho đôi tình nhân như những dải lụa gấm thêu trướng rủ. Quế Lan thầm thì: “Thiếp đã đợi chờ thời khắc này từ lâu lắm rồi. Trong những giấc mơ, thiếp vẫn mơ về chàng. Thiếp vô cùng mãn nguyện.” Quốc Tuấn áp mặt vào mái tóc xanh mướt mềm mại, thơm nức của Quế Lan, trong lòng chàng thốt nhiên trào dâng lên một niềm yêu vô bờ với người con gái vừa hiến dâng cho mình. Chàng âu yếm: “Thật là trời xanh chí công đã đem nàng đến cho ta. Ta yêu nàng xiết bao. Cuộc đời xông pha chinh chiến, sống chết tấc gang, nhưng có những lúc bên nàng thế này ta cảm thấy thỏa lòng.” Họ lại siết chặt nhau. Quấn lấy nhau. Hòa vào nhau.
Dường như đôi giao long huyền thoại đang ngủ yên dưới sâu lòng sông Thiên Đức bừng dậy. Sóng cồn lên. Gió vặn xoắn mê mải. Dập dồn. Tan hoang. Bờ bãi tốt tươi của nương dâu mướt mát bên bờ phù sa màu mỡ hôm ấy no nê đủ đầy, sau một trận mưa rào vũ bão trút xuống. Một trận mưa thần thánh.
—★—Quốc Tuấn chia tay Quế Lan ở cánh đồng đầu làng Trầm.
Chàng rẽ sang ấp Bãi Soi còn Quế Lan về nhà. Quốc Tuấn hẹn sau khi xong việc thăm hỏi quân dân bên đó, sẽ sang thưa chuyện với cha nàng, ông đồ Dương Đức Tụng.
Vào đến ngôi đền thờ cha mà dân Bãi Soi đã lập từ lúc An Sinh Vương còn sống, bỗng Quốc Tuấn thấy như hiển hiện lại gương mặt cha mình lúc sắp lâm chung. Mảnh đất Bãi Soi, mấy trăm năm trước còn là lòng sông Dâu tấp nập thuyền bè các xứ về buôn bán bên thành Luy Lâu gần đó. Vật đổi sao dời, sông cạn nên bãi. An Sinh Vương một dịp du xuân Kinh Bắc, nhìn thấy bãi đất phù sa nục nạc bèn về xin với triều đình cho chiêu dân lập ấp. Dân lưu tán các nơi, dân cùng đinh các xứ, được cha Quốc Tuấn, Đức ông An Sinh Vương Trần Liễu đưa về, rồi cấp gạo, cấp trâu cày, nông cụ… biến bãi cạn thành ruộng đồng màu mỡ tốt tươi. Dân ấm no thịnh vượng, xóm bãi vang tiếng đàn sáo hát ca. Họ bảo nhau chọn doi đất cao nhất giữa làng lập ngôi đền thờ sống An Sinh Vương. Nay cha đã khuất núi lâu rồi, về đến giữa làng Bãi Soi, bước chân vào ngôi đền khang trang rừng rực cờ phướn, thơm nức hương trầm. Bô lão cùng dân làng, ai cũng hớn hở tốt tươi no đủ, đứng dài hai bên hô vang chào đón, Trần Quốc Tuấn thấy lòng mình rưng rưng. Dân là đây, nước cũng là đây. Cầm quân xông ra trận tiền, chém đầu giặc lập công trở về, được nhìn thấy xóm làng sung túc, nhân gian vui vầy, chàng thấy lòng mình dâng lên một niềm vui khó tả. Chí làm trai được thỏa. Đạo quân thần được trọn. Ơn vua nợ nước với chàng dường như đã xong. Nhưng còn với cha…
Đôi mắt của Trần Quốc Tuấn khi đang hành lễ trước linh vị của Đức ông An Sinh Vương bỗng ứa ra hai giọt nước mắt nóng ấm. Mắt chàng nhòa đi. Cha ơi! Chàng thầm khấn trong lòng. Dân là đây, nước là đây. Cha bảo con lấy lại nước là có ý tứ gì. Người chẳng đã có dân, có nước đây rồi sao? Con cũng đang trong lòng dân, trong nước của mình… Cha ơi, con hiểu lòng cha có những nỗi niềm u uẩn, nhưng ở đời có bao giờ hết được những u uất muôn năm kiếp người. Nỗi u uất của một người, một nhà có là gì so với vận mệnh của trăm họ, của giang sơn xã tắc… Nước của cha đã được xây trong lòng dân Bãi Soi. Con sẽ xây nước của mình trong lòng dân Vạn Kiếp, dân Siêu Loại, dân Kinh Bắc, dân Hải Đông, dân Lạng Giang, dân Quảng Yên, dân Thăng Long. Và trong lòng muôn dân nước Đại Việt. Con sẽ lấy cái nước đó, con sẽ ngự trong lòng dân muôn đời, như dân Bãi Soi đã thờ cha. Giúp dân dân lập đền thờ… Giang sơn Đại Việt sẽ còn bị bọn giặc hung tàn Mông Thát nhòm ngó, chúng đang đánh Tống, chúng sẽ còn gây sự với ta. Con sẽ tận lực giúp cho nước nhà trong cơn binh lửa, để muôn dân yên ổn. Lập được công lớn để lưu danh tên tuổi bất hủ với trời xanh, sống mãi trong lòng dân nước Việt…
Tùng tùng tùng… cắc cắc cắc…
Tiếng trống tế đổ dồn cắt dòng suy nghĩ của viên dũng tướng trẻ. Trần Quốc Tuấn quỳ trên chiếc chiếu hoa phủ phục lạy ba lạy rồi đứng dậy. Chàng tiến ra giữa sân đền hỏi thăm các vị bô lão và bà con Bãi Soi. Ai cũng muốn đến gần, được mục sở thị Quốc Tuấn, được sờ tay vào người chàng. Cả làng Bãi Soi tự hào về Trần Quốc Tuấn, như vị thiên tướng nhà giời được giáng sinh nơi đây vậy.
Trưa hôm đó, dân làng dựng rạp mở hội, giết lợn dê, uống rượu mừng đất nước thanh bình, mừng chiến công của Trần Quốc Tuấn. Chàng ngồi uống rượu cùng các vị bô lão trong đền. Chàng rất vui, uống không biết say, cả làng muốn lưu Quốc Tuấn ở lại để đêm mở hội hát mừng. Nhưng nhớ lời hẹn với Quế Lan, chàng từ biệt dân làng Bãi Soi sang làng Trầm.
Cụ cao niên nhất làng nói:
“Bẩm, tướng quân là vẻ vang của Đại Việt ta, là kiêu hãnh của dân Bãi Soi. Xin cho dân làng rước Ngài lên kiệu đưa sang làng Trầm để cho dân hai làng đều được vui mừng.”
Nghe vậy, Quốc Tuấn liền từ chối:
“Xin các vị bô lão và dân làng miễn lễ. Ta về đây thăm bà con cũng như về nhà. Ta sang làng Trầm thăm thày học thì càng không nên phô trương kinh động. Như thế không hợp nghĩa sư phụ. Xin các bô lão để ta tự định liệu.”
—★—Ông đồ Dương Đức Tụng thân chinh ra tận đầu làng Trầm đón Trần Quốc Tuấn.
Nhà ông đồ ở giữa làng, khi hai thày trò đi trên con đường lát gạch nung để về nhà, dân làng Trầm ào ra hô đón. Quốc Tuấn đi sau ông đồ và luôn miệng đáp lễ, giơ tay chào mọi người.
Trưa nay, khi thấy con gái yêu gánh dâu về, váy áo tả tơi, xộc xệch lấm đất phù sa nhưng gương mặt lại bừng lên rạng rỡ, mắt long lanh, miệng hát véo von, ông đồ Tụng thấy lạ, không hiểu có chuyện gì.
Ông đưa Quốc Tuấn vào nhà, chưa kịp yên vị phân ngôi chủ khách trên chiếc sập giữa nhà thì Quốc Tuấn đã quỳ xuống thi lễ: “Xin sư phụ nhận của tiểu đệ này một lễ. Xin thày xá mọi tội lỗi cho học trò.” Ông đồ Tụng vội tụt xuống đỡ Quốc Tuấn lên, nói: “Xin tướng quân đừng làm ta tổn thọ. Ta chỉ là ông đồ già nhà quê, có đâu dám nhận vương tử làm trò. Nhưng có chuyện gì thì tướng quân cứ cho ta biết. Ta là người đọc sách thánh hiền, ta hiểu mọi lẽ ở đời xảy ra tất có sự sắp đặt sẵn từ đấng cao xanh. Người trần chúng ta sao mà cả quyết được.”
“Dạ, thưa sư phụ, con và nàng Quế Lan con gái người sáng nay gặp nhau ngoài bãi dâu, đã trót… Xin sư phụ tha tội.” Ông đồ Tụng bỗng sững lại, rồi vuốt râu cười lớn: “Kha kha kha… Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên. Âu đó cũng là mối nhân duyên trời định. Có gì mà tội lỗi chuyện đó. Ta cũng chỉ có một đứa con gái duy nhất, ta sẵn lòng cho nó theo hầu tướng quân.”
“Xin đội ơn sư phụ đã không trách mắng mà còn rộng lượng. Nhưng trước mắt hãy cứ xin nhận của Trần Quốc Tuấn này một lạy, coi như đã là tế tử của người.”
“Thế tướng quân định liệu việc này thế nào?”
“Dạ, thưa sư phụ. Con xin phép sư phụ rồi về Vạn Kiếp sắm sửa lễ vật để lên đón Quế Lan về làm thiếp yêu ạ.”
“Ừ, việc này cứ tùy tướng quân định liệu sao cho vẹn mọi bề. Ta chỉ mong con Quế Lan nhà ta theo hầu cho tướng quân được êm ấm, làm cho tướng quân nồng nàn chốn khuê phòng, lại thêm được người chăm lo gia sản, để dồn tâm trí lo việc nước nhà. Ta đồ rằng bọn giặc hung hãn phương Bắc, nó chưa chịu từ bỏ đất Đại Việt ta đâu. Chuyện an nguy của nước nhà rồi nay mai để cả trên vai của tướng quân đó.”
“Đa tạ sư phụ đã dạy. Con cũng đã nghĩ đến việc này. Trận chiến vừa qua mới chỉ như là để cho quân sĩ thao dượt mà thôi. Sẽ còn nhiều trận ác liệt hơn!”
“Quế Lan đâu rồi.” Ông đồ Tụng gọi lớn.
Nàng Quế Lan từ trong buồng khép nép rón rén bước ra.
Nàng cúi đầu nghe cha dạy, nhưng vẫn không kìm được mình, ánh mắt âu yếm si mê hướng vào chỗ Quốc Tuấn đang ngồi. Ông đồ Tụng nói về nghĩa phu thê, về trai anh hùng chí ở mười phương, về gái chính chuyên chỉ có một chồng. Người Kinh Bắc vẫn hát, một ngày tựa mạn thuyền rồng… Quế Lan nghe, nhưng dường như không có một tiếng nào của cha lọt vào trong đầu mình. Cả hồn vía của nàng vẫn đang lơ lửng trên chín tầng mây. Một buổi sáng được nằm trọn trong tay chàng dũng tướng vô địch Đại Việt, nàng cực kỳ mãn nguyện. Khi Quốc Tuấn vòng tay siết chặt thân thể nàng, tức thì từ trong sâu thẳm của thiếu nữ, những cơn sóng khao khát từ đâu dào tới dập dồn hoang hoải. Nàng đã buông mình, để mặc cho cơn sóng ái tình kỳ diệu ấy cuốn đi. Cơn sóng ấy như cuốn băng nàng ra tít tận khơi xa thẳm mịt mù, tại đó, một cái xoáy nước khổng lồ cuốn nàng vào một nơi dường như chốn thiên đường mờ ảo. Nàng mê man trong cái xoáy nước điên cuồng, không biết gì nữa. Thân thể thiếu nữ đẹp đẽ khỏe mạnh của nàng quay cuồng trong những cơn xúc cảm đê mê không tả nổi nên lời… Mới chỉ chia tay chàng lúc giữa trưa để Quốc Tuấn về bên Bãi Soi, nàng đã thấy nhớ chàng khủng khiếp. Nhớ làm sao cái cảm giác nằm trong lòng chàng như đang nằm trong xoáy nước. Sung sướng đến ngạt thở chỉ muốn nổ tan thành trăm mảnh.Lúc sáng, nàng đã nói với cha là chiều nay Quốc Tuấn sẽ qua thăm, nhưng nàng không dám bày tỏ chuyện trong nương dâu với cha. Dầu vậy, cha nàng, bằng linh cảm của người cha và nhìn khuôn mặt con gái yêu của mình ngời ngợi khi nhắc tên Quốc Tuấn, ông đã cảm thấy cứ ngờ ngợ như có chuyện gì xảy ra. Nhưng ông cũng không dám chắc. Bây giờ thì ông đã hiểu. Đây là một mối nhân duyên trời định, nàng Quế Lan đã thuộc về Quốc Tuấn, họ đã là một đôi.
Lúc này đang là tháng Tư, khí trời ấm áp…
Quốc Tuấn cũng đắm đuối nhìn nàng.
Ông đồ Dương Đức Tụng tự dưng thấy mình có nói mãi cũng chỉ như thừa. Hai kẻ si tình cứ mải nhìn nhau đắm đuối, như chẳng ai còn nghe thấy một lời nào của ông nữa…
Ông đi ra sân quát gọi sai kẻ ăn người ở trong nhà dựng rạp, thắp đèn kết hoa bày tiệc tại gia, mời các bô lão trong làng Trầm đến uống rượu mừng cho mối duyên lành.
Nhà ông đồ vốn thuộc hàng khá giả ở vùng Kinh Bắc, có ruộng lúa, nương dâu, có nhiều khung cửi thuê người làm, có cửa hàng buôn bán tơ lụa trên kinh thành. Ngôi nhà ông giữa làng Trầm cũng thuộc diện to nhất, đầy đủ đồ ăn thức đựng, không kém gì của các bậc vương tôn công tử ngoài Thăng Long. Tối hôm đó, đoàn tùy tùng đi theo Quốc Tuấn được lệnh lên bờ, uống rượu mừng chủ nhân nạp thiếp mới. Rượu chảy tràn như nước sông Thiên Đức. Say nghiêng ngả đất trời…
Ông đồ Tụng cho người sắm sửa đèn nến trang hoàng ngôi nhà mình thành nơi tân hôn cho Quốc Tuấn và Quế Lan.
Ông sang nhà anh em trong làng nghỉ, nhường lại cả tòa nhà cho đôi trẻ.
Đêm ấy mười chín, trăng lên muộn. Nhưng bầu trời trong veo sáng xanh kỳ lạ. Quốc Tuấn cùng Quế Lan tay trong tay uống rượu ngắm trăng. Trăng xanh chiếu vào làm cho mắt nàng Quế Lan cũng xanh biếc. Quốc Tuấn nhìn sâu vào đôi mắt nàng, chàng võ tướng biết rằng đôi mắt thăm thẳm ánh trăng của nàng thôn nữ sẽ mãi mãi là của mình. Trọn vẹn. Và chàng võ tướng trẻ tuổi tài cao vô địch nước Đại Việt khi ấy đã trào dâng sung sướng nghĩ, rồi đây sẽ đón người đẹp vùng Kinh Bắc về hậu cung của mình tại thái ấp Vạn Kiếp để cùng hưởng hạnh phúc, vinh hoa phú quý.