← Quay lại trang sách

Chương 2 UY VŨ THẦN GIÁO PHÁP LÔI

Hay Những chiến công đầu của võ tướng trẻ

Chiếc khinh thuyền chở võ tướng Trần Quốc Tuấn băng qua cửa Mỹ Lộc, tiến vào Lục Đầu Giang.

Xung quanh khoảng sông rộng mênh mông như bể, từng đội chiến thuyền neo đỗ chỉnh tề, cờ xí phấp phới. Quân sĩ gươm giáo trong tay, đứng nghiêm trên sạp, trên lâu thuyền chờ đón chủ tướng.

Khi thuyền Trần Quốc Tuấn vừa nhô tới cửa Lục Đầu, lập tức cờ lệnh phất lên. Tiếng chiêng trống dồn vang rung động cả lòng sông. Tiếng trống đại dập thùng thùng tưởng như muốn tung lồng ngực. Tiếng trống đồng bung… bung… ung… ung… trầm hùng. Tiếng tù và cuộn lên u u u… Tất cả hòa vào nhau thành một bản nhạc hùng tráng. Quân sĩ nhất loạt nâng giáo lên cao, dập đốc xuống mạn thuyền rầm rập, đồng thanh hô lớn: “Tướng quân bách thắng! Bách thắng! Bách thắng!” Dân vùng Vạn Kiếp, dân các nơi đổ về chào đón người anh hùng thắng trận trở về đứng kín trên bờ sông, đứng ngàn ngạt cả trên dãy núi Phượng Hoàng. Tiếng hò reo dậy đất. Biển dân trên bờ hân hoan, cồn lên như sóng cùng với nhịp hô của quân sĩ rền vang mặt sông.

Nghe tiếng hô đón chào của quân sĩ, nhìn biển dân trên núi rùng rùng vẫy chào tung hô, võ tướng dày dạn chiến chinh Trần Quốc Tuấn cũng thấy bồi hồi, rưng rưng trong lòng…

—★—

Trần Quốc Tuấn mới chỉ rời thái ấp Vạn Kiếp đi đánh giặc hồi tháng Chín năm ngoái.

Ngày mùng hai đầu tháng, Trần Quốc Tuấn theo lệnh của Đức vua Trần Thái Tông về Thăng Long hội triều cùng với các thân vương, bàn kế chống bọn giặc hung tàn Thát Đát do viên tướng Ngột Lương Hợp Đài dẫn đầu đang tiến vào nước ta.

Ngay tối hôm đó, Quan Gia cho triệu Quốc Tuấn vào điện Đại Minh bàn việc nước. Cùng dự có cả Thái Sư Trần Thủ Độ. Thi lễ vua tôi, gia đình xong, Đức ông Trần Thủ Độ cho đuổi hết tả hữu ra ngoài, chỉ còn ba người, Đức ông hướng về Quốc Tuấn nói:

“Bọn giặc Thát Đát sắp xâm phạm nước ta. Việc đánh hay hòa với chúng thì triều đình cũng đã nhiều phen nghị bàn. Ta chủ trương đánh. Quan Gia cũng chủ chiến. Các vương hầu nhiều người ái ngại thế giặc mạnh nhưng nể ta và Quan Gia không nói ra, vẫn âm thầm tính kế. Trong họ nhà mình, cháu đang giữ ngôi trưởng, lại là người trẻ tuổi tài cao văn võ kiêm toàn. Ông và Quan Gia hôm nay muốn nghe cao kiến đánh giặc giữ nước của cháu…”

“Ở đây chỉ có người nhà thân tín, Quốc Tuấn con, hãy nói hết chủ kiến của mình không phải e ngại. Ta và Thượng Phụ muốn biết ý con thế nào để sáng mai ra triều quyết đoán.” Đức vua Trần Thái Tông, cũng là bố vợ của chàng tiếp lời Đức ông Trần Thủ Độ.

Trần Quốc Tuấn kính cẩn vòng tay hướng về phía hai người nói:

“Tâu Quan Gia, tâu Thượng Phụ. Con xin phép trình bày kế đánh lại bọn giặc Thát thế này: Chúng là lũ giặc hung tàn cường bạo, vừa đánh dẹp xong nước Đại Lý khí thế đang mạnh. Mà quân ta thì thực tế lực lượng không bằng. Ta không thể nào dàn quân đối địch với chúng ngay trận đầu, làm thế sẽ tức khắc bại vong. Ta chỉ có thể đánh nhiều trận nhỏ trước, tiêu hao dần lực lượng của chúng. Làm cho chúng yếu đi. Khi nào chúng suy sụp, ta sẽ đánh bồi một trận to cho sụp hẳn. Chúng muốn tiến nhanh, ta sẽ cản bước làm cho chúng chậm lại. Chúng cần đồng rộng để tiến quân, ta sẽ dử chúng vào đường hẹp mà đánh. Chúng quen đánh cạn ta sẽ lôi xuống nước giao chiến. Chúng từ xa đến cần lương thảo ta sẽ triệt đường lương thảo… Tóm lại ta sẽ dùng đoản binh mà chế trường trận. Lấy ít địch nhiều. Lấy yếu thắng mạnh. Chúng nó là lửa, ta sẽ là nước… Thưa Quan Gia, thưa Đức ông, mọi mưu kế để quân dân cả nước ta có thể đánh tan lũ giặc này đã được con nghiền ngẫm, viết cả trong quyển sách con đặt tên là Sát Thát Liên Hoàn Kế này, trình Quan Gia và Thượng Phụ xem rồi cho ý chỉ.”

Trần Quốc Tuấn rút trong người ra một quyển sách được đóng cẩn thận dâng lên Đức vua Trần Thái Tông. Ngài lập tức mở ra. Ngài xem mê mải. Cứ mỗi lần giở một trang sách, khuôn mặt Ngài hình như lại giãn ra một chút. Rạng rỡ hẳn lên. Quốc Tuấn ngồi yên ngắm Đức vua cũng là chú ruột mình. Đức vua Trần Thái Tông khá giống với anh trai An Sinh Vương của mình. Ngài có khuôn mặt sáng láng, phương phi, mũi cao miệng rộng. Đôi lông mày rậm thẳng băng trên cặp mắt to sáng, ánh nhìn như có hào quang phát ra của một bậc chính nhân quân tử. Ngồi ngắm Quan Gia đọc sách, Quốc Tuấn bỗng nhớ đến cha. Tưởng như cha mình đang ngồi đọc sách trước mặt. An Sinh Vương mất cách đấy hơn sáu năm rồi, khi chàng vừa mới lập thành gia thất. Lời cha cầm tay dặn lúc lâm chung… Trần Quốc Tuấn lắc nhẹ đầu, chàng như muốn xua đi một ý nghĩ nào đó vừa lóe lên…

Đức ông Thái Sư thì ngồi trầm ngâm thưởng trà. Năm nay Ngài đã hơn sáu mươi tuổi. Cả đời chèo chống, một tay dựng nghiệp đế vương cho dòng họ. Những nét già nua mệt mỏi cũng đã hiện lên trên khuôn mặt cương cường của Ngài. Ngài lim dim mắt, tưởng như là ngủ. Nhưng không phải, Ngài đang kín đáo quan sát hai đứa cháu, hai trụ cột của cơ đồ mà Ngài bấy lâu gây dựng. Quan Gia là cháu gọi bằng chú. Quốc Tuấn là cháu gọi bằng ông. Một đang tuổi tráng niên. Một đang tuổi thanh niên tuấn kiệt. Cả hai đứa cháu đều được ông chú tâm rèn giũa từ bé, đón thày giỏi dạy, tuyển sách hay cho đọc. Được dạy dỗ đầy đủ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng. Võ nghệ cao cường, đứng đầu môn phái Đông A của dòng họ. Văn chương thơ phú cũng nức tiếng giang sơn. Một người đắc đạo làm vua. Một người nhuần đạo làm thần. Ông có mệnh hệ gì thì thời khắc này cơ nghiệp dòng họ nhà Trần có lẽ cũng không phải lo lắng gì…

“Thưa Thượng Phụ” - giọng Đức vua Trần Thái Tông vang lên mừng rỡ cắt dòng suy nghĩ của cả hai - “Quả đây là kế sách vẹn toàn giữ nước, đánh giặc. Xin Thượng Phụ xem rồi cho ý quyết.”

Thái Sư Trần Thủ Độ đón quyển sách từ tay Trần Thái Tông, đặt xuống án, rồi vuốt râu cả cười, nói:

“Ta vốn là tay chài lưới ít học, chữ nghĩa không thể so bì hai cháu. Nhưng nghe Quốc Tuấn nói, nghe Quan Gia khen ta hoàn toàn tin tưởng. Hào khí Đông A của dòng họ nhà ta vốn bất khuất kiên cường, không biết sợ kẻ nào. Nay có Quan Gia sáng suốt làm chủ, Quốc Tuấn tài giỏi võ nghệ cao cường tận trung làm tướng, bọn giặc nào sang đất này chúng cũng sẽ thủ bại mà thôi.”

Đức vua Trần Thái Tông phấn khởi vỗ tay làm hiệu.

Một tiệc rượu lập tức được bày ra.

Tối hôm đó, trong điện Đại Minh, ba người đàn ông lừng lẫy, ba cây cột trụ của triều đình nhà Trần, ngồi uống rượu với nhau đến khuya. Theo thông lệ của dòng họ, khi vào cuộc rượu, mọi lễ nghi được cởi bỏ. Quốc Tuấn năm đó mới hai mươi chín tuổi, khí lực đang dồi dào. Được ông và chú cho phép, chàng uống và nói thoải mái, chàng trình bày hết những mưu kế phá giặc mà mình đã dày công suy tính lâu nay. Đức ông Thủ Độ liên tục ban lời khen ngợi. Thái Tông hết sức hài lòng về chàng. Quốc Tuấn được hai bậc trên tự tay rót rượu ban khen, chàng uống nhiều, khá say. Thái Tông nói: “Đã khuya, Thượng Phụ và con ta ở lại trong cung. Ta sai người sửa soạn giường chiếu, ba ông cháu cha con cùng nằm gác chân nói chuyện với nhau cho ấm áp.” Đức ông Thủ Độ cả cười: “Ta nay sáu mươi nhăm tuổi rồi. Nằm với các ngươi như xưa thì ta bị đè ngạt thở mất. Quốc Tuấn thân chắc như cây lim xanh, chân tay cuồn cuộn như cây nghiến… ta không nằm chung với nó được. Không được! Gãy xương mất!”

“Thượng Phụ cả quyết về phủ thì để cháu cưỡi ngựa theo hầu kiệu của ông về ạ.” Quốc Tuấn nhanh nhẹn nói. “Không cần. Cháu để ngựa đây, lên kiệu cùng ông về. Hôm nay trời hơi lạnh, ông cháu ta đều đã say, không nên ra gió. Vả lại đã lâu ta không gặp cháu. Ta muốn ngồi cùng cháu thêm chút nữa.”

Hai ông cháu cáo biệt Trần Thái Tông cùng lên một kiệu.

Không biết Đức ông Trần Thủ Độ có ý từ trước không, nhưng lúc vào cung, người đã đi kiệu đôi. Hai ông cháu ngồi thoải mái trên kiệu để cho tám gia nô khiêng đưa về phủ Thái Sư. Đường từ cấm thành về phủ khá xa. Hai ông cháu lại có dịp hàn huyên. Đức ông Trần Thủ Độ vỗ vai Quốc Tuấn, cất giọng bùi ngùi: “Mai cháu sẽ được triều đình cử cầm quân ra chiến trường đánh giặc, đêm nay ông có vài điều muốn nói riêng với cháu. Họ Đông A nhà ta xuất thân chài lưới mà nay làm chủ thiên hạ, thật là mệnh trời trao cho vậy. Cha cháu lúc còn sống có nhiều điều không bằng lòng với ta. Ta cũng biết là đến tận lúc chết, cha cháu vẫn còn hận, còn di chúc cho cháu. Nhưng cháu là bậc thiên tài, do trời sai xuống giúp họ Đông A, đỡ cho con dân Đại Việt qua khỏi đận lầm than. Cháu không phải là kẻ tầm thường. Thiên mệnh của cháu cứu giúp hộ trì cho muôn dân vượt qua cơn binh lửa tàn khốc này. Cũng như thiên mệnh của ông là mở đường khởi nghiệp cho vương triều nhà Trần ta. Thiên mệnh của Quan Gia là giữ ngôi đế vương Đại Việt để cho lòng người và giang san thống nhất. Cha cháu không có thiên mệnh ấy. Nếu không có thiên mệnh, mà cứ cố cưỡng mệnh trời thì trước sau cũng bại. Cháu là người đọc thiên kinh vạn quyển, đã đọc hết sách thánh hiền, bách gia chư tử, các bậc kỳ tài trong thiên hạ, ông tin cháu hiểu điều đó. Ông võ biền ít học, mà ông cũng còn hiểu điều đó, huống chi. Hồi trứng nước, Quan Gia tám tuổi, quyền cả trong tay ông. Nếu ông có bụng muốn nhòm ngó ngai vàng, thử hỏi việc gì không thành? Nhưng ông biết mình không có mệnh đế vương. Ông cam tâm một lòng làm tôi trung, phò tá cho xã tắc vững bền để muôn dân được an nghiệp ấm no. Quan Gia cứng cáp lo được việc nước, ông về ở Quắc Hương cho thảnh thơi. Mọi việc ông làm với cha cháu sau này nghĩ lại ông cũng thấy có phần hồ đồ vội vã. Nhưng tất cả cũng chỉ vì cơ nghiệp triều ta mà ông vạn bất đắc dĩ phải ép cha cháu. Nay cha cháu đã khuất núi, ông thì cũng đã già, đất nước lại đang bị bọn giặc hung tàn nhòm ngó. Ngày mai tại buổi thiết triều, ông sẽ tâu xin Quan Gia xuống chiếu giao binh quyền cho cháu, toàn quyền hành động. Ta và Quan Gia không mảy may lo lắng cháu có binh mã trong tay sẽ trở cờ cướp ngôi. Một đấng anh hùng cái thế như cháu phải lập chiến công lừng lẫy, lưu danh sử sách ngàn đời, chứ không phải mưu vinh hoa phú quý nhất thời để rồi muôn năm nhân gian nguyền rủa. Ta tin ở cháu!”

Sáng hôm sau, ngày mùng chín tháng Chín năm Nguyên Phong thứ 7 (1257). Đức vua Trần Thái Tông xuống chiếu sai Trần Quốc Tuấn đem quân thủy bộ lên biên giới chống giặc, toàn quyền tiết chế.

Ngày mười lăm tháng ấy, Trần Quốc Tuấn dẫn đại quân đi.

Tiễn Quốc Tuấn qua cửa Tây kinh thành Thăng Long, Thái Sư cưỡi ngựa đi bên tả. Nhà vua cưỡi ngựa đi bên hữu. Qua khỏi kinh thành mười tám trượng, Quốc Tuấn vòng tay bái biệt: “Xin Quan Gia và Thái Sư dừng bước. Tiểu tướng xin bái biệt!” Đức vua Thái Tông cầm cương ngựa Quốc Tuấn lưu luyến: “Con ta ra trận tiền mạnh giỏi. Ở hậu quân, ta và Thái Sư cùng các tướng sẽ theo sự sắp đặt của con. Liên hoàn trận này con bày ra, ta tin chắc Ngột Lương Hợp Đài chỉ có cửa bại, không có cửa thắng!” Thái Sư Trần Thủ Độ vuốt râu cười lớn. Khuôn mặt Ngài bừng bừng khí thế. Đêm hôm uống rượu cùng Quốc Tuấn ở điện Đại Minh về, Ngài sai gọi một gia nhân tin cẩn vào buồng thắp đèn bình đọc quyển sách mà Quốc Tuấn dâng. Nghe xong thì vừa đến giờ vào chầu. Ngài thầm nghĩ vương nghiệp dòng họ Đông A, cơ đồ non sông Đại Việt có một tay tài ba hào kiệt trẻ tuổi như thế này, quả đúng là không có gì phải lo lắng nữa…

Xoay người, vòng tay bái biệt Đức vua cùng các quan văn võ triều đình ra tiễn lần nữa, Trần Quốc Tuấn ra roi phi ngựa. Dân kinh thành đổ ra cửa Tây tiễn quân sĩ đi đánh giặc, đứng kín hàng dặm dài, bày rượu thịt, hoa quả la liệt hai bên đường úy lạo quân sĩ.

Tướng quân Trần Quốc Tuấn cao to vạm vỡ, sức vóc hơn người. Khuôn mặt hồng hào tươi sáng mà vẫn mang nét nghiêm trang võ tướng. Trên mình viên võ tướng trẻ tuổi mặc một bộ giáp trụ bằng đồng sáng rực, tay cầm một cây giáo nặng bốn mươi cân, được thửa riêng bằng sắt mua về từ Tây Vực. Cây giáo do đích thân An Sinh Vương Trần Liễu, năm Quốc Tuấn mười lăm tuổi, đã kén sắt và sai lò rèn Đa Hội nổi tiếng bên Kinh Bắc tôi luyện cả năm ròng mới xong. Được tôi rèn cực kỳ kỹ lưỡng bởi các tay thợ nổi tiếng nên cây giáo toàn bằng sắt này vừa dẻo dai lại vừa sắc bén. Có thể uốn cong như cây cung rồi lại văng trở lại thẳng nguyên như thường. Nhưng cây giáo này khá nặng, chỉ có Quốc Tuấn múa nổi. Khi chàng múa giáo, tiếng gió rít lên như bão, xung quanh người chàng chỉ có những vòng tròn liên hoàn bất tận đan kín, không thấy người. Gươm giáo tên đạn bắn vào văng ra hết. Quốc Tuấn có thể lao cây giáo của mình bay như tia chớp xa hàng trăm trượng. Không kẻ địch nào có thể quay lưng chạy trốn thoát khi viên dũng tướng nắm chặt trong tay ngọn giáo sắt Pháp Lôi - Dân kinh thành Thăng Long đã đặt tên cho ngọn giáo của Quốc Tuấn thế, sau khi xem một buổi chàng luyện cưỡi ngựa bắn cung, phóng giáo trên Giảng Võ Đường. Cây giáo sắt từ tay Trần Quốc Tuấn phóng đi như một tia chớp. Xé gió, xuyên qua mấy lớp hình nhân làm bia. Những hình nhân làm bằng rơm gỗ tung tóe nát vụn, cháy khét lẹt như bị sét đánh… Ai được chứng kiến cũng kinh sợ. Họ bảo nhau, chỉ có thần nhân mới có sức mạnh như vậy.

Trần Quốc Tuấn giỏi mọi môn võ nghệ. Phi ngựa, bắn cung, đánh gươm, côn quyền cho đến cả môn võ vật truyền thống của họ Đông A chàng cũng đều không có đối thủ. Nhưng sử dụng cây giáo sắt dài gần một trượng, nặng bốn mươi cân mới là môn Quốc Tuấn yêu thích nhất. Trong những cuộc đấu tay đôi trên Giảng Võ Đường, không có một vương tôn công tử hay một gia tướng nào chịu nổi quá ba hiệp của Quốc Tuấn. Lĩnh ấn tiên phong ra trận, lại được giao toàn quyền việc điều động sắp xếp binh lực trong nước đánh giặc, vương tử trẻ tuổi Trần Quốc Tuấn háo hức lên đường lập công. Viên tướng tiên phong của triều Đông A hoàn toàn yên tâm, mọi việc Quốc Tuấn đã bàn kỹ với nhà vua và Thái Sư. Chàng còn được Đức vua trao cho thanh kiếm báu của vương triều. Thanh kiếm báu này được rèn tinh xảo kỹ lưỡng và được Quốc Sư Phù Vân trên núi Yên Tử ban phép từ khi nhà Trần mới lên ngôi. Đó là một thanh kiếm cực kỳ sắc bén, có thể lấy đầu người ta ngọt như thái chuối. Trên chuôi kiếm nạm ngọc quý một bên đã khắc hai chữ Hộ Quốc, một bên khắc hai chữ An Dân. Đức Trần Thái Tông khi trao bảo kiếm cho Quốc Tuấn còn sai người khắc tên Trần Quốc Tuấn lên bao kiếm và dặn chàng, tướng quân ra trận, toàn quyền mọi việc định đoạt, cứ có lợi cho dân cho nước là làm, không cần bẩm báo…

Trần Quốc Tuấn thúc con ngựa tía cao lớn, vọt lên trước hàng quân, giơ cao ngọn giáo Pháp Lôi thét rền vang đất trời Thăng Long: “Ơn vua nợ nước chí trai hôm nay thề quyết trả! Tráng sĩ ba quân, hãy cùng ta xông ra chiến trường, giết giặc lập công, rạng danh hào khí Đông A. Sát Thát!”

“Sát Thát! Sát Thát! Sát Thát!” Tiếng đoàn quân gầm lên rung trời chuyển đất, đáp lời chủ tướng. Vị tướng quân tiên phong trẻ tuổi của vương triều Đại Việt thúc ngựa, dẫn đầu đoàn binh, nhằm hướng biên giới thẳng tiến.

Đức vua Trần Thái Tông, Thái Sư Trần Thủ Độ cùng văn võ bá quan trong triều ra tiễn lặng đi.

Dân chúng đứng kín hai bên đường bỗng sụp xuống quỳ lạy.

Họ dường như vừa thấy anh linh của tổ tiên đất nước hiện về… Gió thốt nhiên lồng lộng, ngày sáng bừng rực rỡ, những đạo hào quang lộng lẫy trên bầu trời tạo nên muôn ngàn hồng tía như đài hoa chiến thắng đang đợi chờ tướng sĩ ra trận.

Vua quan và dân chúng rất phấn khởi, một lòng tin tưởng vào chiến thắng, dù biết kẻ thù hung hãn. Tất cả đều tin vào tài năng võ nghệ siêu quần của Trần Quốc Tuấn và cách bài binh bố trận của viên thiên tướng văn võ song toàn này sẽ đưa nước Đại Việt vượt qua cơn hoạn nạn.

—★—

Biết quân Thát sẽ men theo sông Cái để tiến về Thăng Long, Trần Quốc Tuấn đã cho bày một thế trận liên hoàn từ cửa khẩu Lê Hoa về đến kinh thành. Xuất quân lên biên ải, Quốc Tuấn lập tức cho vời anh em chủ trại Quy Hóa miền biên viễn Hà Khuất, Hà Bổng đến úy lạo và bàn mưu kế đánh giặc.

Liên hoàn trận Trần Quốc Tuấn trình trong sách dâng Đức vua Trần Thái Tông, trong đó đã viết rõ từng cách đánh cho từng trận và cách xử lý các tình huống có thể xảy ra. Đức vua rất đẹp lòng về con rể, Ngài giao cho Thái Sư Trần Thủ Độ chỉ huy quân dân cả nước cùng thực hiện.

Từ ải Lê Hoa về đến kinh thành Thăng Long, Quốc Tuấn cho bày nhiều trận địa phục sẵn đợi giặc. Quốc Tuấn dự liệu bọn giặc Thát này hành binh bằng ngựa sẽ tiến quân rất nhanh, cần phải cản bước tiến của chúng lại. Phải đánh cho chúng nhiều trận thất điên bát đảo, làm nhụt bớt nhuệ khí của chúng, và làm cho chúng trên đường tiến quân không được yên ổn một ngày đêm nào. Tiêu hao sinh lực, chặn đường tiến quân của chúng bằng các trận địa phục kích dựa vào địa hình núi non hiểm trở và gỗ đá trữ sẵn trên sườn núi, xô xuống. Phóng lao và bắn tên thuốc độc rồi rút ngay. Đó là cách đánh Quốc Tuấn bàn kỹ với các chủ trại họ Hà.

Tướng quân Trần Quốc Tuấn cũng bàn với các thủ hạ của mình là sẽ đánh ba trận lớn tại ải Lê Hoa, bến Âu Lâu và Bình Lệ Nguyên, để cho chúng biết thế nào là sức mạnh quân ta và nhằm mục đích tiêu diệt càng nhiều quân địch càng tốt.

Kẻ địch vượt được ải Lê Hoa thì Hà Khuất, Hà Bổng sẽ dùng quân mai phục trên các sườn núi đánh phá dọc đường để làm chậm sức tiến quân của chúng. Tên nỏ thuốc độc, câu liêm, hầm bẫy ngựa, đá hộc, gỗ, lao sẽ đợi chúng…

Về đến bến Âu Lâu, để cho Ngột Lương Hợp Đài dẫn quân vượt sông xong chưa kịp chỉnh đốn đội ngũ, quân ta sẽ xông vào tập kích luôn.

Giặc tiến đến Bình Lệ Nguyên sẽ gặp đại quân thủy bộ của triều đình do đích thân Quan Gia chỉ huy nghênh chiến. Thắng thế ta sẽ tiêu diệt luôn. Núng thế, ta sẽ rút theo sông Cái, bỏ lại Thăng Long vườn không nhà trống, lui về bãi Thiên Mạc tập hợp lực lượng phản công lại sau.

Ngày 23 tháng Mười một năm Nguyên Phong thứ 7 (1257), Ngột Lương Hợp Đài dẫn năm mươi ngàn quân xâm phạm lãnh thổ Đại Việt.

Đến ải Lê Hoa, gặp Trần Quốc Tuấn cầm quân trấn giữ. Thấy ải bé nhỏ sơ sài, Ngột Lương Hợp Đài xua quân công phá luôn. Đánh suốt một ngày, hao tổn khá nhiều quân sĩ mà không phá được. Y cho quân đóng trại đối diện với ải rồi chuẩn bị ngày mai tấn công lớn.

Sáng hôm sau, vào giờ Tỵ, quân Thát bày trận khua chiêng gõ mõ ầm ĩ trước cửa ải thách quân ta giao chiến. Quốc Tuấn dẫn quân ra bày trận đối địch. Ngột Lương Hợp Đài ngồi trong trung quân chỉ gươm thét mắng: “Tên giặc cỏ Nam man kia, bay thấy quân ta đến thì phải mở cửa ải, dâng rượu thịt khoản đãi, cung kính đứng hầu thì ta sẽ bảo toàn tính mạng cho! Nay nhà ngươi láo xược dám đem trứng chọi đá, bẻ nạng chống trời. Ta sẽ cho ngươi biết thế nào là vó ngựa thảo nguyên Mông Thát! Bay đâu, ra lấy đầu thằng nhãi kia cho ta!”

Đoàn Hưng Trí vốn là vua nước Đại Lý đã theo hàng quân Thát, nay làm tướng tiên phong dẫn đường, tâu: “Xin tướng quân cho tiểu tướng này ra trận chém đầu tên nghịch tặc này để tế cờ ba quân.”

Trí nhảy lên ngựa, tay cắp đao xông ra.

Quốc Tuấn cầm thần giáo Pháp Lôi xông tới.

Chưa hết một hiệp, Đoàn Hưng Trí đã bị Trần Quốc Tuấn đâm cho một giáo xuyên ngọt qua người, Trí phi ngựa bỏ chạy về được đến trong quân thì tắt thở, không kịp nói lời nào. Quân Thát rúng động. Ngột Lương Hợp Đài truyền hỏi xem đó là viên tướng nào của Đại Việt, có người biết tâu lên: “Thưa, đó là viên tướng trẻ tên là Trần Quốc Tuấn. Tên này vẫn được người Việt ca ngợi là võ công cái thế vô địch thiên hạ.”

“Nó vô địch chỉ vì chưa gặp các dũng sĩ của ta thôi! Triệt Đô, ngươi mau phi ngựa ra bắt sống nó về đây cho ta!” Triệt Đô là một viên mãnh tướng trong đội quân Thát Đát. Y nổi tiếng võ nghệ cao cường, chưa từng thất bại trận nào. Số đầu tướng đối phương bị y chém không đếm được. Triệt Đô sở trường đánh gươm, bắn cung và được Thành Cát Tư Hãn phong dũng sĩ.

Triệt Đô gầm một tiếng vang trời, thúc ngựa xông ra. Quốc Tuấn mặt không biến sắc, xông tới nghênh chiến. Triệt Đô đấu với Quốc Tuấn hàng trăm hiệp từ giờ Tỵ qua giờ Ngọ hết giờ Mùi không phân thắng bại. Quân sĩ hai bên hò hét đánh trống khua chiêng rầm một góc trời. Hai tướng quần nhau tơi bời, bên giáo sắt đâm xỉa, bên gươm múa lượn dứ chém. Ngựa vờn quanh nhau, dựng bờm hí vang. Lao vào nhau xáp chiến rồi lại dãn ra chạy vòng thủ thế, tiếng gươm giáo bổ vào nhau chát chúa. Lửa tóe chói lòa trong nắng. Quân sĩ hai bên thấy thế hăng máu, hò hét, nhảy xổ vào đánh chém nhau loạn xạ hồi lâu không phân thắng bại. Ngột Lương Hợp Đài đánh chiêng thu quân. Trần Quốc Tuấn cũng ra hiệu cho quân mình lui về ải và đóng chặt cửa lại.

Chiều ấy, Quốc Tuấn lên lầu canh đứng nhìn sang trại giặc. Người ngựa cùng gươm giáo đang trùng trùng điệp điệp kéo đến đóng dài mấy dặm quanh dãy núi trước mặt. Phía xa xa, chiến cụ công thành đang được quân Thát chuyển đến rất nhiều. Quốc Tuấn liệu thế quân mình không cự nổi, về gọi viên phó tướng Phùng Trân và hai viên thổ tướng Hà Khuất, Hà Bổng vào bàn bạc. Quốc Tuấn nói: “Thế giặc rất mạnh, cố đương đầu với chúng bây giờ không khác gì chặn xe lao dốc. Ta tạm lánh đợi cho chúng hết cái hung hăng ban đầu đi rồi quật lại chưa muộn. Đêm nay canh ba, ta sẽ bí mật rút quân về bến Âu Lâu phục sẵn. Hai tướng ở trên này cứ theo kế đã định mà làm. Hai dặm phục bắn một trận nhỏ. Năm dặm lại lăn đá núi, đốt lửa khe làm mù đường xông ra đánh một trận ngang sườn chúng rồi rút nhanh. Nhớ bảo toàn tính mạng quân sĩ. Cứ thế chặng đường từ đây về bến Âu Lâu không cho chúng được nghỉ ngày nào. Đêm thì bắn tên, phóng hỏa. Ngày thì đặt bẫy, xô gỗ đá trên núi xuống chặn đường. Quân Thát có mò tới Âu Lâu cũng phải nhụt chí vài phần. Ta sẽ đánh lớn tại đó. Lúc đó hai ngươi cũng đổ quân đánh mạnh vào hậu quân, và nhất là đánh cướp bọn tải lương đi sau, làm rối loạn chúng ra.” Viên phó tướng Phùng Trân vốn đã theo Thái Sư Trần Thủ Độ đi đánh dẹp Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn từ buổi sơ triều, rất dày dạn trận mạc, được Quan Gia cử đi làm phó cho Quốc Tuấn, cũng nói: “Tướng quân tính thế là chí phải. Thế quân Thát đang như lũ ống đổ. Ta chỉ có thể đánh dần cho nó nhụt khí thế đi chứ đối đầu bây giờ thì sẽ bị cuốn phăng. Hai tướng ở lại đánh nhưng nên chỉ mật phục chớp nhoáng, đánh xong rút ngay, bảo toàn quân sĩ để đánh lâu dài. Đợi sẽ có lúc đánh một trận huyết chiến cho chúng biết thế nào là quân Đại Việt ta.”

Hai tướng Hà Khuất, Hà Bổng cùng thưa: “Xin vâng mệnh tướng quân. Mọi diễn biến động tĩnh của giặc, bản tướng sẽ thông báo đầy đủ hàng ngày cho tướng quân bằng bồ câu đưa thư. Bản tướng sẽ làm đúng kế tướng quân đã sắp đặt.”

Chặng đường hơn hai trăm dặm từ ải Lê Hoa men theo Thao Giang về bến Âu Lâu thật là một con đường tử của quân Thát Đát. Không ngày nào, không đêm nào được yên. Thình lình lại thấy tên thuốc độc lao ra vun vút. Chỉ cần chạm vào sớt da là người ngựa sùi bọt mép ngã lăn quay ra chết. Hầm chông sụp. Gỗ đá trên núi lao xuống đập nát người. Câu liêm từ bụi rậm thình lình tung ra giật cổ. Thật sự con đường từ ải Lê Hoa xuống bến Âu Lâu đã thành một con đường máu. Nhưng quân Thát vốn là một đạo binh chinh chiến khắp nơi, nổi tiếng lì lợm, cái chết với chúng cũng không coi là gì. Chúng vẫn thúc ngựa tiến lên. Ngột Lương Hợp Đài tuyên bố, bất kỳ kẻ nào dù tướng hay sĩ, lập công chém đầu hoặc bắt sống Trần Quốc Tuấn đều được xướng danh dũng sĩ trong quân và tâu xin về triều đình phong vạn hộ hầu. Chúng càng hăng, ngày đêm thúc ngựa xông về bến Âu Lâu.

Trần Quốc Tuấn đã bày trận bên này sông đợi chúng.

Ngột Lương Hợp Đài đóng quân bên kia bến Âu Lâu. Y bàn với bộ tướng: “Trần Quốc Tuấn là viên tướng tài số một của Đại Việt. Bắt hoặc giết được nó sẽ làm quân sĩ triều Trần hoảng loạn, tan vỡ ngay. Nay ta quyết vây đánh trận này, bắt giết kỳ được mới thôi. Triệt Đô, ngươi mang một vạn quân vòng lên thượng nguồn năm dặm, vượt sông tại đó rồi xuôi xuống vòng sau lưng quân nó bọc hậu. Triệu Ngột Lương, ngươi cũng mang một vạn quân xuôi hạ lưu năm dặm, vượt sang, hợp với quân Triệt Đô thành vòng kín. Mặt này, ta sẽ thống lĩnh toàn bộ tấn công sang. Quốc Tuấn sẽ bị vây chặt vào giữa, hết đường chạy.”

Nhưng những tính toán của Ngột Lương Hợp Đài không qua mắt được Trần Quốc Tuấn. Đứng trên đồi cao quan sát, thấy cách quân Thát di chuyển, Quốc Tuấn đoán ra được ý đồ của giặc. Nhìn bọn Thát Đát dàn quân bày trận rất hùng hậu quy củ, Quốc Tuấn cũng liệu thế chưa thể đánh tan chúng trận này được. Quân chúng còn quá nhiều mà quân ta ước tính chưa bằng một phần năm quân Thát. Trần Quốc Tuấn một mặt cho người phi ngựa cấp báo về Thăng Long, để Quan Gia chỉ huy bày trận đánh lớn với chúng ở Bình Lệ Nguyên. Ở trên này, Quốc Tuấn chia quân làm ba, một cánh do phó tướng lão luyện Phùng Trân chỉ huy đánh chặn quân Triệt Đô. Dặn viên phó tướng, đánh rát chừng hai canh giờ thì từ từ vừa đánh vừa rút về Bình Lệ Nguyên hợp quân với triều đình ở đó. Còn mình đích thân cầm một cánh vòng xuống đánh chặn Triệu Ngột Lương. Lại chọn một đội quân kỵ, dũng cảm nhanh nhẹn, cho một viên tiểu tướng trẻ tuổi cầm cờ tướng, đóng giả mình, nghênh chiến, bắn tên và phóng lao kịch liệt vào quân Ngột Lương Hợp Đài đang sang sông. Khi quân Thát cậy đông tràn lên được bờ sông rồi thì không giao chiến nữa, rút nhanh về phía hạ lưu, hợp với cánh quân do Trần Quốc Tuấn đích thân chỉ huy.

Triệu Ngột Lương vừa dẫn kỵ binh vượt qua sông thì Trần Quốc Tuấn dẫn quân ập tới, đánh thẳng luôn vào giữa đội hình còn đang lộn xộn của quân Thát. Binh lính Đại Việt hét vang trời xông theo chủ tướng lao vào chém giết. Máu chảy đầu rơi. Trống rền ngựa hí… Cả bờ tả của dòng Thao Giang bụi tung mù trời. Thế nhưng đội quân thiện chiến của Triệu Ngột Lương không dễ đánh bại. Bãi tả Thao Giang dưới bến Âu Lâu là một vùng đất rộng, khá bằng phẳng, hợp với cách đánh kỵ binh của quân Thát. Theo hiệu lệnh tướng, bọn kỵ binh Thát Đát phi ngựa dãn rộng ra, chạy vòng vòng rồi dần dần tập hợp được đội ngũ phản công lại. Quân Đại Việt từ thế chủ động tấn công nhanh chóng bị kỵ binh Thát Đát vây dồn trở lại. Quốc Tuấn lập tức cho quân sĩ bày thế trận Âm Dương Liên Hoàn đối lại. Quân Thát lao vào phá trận không nổi. Nhưng quân ta cũng không di chuyển được.

Triệu Ngột Lương nóng máu, phi ngựa ra trước trận gọi Trần Quốc Tuấn: “Nhà ngươi tiếng là tướng tiên phong của Đại Việt mà cứ núp sau đít sĩ tốt, không dám giao chiến một trận là sao? Ngươi có giỏi ra đấu với ta, chỉ cần chịu nổi năm hiệp chưa mất mạng, ta sẽ mở vòng vây cho quân ngươi đi.” Quốc Tuấn dặn tướng sĩ dưới quyền: “Khi ta ra giao chiến với Triệu Ngột Lương, các ngươi đổi hậu quân làm tiền quân, đánh thẳng vào vòng vây quân Thát dọc bờ sông, chỗ đó ngựa chúng khó di chuyển. Rút lui độ hai mươi dặm ta đã bố trí thuyền đợi. Lên hết thuyền lui về phía Bình Lệ Nguyên, đợi ta ở đó.”

Trần Quốc Tuấn cưỡi ngựa phóng ra trước trận tiền, quát lớn: “Tên giặc Thát láo xược kia, nhà ngươi hôm nay sẽ được nếm ngọn giáo thần Pháp Lôi của ta!”

Triệu Ngột Lương dùng đại đao nhằm đầu Trần Quốc Tuấn bổ tới.

Quốc Tuấn múa giáo sắt quay tít, đánh văng lưỡi đao của Triệu Ngột Lương, rồi bất thình lình trở dọc đâm thẳng ngực đối thủ. Y vội quay đao đón đỡ. Tiếng binh khí va vào nhau chan chát. Hai con ngựa chiến cùng lồng lên, đứng trên hai chân sau, bờm dựng ngược, hí vang trời. Hai viên chiến tướng đỏ mặt tía tai, kẻ vung đao bổ dọc, người quay giáo quật ngang, đâm xỉa. Đấu liền một canh giờ chưa bên nào tỏ ra núng thế. Quốc Tuấn ngầm ra hiệu. Quân Đại Việt lập tức xoay đội hình dồn đánh dọc bờ sông. Quân Thát bị bất ngờ vỡ trận, người ngựa rơi xuống sông chết đuối vô số kể. Quân sĩ Đại Việt lập tức men theo bờ sông rút về phía hạ lưu. Quốc Tuấn vừa đánh với Ngột Lương vừa lui dần theo quân. Triệu Ngột Lương nhìn thấy quân ta đã phá vỡ vòng vây thì tức tối gầm lên một tiếng: “Quốc Tuấn, mi có chạy trời không khỏi nắng hôm nay! Ta sẽ lấy đầu ngươi trước, rồi giết sạch đám quân của mi sau.” Đoạn phi ngựa sáp tới, dướn người, vung đao bổ thẳng một cú sấm sét.

Triệu Ngột Lương vẫn nổi tiếng với cú chém ngàn cân, chưa ai đỡ nổi. Nhiều tướng đối phương không tránh kịp đao của Ngột Lương mà bị xẻ đôi cả người lẫn ngựa. Nhưng Quốc Tuấn không đón đỡ. Chàng liếc nhìn Ngột Lương vung đao bổ xuống, nhanh như chớp xoay người, buông cương, phóng ngọn giáo Pháp Lôi cắm phập ngay cạnh ngựa Ngột Lương vừa lao tới, một tay chàng nắm chắc cán giáo sắt, đu mình bay lên không như đại bàng tung cánh. Khi hai chân Quốc Tuấn chưa xuống đất thì tay kia đã rút thanh bảo kiếm Hộ Quốc vẫn đeo bên mình, vung lên, lia một luồng ánh sáng lạnh lướt ngang cổ Triệu Ngột Lương. Viên dũng tướng Thát Đát chưa kịp hiểu chuyện gì thì đầu y đã lăn lông lốc dưới đất. Nhìn thấy chủ tướng bị chém bay đầu nhanh như chớp giật vậy, quân Thát hoảng loạn tháo chạy, quân ta thừa cơ quay lại chém giết, nhưng Quốc Tuấn đã vẫy giáo ra hiệu lui quân. Chàng biết, Ngột Lương Hợp Đài đã qua sông đang hợp quân ba cánh, thế giặc hãy còn rất mạnh…

Bị chém mất tướng tài, Ngột Lương Hợp Đài càng căm Trần Quốc Tuấn, y thúc quân tiến nhanh về xuôi, được bọn lính do thám báo cho biết, quan quân triều Trần đã lập trận đón đánh ở Bình Lệ Nguyên. Y bảo bọn tùy tướng dưới quyền, sẽ quyết đánh một trận dốc túi so tài cao thấp với Quốc Tuấn tại đó. Không lẽ gì ta là kẻ từng chinh phục từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, trăm trận trăm thắng mà lại thua một tên tiểu tướng, mặt còn non choẹt vậy. Giết Trần Quốc Tuấn, bắt vua quan nhà Trần, làm cỏ quân dân Đại Việt trả thù cho Triệu Ngột Lương. Y đã thề như vậy trước thân thể viên dũng tướng được bọc da ngựa chuyển về thảo nguyên chôn cất.

Chặng đường mấy trăm dặm từ bến Âu Lâu về Bình Lệ Nguyên1, Quốc Tuấn cũng đã cho lập khá nhiều đội quân phục kích. Nhưng quãng đường này đồi thấp, đất ruộng khá bằng phẳng rất phù hợp cho cách đánh của kỵ binh Thát Đát nên quân ta đánh lại không hiệu quả. Bọn chúng cậy ngựa khỏe phi nhanh, quây đánh quân ta thiệt hại khá nhiều, một số tướng sĩ đã tử trận. Những con ngựa cao to của vùng thảo nguyên có thể phi băng băng vượt lên đỉnh những ngọn đồi nhỏ một cách dễ dàng. Chúng tiến quân khá nhanh.

1 Đại Việt sử ký toàn thư, trang 27, tập 20 (Viện Khoa học Xã hội - NXB Khoa học Xã hội 1998); Bình Lệ Nguyên nay thuộc Vĩnh Phúc.)

Ngày 12 tháng Chạp năm Nguyên Phong thứ 7 (1257), Ngột Lương Hợp Đài và toàn bộ quân đã dồn về Bình Lệ Nguyên.

Không cần nhiều thời giờ chỉnh đốn quân sĩ, Ngột Lương ra lệnh tấn công ngay.

Quân ta đã lập trận liên hoàn thủy bộ ứng phó lẫn nhau theo kế của Quốc Tuấn. Quan gia Trần Thái Tông đích thân cầm quân, bên cạnh có hộ tướng Lê Tần cùng chỉ huy đánh giặc.

Tám đạo quân triều và quân bản bộ của các vương gia cùng đánh. Quân của Quốc Tuấn rút từ biên ải về đã kịp đứng vào đội ngũ quân triều đình trong trận.

Quân Thát Đát gào thét man rợ, xung phong, tầng tầng lớp lớp người ngựa tràn lên như sóng vỗ bờ.

Quân Đại Việt ken vững như thành ngoan cường chống trả.

Tiếng trống đồng thúc ầm ầm. Tiếng ngựa hí, người la thét náo loạn một góc trời. Lửa cháy rừng rực. Hỏa pháo nổ vang trời. Tên bắn như mưa.

Trần Quốc Tuấn cầm giáo Pháp Lôi, phi ngựa khắp trận chỉ huy quân sĩ đánh giặc. Thỉnh thoảng viên võ tướng trẻ hăng máu lại xông thẳng vào đội hình quân Thát chém giết. Mỗi khi bóng ngựa của Trần Quốc Tuấn lướt đến đâu, quân Thát lại đổ rạp xuống đến đó. Bộ áo giáp bằng đồng của Quốc Tuấn đã nhuộm đẫm máu thù. Nhưng quân Thát còn đông quá, chúng là những kẻ say máu, không biết sợ là gì. Càng đổ nhiều máu, càng chết nhiều, những tên sau càng liều lĩnh xông lên.

Hai bên giao chiến với nhau từ sáng đến chiều. Quân tiên phong Đại Việt có vẻ núng thế. Ba tên tùy tướng của Ngột Lương Hợp Đài quây đánh Trần Quốc Tuấn giữa trận. Hộ tướng quân Lê Tần nhìn thấy, lập tức múa gươm xông vào trợ chiến. Bọn chúng dạt ra, Quốc Tuấn bảo Lê Tần:

“Tình hình trận này chưa thể xong ngay được, tướng quân về trung quân nói với Quan Gia cho lui binh về Thiên Mạc. Báo cho dân Thăng Long rút cùng. Tướng quân hộ vệ Quan Gia, tôi ở lại đánh cản hậu rồi sẽ rút theo sau.”

Lê Tần phóng ngựa về trung quân bẩm với Trần Thái Tông ý Quốc Tuấn. Mấy viên võ quan bên cạnh vua không đồng ý, nói, quân ta còn nhiều, thủy quân còn nguyên, sợ gì mà phải rút, quyết đánh cho bọn giặc Thát một trận tan luôn. Đức vua Trần Thái Tông năm đó bốn mươi, đương tuổi tráng niên. Đứng trên đài chỉ huy trong trung quân thấy tướng sĩ của mình vẫn hừng hực khí thế, lại thấy Quốc Tuấn vẫn vững vàng trấn giữ tiền quân, phân vân định đánh tiếp.

Lê Tần tâu: “Xin bệ hạ đừng nghe lời kẻ khác. Kế sách lui binh bảo toàn lực lượng đã có trong mưu định sẵn của Trần Quốc Tuấn rồi. Vả lại đánh một ván dốc túi nếu thua thì con dân Đại Việt đi về đâu? Xin hãy bệ hạ hãy tạm lui rồi sẽ bày đánh trận khác chưa muộn.”

Trần Thái Tông nghe lời Hộ tướng Lê Tần xuống thuyền ngự. Ngột Lương Hợp Đài nhìn thấy, ra lệnh cho quân tập trung toàn bộ cung tên nhằm thuyền ngự của Thái Tông mà bắn. Tên bay dày quá, gươm gạt khiên che không xuể, Lê Tần bèn dỡ ngay ván thuyền đứng che cho vua. Quốc Tuấn cũng kịp thời đánh tới, đoàn thủy quân của Đại Việt xuôi theo sông Cái rút lui an toàn ra khỏi vùng chiến địa.

Ngột Lương Hợp Đài xua quân đuổi theo truy kích nhưng Trần Quốc Tuấn chặn đánh rát quá, không tiến được. Y hô tùy tướng quây đánh, quyết bắt sống bằng được viên tướng tiên phong Đại Việt.

Ba viên tướng của Ngột Lương cay cú vì lúc sáng đánh không lại, hè nhau cùng xông vào. Một trận kịch chiến nổ ra dữ dội bên bờ sông Cái. Tiếng gươm giáo chém vào nhau chát chúa. Bụi bay mù mịt, ngựa hí vang trời. Ba ngựa của tướng Thát vây dồn Quốc Tuấn vào giữa, loạn đả. Hồi lâu, Quốc Tuấn nóng máu, tung người nhảy phắt khỏi lưng ngựa xuống đất, vẫy giáo mời ba tướng Thát tiếp chiêu. Ba tên cầm gươm phi ngựa xông tới. Quốc Tuấn thét một tiếng rền vang, cắm phập ngọn giáo sâu xuống đất. Chàng lấy thân ngọn giáo sắt Pháp Lôi làm trụ, một tay bám chặt thân giáo, tung mình xoay vòng tròn trên không, tay kia múa thanh gươm Hộ Quốc một vòng. Đường gươm kỳ ảo lượn như ánh chớp. Máu tóe ra như vòi theo ánh sáng sắc lạnh của lưỡi gươm. Tiếng rống lên như lợn bị chọc tiết của mấy tên tướng Thát khi dính đòn của Quốc Tuấn vang lên, cả ba tên ôm đầu máu chạy về trong quân. Trần Quốc Tuấn bình thản nhổ giáo, nhún mình nhảy lên lưng con chiến mã trung thành tinh khôn đã lại chạy trở lại bên chủ.

Ngột Lương Hợp Đài nhìn ba tùy tướng của mình bị chém trọng thương chỉ trong một đường gươm thì nổi cơn thịnh nộ. Y phi ra trước trận quát lớn:

“Quốc Tuấn! Mi đừng vội tự đắc. Ta sẽ cho ngươi biết thế nào là thương thuật đại pháp của người Thát ta!”

“Ngột Lương, nhà ngươi huênh hoang trăm trận trăm thắng là vì chưa biết đến võ thuật Đông A nhà ta mà thôi. Hôm nay ta sẽ cho mày biết thế nào là hào khí Đông A!”

Trong quân Thát Đát, Ngột Lương nổi tiếng với tuyệt kỹ múa thương. Chúng truyền nhau rằng, Triệu Tử Long có tái thế cũng không chịu nổi vài hiệp của Ngột Lương Hợp Đài. Trần Quốc Tuấn cầm giáo Pháp Lôi thúc ngựa xông lại. Bên khua thương. Bên múa giáo. Tiếng gió rít ù ù như có bão. Tiếng giáo thương đập vào nhau đinh tai nhức óc. Quân sĩ hai bên đứng đờ người ra nhìn hai tướng đấu võ với nhau đẹp quá, quên cả hò hét thúc trống. Quốc Tuấn và Ngột Lương đấu nhau hồi lâu không phân thắng bại thì trời sập tối, hai bên đánh chiêng thu quân về trại, hẹn ngày mai chiến tiếp.

Sớm hôm sau, Ngột Lương Hợp Đài chấn chỉnh đội ngũ rồi xông thẳng sang trại quân Đại Việt.

Không một bóng người. Trần Quốc Tuấn đã dẫn quân sĩ của mình đi mất từ đêm. Ngột Lương điểm quân thủy bộ, nhằm Thăng Long thẳng tiến. Chính Ngọ, quân Thát đã xông được vào Cấm Thành. Thăng Long vườn không nhà trống. Quân dân nhà Trần đã rút hết đi đâu từ hôm qua.

Cả kinh thành vắng lặng, không có cả tiếng chó kêu, gà gáy. Cung vua phủ vương im phắc đứng lạnh lùng dưới những gốc cây cổ thụ to lớn um tùm.

Ngột Lương Hợp Đài phi ngựa khắp thành Thăng Long không gặp một bóng người. Quân sĩ của y sục vào tìm kiếm cũng không thấy một quân dân Đại Việt nào. Ngột Lương tự dưng thấy bất an, y hô quân ra lập trại tại bến Đông Bộ Đầu cạnh kinh thành, bên bờ sông Cái.

Ngột Lương Hợp Đài cho nhiều toán quân đi do thám xem vua quan nhà Trần ở đâu để truy đánh, đều không thấy trở về. Cứ toán quân nào ra khỏi trại là biến mất luôn. Một viên tùy tướng của y nổi tiếng gan dạ, dẫn một thủy đội xuôi theo sông Cái rồi tiến thẳng vào bãi Thiên Mạc, thuyền quân Thát đang đi, bỗng xung quanh khói bốc lên mù mịt từ những cánh đồng lau sậy ngút ngàn. Khói mờ mịt đến không cả thấy mặt nước. Từ trong đám khói, những chiến thuyền Đại Việt xuất hiện, lao như tên bắn vào thuyền quân Thát. Những binh sĩ tay cầm đuốc, tay cầm đao, miệng hô “Sát Thát!” nhảy phắt sang thuyền địch chém giết, phóng hỏa. Chỉ một lúc, cả thủy đội chìm sâu không tăm tích…

Ngột Lương Hợp Đài cho quân đi kiếm lương ăn và cỏ ngựa. Y vốn quen kiểu chinh chiến thảo khấu, đánh đến đâu cướp lương nuôi quân ở đó. Nhưng sang Đại Việt, y trúng kế “Thanh dã” của Quốc Tuấn. Kiếm khắp kinh thành và các vùng xung quanh đều không được một hộc lương, một bó cỏ. Ngột Lương hoảng hốt. Không có lương ăn thì quân chưa đánh đã tan. Mới đóng trại ở Đông Bộ Đầu được chục ngày mà y tưởng như dài cả năm. Y chưa biết tính toán ra sao thì…

Rạng sáng ngày hăm tư tháng Chạp năm Nguyên Phong thứ 7 (1257). Mờ sáng.

Cả bến Đông Bộ Đầu bỗng chốc rền vang tiếng hỏa pháo của quân Đại Việt bắn vào trại giặc. Lửa bùng lên dữ dội. Tiếng trống đồng trầm hùng rền vang hòa cùng tiếng chiêng thúc rầm rập gọi quân. Đại quân nhà Trần do đích thân đức Trần Thái Tông chỉ huy đã vây kín xung quanh. Trần Quốc Tuấn, Lê Tần cùng các tướng khác dẫn quân thiết kỵ xông thẳng vào trại giặc. Tiếng gầm “Sát Thát!” rền vang khắp bến Đông Bộ Đầu trên bờ sông Cái.

Quân Thát cuống cuồng chống đỡ. Càng lúc càng bị dồn vào thế bất lợi, người ngựa chết la liệt. Ngột Lương Hợp Đài liệu thế không trụ nổi bèn dẫn quân đánh phá vòng vây của quân Đại Việt tháo chạy dọc theo bờ sông Cái, ngược về phía biên giới. Trần Quốc Tuấn lập tức điểm binh truy kích.

Đức vua Trần Thái Tông cùng các tướng sĩ, quan lại, trở vào thành Thăng Long sau hơn mười ngày tạm xa.

Ngột Lương Hợp Đài dẫn quân chạy như gió, còn nhanh hơn khi tràn xuống Thăng Long,Trần Quốc Tuấn chọn một đội khinh kỵ, mang giáp nhẹ cùng mình phi ngựa theo đường tắt lên châu Quy Hóa, tại đó hai tướng Hà Bổng, Hà Khuất đã tập hợp quân, bày trận đợi sẵn.

Khi đoàn tàn binh Thát vào đến thung lũng Mã Sơn thì một trận mưa tên thuốc độc, đá hộc, lao tre vạt nhọn dội xuống đầu. Tiếp theo là một màn xung kích của quân Đại Việt lao thẳng vào đội hình quân Thát từ hai bên sườn đồi núi thấp. Lại những tiếng gầm “Sát Thát!” hòa cùng tiếng trống đồng thúc âm vang lòng núi. Quân Thát bỏ mạng tại đây vô số kể. Tiếng rên la dậy đất vang rừng. Ngột Lương Hợp Đài phải chui vào trong xe ngựa kéo để tránh tên thuốc độc. Y ra lệnh cho quân chạy nhanh lên phía ải Bắc. Đoàn quân thất trận chạy cả đêm, sớm hôm sau tới khe núi Yên Ngựa cuối châu. Quân đang đi bỗng dồn đứng chết cứng lại. Trên đỉnh núi, Trần Quốc Tuấn đang cưỡi ngựa, nai nịt chỉnh tề, giáp đồng sáng rực lên trong nắng. Cao lớn, mặt đỏ mắt sáng, lưng đeo kiếm báu Hộ Quốc, tay cầm thần giáo Pháp Lôi. Quốc Tuấn cất tiếng vang rền như thiên tướng nhà trời vừa giáng xuống: “Ngột Lương! Nhà ngươi ngông nghênh không biết trời cao đất thấp là gì dám xâm phạm non sông Đại Việt. Ta vâng mệnh vua giao chiến cùng ngươi. Thắng bại đã rõ. Nhưng ta không muốn đẩy ngươi vào tuyệt lộ. Ta để cho ngươi dẫn tàn quân về, báo với Hãn của ngươi là chớ có xâm phạm nước Nam. Nếu còn cố tình, sẽ không còn đường thoát như hôm nay đâu. Đừng cho ta là nói chơi. Hãy nhìn đây!”

Trần Quốc Tuấn vung tay phóng mạnh, ngọn thần giáo Pháp Lôi lao xuống như một đạo sấm sét xuyên qua chiếc xe chở Ngột Lương, ầm một tiếng, cắm sâu xuống đất. Xe vỡ tung. Đất rung chuyển. Như có sét đánh bên tai, Ngột Lương Hợp Đài mặt xám ngoét, nhìn cây giáo sắt vẫn đang rung lên bần bật bên cạnh mình, không thốt lên được lời nào. Tùy tùng của y vội vực chủ tướng lên ngựa. Trong yên lặng, đoàn quân Thát cúi đầu, âm thầm kéo nhau đi về phía ải Lê Hoa, ra khỏi biên giới Đại Việt. Chúng lầm lũi đi, không trống phách, không hò hét, không cướp bóc, không ngẩng mặt lên… Đi như một đoàn người hành hương trong im lặng, không ai biết đó là đạo quân chinh chiến. Chỉ có dân Đại Việt mạn Thao Giang, Lô Giang biết, và họ gọi chúng là giặc bụt! Sau này, Ngột Lương Hợp Đài đã rất nhiều lần can ngăn Hốt Tất Liệt đừng mang quân sang đánh Đại Việt. Dường như cuộc đụng độ với hào khí của môn phái võ Đông A Đại Việt, đã như một bể nước lạnh dội vào đầu viên tướng dạn dày bách thắng. Nhưng Hốt Tất Liệt không nghe và còn tước hết binh quyền của Ngột Lương Hợp Đài. Y chết già ở Trung Nguyên, không có dịp nào gặp lại viên dũng tướng trẻ tuổi của Đại Việt, Trần Quốc Tuấn, người đã đánh bại mình nữa.