← Quay lại trang sách

Chương 3 LỄ HỘI MO NANG

Hay Chốn cung đình chịu duyên đôi lứa

Thiên Thành phu nhân ra tận bến Lục Đầu Giang đón phu quân tài ba của mình. Phu nhân mỉm cười mãn nguyện đi bên phu quân giữa hai hàng người hầu, gia nô, môn khách đang đứng song song đón tướng quân về biệt phủ trong thái ấp Vạn Kiếp.

Về tới phủ, đứng trên thềm cao của ngôi tiền đình, Trần Quốc Tuấn quan sát nhanh tất cả hoạt động của hương ấp. Mọi việc vẫn hết sức nền nếp quy củ như trước khi chàng đi đánh giặc. Bên nhà học, trẻ con vẫn đang ê a đọc bài. Bên bãi tập võ, trai tráng vẫn đang say luyện đòn thế tấn công phòng thủ. Phía kho tàng vẫn tấp nập kẻ vác người khiêng, thóc lúa, vải vóc, đồ dùng thức đựng… đang được tích trữ cất đặt cẩn thận chu đáo. Trong lòng Quốc Tuấn chợt dâng lên một niềm cảm kích phu nhân Thiên Thành quá đỗi. Đang là công chúa cành vàng lá ngọc trong cung, về gánh vác mọi việc nội trị cho đại gia đình đứng vai trưởng họ Trần dưới Vạn Kiếp, Thiên Thành đã nhanh chóng trở thành một phu nhân đảm đang mẫu mực của gia đình dòng họ Đông A này. Về làm dâu chỉ một thời gian ngắn thì cha chồng là An Sinh Vương Trần Liễu mất. Các anh của Trần Quốc Tuấn, người thì tu tiên đắc đạo trên núi, người thì mải quyền cao chức trọng, phú quý vinh hoa trên kinh thành, không ai muốn về kế thừa hương ấp của An Sinh Vương. Trần Quốc Tuấn là con thứ ba của vương, vốn ở với công chúa Thụy Bà, em ruột vương ở trên kinh thành từ lúc năm tuổi, nghe lời Mẫu đem phu nhân Thiên Thành về Vạn Kiếp kế nghiệp dòng trưởng họ Trần của An Sinh Vương Trần Liễu. Gần mười năm trôi qua, Quốc Tuấn và Thiên Thành cùng nhau sinh sống tại thái ấp Vạn Kiếp. Họ đã cảm thấy nơi đây chính là nhà mình, là quê hương mình thật sự. Những đứa con trai, con gái đẹp đẽ khôi ngô của họ lần lượt ra đời…

Ngồi thưởng trà cùng phu nhân trong phòng, Quốc Tuấn thấy thư thái nhẹ nhõm, chàng ngắm khuôn mặt người vợ của mình, bỗng thấy trào lên một thứ tình cảm rất lạ. Quốc Tuấn cưới phu nhân Thiên Thành năm chàng hai mươi hai tuổi, còn công chúa Thiên Thành lúc đó chưa tròn mười sáu. Trải hơn sáu năm chồng vợ, Thiên Thành đã kịp sinh cho Quốc Tuấn một con gái và hai con trai. Phu nhân quán xuyến chu đáo mọi việc trong nhà ngoài ấp. Hương Vạn Kiếp ngày càng thịnh vượng. Lương nhiều người lắm, môn khách tài giỏi cả nước nô nức kéo về. Mọi người trong triều nói, Thiên Thành đảm đang tài giỏi không kém gì lệnh bà Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung.

Là một công chúa, Thiên Thành hiểu biết hết phận sự của mình khi về làm dâu chi trưởng Vạn Kiếp. Mặc dù xuất giá theo chồng từ khi còn trẻ, nhưng niềm vui lấy được người mình yêu đã khiến cho Thiên Thành mau chóng vượt qua bỡ ngỡ và làm chủ mọi sự. Hôm nay, đón người chồng tài giỏi lập công đầu trên chiến trường trở về, Thiên Thành thấy mình vô cùng hạnh phúc, từ buổi sáng, phu nhân đã sai người hầu chuẩn bị váy áo và trang điểm thật rực rỡ. Khuôn mặt của nàng được trang điểm kỹ và tinh tế, toát ra nét cao sang quý phái của thân phận. Nhưng khi nhìn sâu, những nét lo toan đã bắt đầu hằn lên. Mà làm sao có thể không lo lắng được. Chồng ra biên giới đánh giặc, phu nhân ở quê nhà lo trông nom con nhỏ, cai quản gia nhân, chuẩn bị sẵn sàng lánh giặc khi có tin báo của chồng về. Mọi việc trong thái ấp khi ấy đều đặt lên bờ vai mảnh mai yếu đuối của phu nhân xuất thân nơi cung cấm. Quốc Tuấn thấy hàm ơn Đức vua Trần Thái Tông đã gả cô con gái yêu xinh đẹp, giỏi giang cho mình. Chàng lại càng thấy bối rối, lúng túng khi định mở lời nói với Thiên Thành về câu chuyện của mình với nàng Quế Lan bên bãi dâu trên bờ sông Thiên Đức. Quốc Tuấn thấy yêu cả hai người đàn bà, cho dù một người đã gắn bó lâu năm với mối tình sâu đậm, còn một người chàng mới chỉ vừa gặp gỡ. Nhưng chuyện tình duyên trai gái là cái điều khó ai biết trước được. Trần Quốc Tuấn hiểu điều đó. Chàng cũng đã từng đọc và nghiền ngẫm thiên sách Đạo Đức Kinh, cũng không thấy có điều nào ngăn cấm. Và dù gia pháp dòng họ Đông A, coi việc đàn bà chỉ là chuyện nữ nhi thường tình, không mảy may vướng bận, cho việc trai anh hùng năm thê bảy thiếp là chuyện tất nhiên. Ngay cả chuyện tiết hạnh đàn bà cũng không quá câu nệ. Lệnh bà Trần Thị Dung từng là hoàng hậu của Lý Huệ Tông rồi sau lại về làm vợ Đức ông Trần Thủ Độ. Tại cuộc định công ban thưởng hôm vừa rồi trong triều, tướng quân Lê Tần lập công lớn trong trận chiến vừa qua, được ban quốc tính, lại còn được Quan Gia gả công chúa Chiêu Thánh, nguyên xưa là hoàng hậu của mình cho đó sao…

Thế nhưng không hiểu sao Trần Quốc Tuấn vẫn thấy khó mở lời với phu nhân của mình về việc định nạp nàng Quế Lan làm thứ phi.

Thưởng xong tuần trà thứ ba, Quốc Tuấn đứng dậy, cầm tay phu nhân Thiên Thành rồi âu yếm ôm vai người vợ xinh đẹp đảm đang của mình trong vòng tay rắn chắc. Thiên Thành sung sướng mãn nguyện nép vào ngực Quốc Tuấn. Nàng ngước mắt lên chờ đợi, trong đôi mắt của Thiên Thành nhìn chồng, ánh lên cả niềm hân hoan, nỗi khắc khoải và cả sự nhẫn nại tôn thờ vô điều kiện…

—★—

Trần Quốc Tuấn biết công chúa Thiên Thành năm chàng mười bảy tuổi.

Hôm đó, Quan Gia xuống Giảng Võ Đường xem các vương hầu đấu võ vật, ông đem theo cả cô công chúa nhỏ mới mười một tuổi. Tại Giảng Võ Đường, các vương tôn công tử sẽ được luyện cả thập bát ban võ nghệ, bắn cung cưỡi ngựa, đánh kiếm múa đao… Và học binh pháp đông tây kim cổ rồi ra bày trận phá thế trên bãi tập. Thế nhưng môn võ vật, đối chiến tay không, môn võ gia truyền của họ Đông A vẫn được các công tử trẻ tuổi ưa thích và thường xuyên tổ chức tỉ thí phân tài cao thấp nhất. Hoàng thượng Trần Thái Tông cũng thích môn này. Làm vua một nước, giữ ngôi chí tôn cho cả họ nên Ngài không được phép cởi áo xuống tỉ thí với đám trai trong họ, nhưng Ngài vẫn hay đến xem các trận đấu của các tiểu tướng trẻ tuổi mà nay mai họ sẽ là rường cột triều đình. Những lúc như thế, Ngài thấy trong mình dòng máu tráng niên vẫn đang sục sôi cuồn cuộn…

Buổi đấu hôm ấy, Quốc Tuấn thắng tuyệt đối.

Miếng gồng sở trường của chàng không có vương tử nào đỡ nổi. Chỉ chớp mắt, nhiều đối thủ chưa kịp định thần đã lấm lưng trắng bụng. Ai giỏi cũng chỉ chịu đựng được vài keo là bị Quốc Tuấn quăng qua vai nhẹ như bông, quật xuống, đè ngửa trên sới tập. Trong chiến đấu thực, chỉ cần thêm một cái cùi trỏ vào ngực hoặc một nhát chém sống tay vào yết hầu là kẻ địch sẽ bị loại vĩnh viễn khỏi chiến trường ngay. Đức vua rất hài lòng. Ngài gọi Quốc Tuấn lên đài ngự ban ngay rượu thưởng tại chỗ. Quốc Tuấn mình trần, đóng khố, mồ hôi vẫn còn đang chảy ròng ròng trên thân hình cơ bắp cuồn cuộn đỏ rực, chạy lên quỳ trước Đức vua Trần Thái Tông, vòng tay bái: “Đội ơn hoàng thượng đã ban thưởng.” Đoạn nâng bát rượu uống một hơi cạn.

Thiên Thành đứng sau lưng vua cha, nhìn trộm thân thể đẹp đẽ cường tráng và khuôn mặt ngời ngợi của Quốc Tuấn.

Nàng công chúa bé nhỏ lập tức mê chàng vương tử trẻ tuổi đẹp trai ngay. Nhưng nàng đã được hứa gả cho Trung Thành Vương từ lâu. Chỉ còn đợi đến khi trưởng thành sẽ làm lễ đón dâu về nhà chồng, động phòng hoa trúc.

Quốc Tuấn ở với mẹ nuôi là công chúa Thụy Bà, phủ Thụy Bà cách không xa cung điện của nhà vua lắm.

Thụy Bà là em ruột An Sinh Vương Trần Liễu, và là chị ruột của thượng hoàng Trần Cảnh - Trần Thái Tông. Bà ở vậy, không lấy chồng. Bà đón nuôi Quốc Tuấn từ khi mới lên năm tuổi.

Năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 6 (1237), hận vì Đức ông Thái Sư Trần Thủ Độ, người đang chủ trì mọi việc triều chính, bắt đem vợ mình là Thuận Thiên công chúa gán cho Trần Thái Tông, Trần Liễu dấy quân làm loạn. Trần Thái Tông thì bỏ lên núi Yên Tử ở với Quốc Sư Phù Vân, quyết buông bỏ sự đời để về hầu cửa Phật.

Vận nước ngả nghiêng. Trong triều ngoài nội không yên. Trăm họ xao xác, nhà nhà lo lắng lại có loạn. Đến một người độc đoán, cứng rắn như Trần Thủ Độ mà cũng cảm thấy bất an. Ông đến phủ công chúa gặp Thụy Bà. Bỏ qua mọi nghi lễ, ông nói ngay:

“Ta cần cháu giúp một việc. Cháu đi gặp thằng Cảnh và thằng Liễu, bảo chúng nó là làm thân nam nhi, phải biết bỏ qua việc nhỏ để lo cho sơn hà xã tắc, lo cho trăm họ…”

“Tại sao chú lại làm thế?” Thụy Bà cắt ngang lời ông chú Thái Sư của mình một cách gay gắt. “Thiếu gì mỹ nữ trong nước mà chú phải lấy vợ của anh, gán cho em, để cho huynh đệ ruột thịt trong nhà phải bất hòa với nhau?”

“Cháu ơi, ta đâu muốn thế. Thế nhưng việc không khác được ta đành phải làm mà thôi. Chiêu Thánh bao năm không sinh được thái tử. Mà nhà vua thì luôn phải sớm có người nối dòng chính thống cho yên nghiệp trường tồn. Vợ Liễu đang có mang, về làm hoàng hậu sẽ sớm sinh hoàng nam, mọi việc sẽ yên ổn. Hai anh em nhà chúng nó phải biết vì sơn hà xã tắc, vì ngôi báu và sự trường tồn của dòng họ Đông A, vì an lành của trăm họ mà hy sinh chút tình trai gái bé mọn chứ? Thân ta đây, thủa thiếu thời cầm gươm theo Thái Thượng Hoàng đi đánh dẹp, gặp lúc nhà Lý loạn lạc chạy về trú ở hương ấp họ Trần ta dưới Long Hưng. Lý Huệ Tông mê tình nương của ta, ta đã phải âm thầm gạt nước mắt để bà Dung về cung ở với Lý Huệ Tông. Sau này, Huệ Tông chết, nhà Lý mất, phu nhân lại về ở với ta, có sao đâu? Thử hỏi lúc đó ta khư khư giữ thói tình nhân bình thường, liệu ngôi tôn quý có về dòng họ nhà ta được không? Không giữ được ngôi cửu trùng thì cả họ nhà ta cũng sẽ kết cục như tôn thất nhà Lý, bị chôn sống dưới đất đen chứ đừng nói là giữ một người đàn bà! Đã sinh ra mang mệnh đế vương, đã sinh trong dòng tôn thất quyền cao chức trọng, bổng lộc dồi dào, được cả thiên hạ phụng sự, thì cũng sẽ có những cái không được thỏa theo ý mình, mà phải làm vì sự ổn định của nước nhà, sự an vui của lê dân trăm họ. Có thế mới giữ được nước, mới giữ được ngôi cao. Đạo lý đơn giản vậy thì các cháu được đọc nhiều sách thánh hiền phải hiểu hơn ông chứ. Ông là kẻ võ biền ít học, còn biết hành xử theo cái lẽ vì dân vì nước, thì hà cớ sao anh em nhà nó phải bất hòa nhau? Gái đẹp trong nước bạt ngàn, thằng Liễu chọn bao nhiêu chả được…”

“Cháu chỉ là phận nữ nhi thường tình. Cháu đã chán ghét mọi sự trong đời, thề ở vậy không xuất giá, xin nuôi thằng Quốc Tuấn làm con, để dựa dẫm lúc tuổi già. Thế nhưng, chú làm việc kinh thiên động địa thế này thì cháu muốn yên cũng không được rồi.”

“Cháu nghĩ thế là phải. Cháu là chị thằng Cảnh, cháu thương nó còn hơn mẹ nên nó kính sợ. Cháu là em thằng Liễu, cháu chăm nó còn hơn cha nên nó xót em. Thôi thì vì sự yên ổn của trăm họ, vì ngôi cao của triều Đông A, cháu đến khuyên giải cả hai thằng chấp nhận sự sắp xếp của ta. Ta nào có lòng riêng tây vị kỷ gì. Tất cả chỉ vì cơ đồ nhà Trần mà thôi.”

Thụy Bà đến núi Yên Tử gặp Trần Cảnh - Trần Thái Tông, rồi bà lại đi thuyền ra sông Cái, nơi Trần Liễu đang tụ tập quân làm loạn.

Trần Liễu, Trần Cảnh, hai anh em ruột, đều là những bậc anh hùng cái thế trong thiên hạ bấy giờ. Nhưng họ đều không chịu đựng nổi những giọt nước mắt của một người đàn bà đã xót thương, chăm bẵm, yêu quý họ vô bờ bến… Trần Cảnh - Trần Thái Tông chấp nhận về lại cung vua giữ yên đại nghiệp nhà Trần. Trần Liễu về đất miền sông nước Lục Đầu, Quảng Yên làm An Sinh Vương. Không có một vụ huynh đệ tương tàn nào xảy ra.

Thụy Bà về phủ của mình vui chăm lo nuôi dạy cháu. Bà yêu thương, dạy dỗ Quốc Tuấn chu đáo hơn cả người mẹ chăm con. Quốc Tuấn được đưa đến nhà thái học, đọc kinh sách cùng các hoàng tử, đến Giảng Võ Đường luyện binh đao võ nghệ cùng các võ tướng. Đêm đêm khi Quốc Tuấn chong đèn đọc sách thì bà lại nấu các món bổ dưỡng cho chàng. Ngày chàng luyện võ thì bà lại nấu sẵn các món chè giải nhiệt. Bà còn dạy cho Quốc Tuấn mọi phép tắc lễ nghi của một bậc vương tôn công tử cần phải biết nữa. Trần Quốc Tuấn lớn lên trong sự chăm lo, yêu thương vô bờ bến của một người đàn bà mà chàng coi như mẹ. Mẫu - đó là lời của Trần Quốc Tuấn chỉ dành để thưa riêng với Thụy Bà công chúa. Và chàng dần lớn khôn hiểu biết, trở thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú, văn võ toàn tài, nổi tiếng khắp kinh thành Thăng Long. Tiếng tăm của chàng còn theo chân các võ tướng khắp đất Đại Việt về tập binh tại Giảng Võ Đường định kỳ lan truyền khắp nước, rằng có một thần võ, anh hùng cái thế, vô địch thiên hạ đã giáng sinh vào họ Đông A để cứu nước giúp đời. Một đồn mười, mười đồn trăm, cả nước Đại Việt râm ran tin đồn đã có thánh nhân xuất hiện.

—★—

Kể từ hôm theo vua cha Trần Thái Tông xuống Giảng Võ Đường về, nàng công chúa nhỏ Thiên Thành tự dưng hay đòi sang bên phủ Thụy Bà chơi. Phủ công chúa Thụy Bà ngay cạnh cung vua. Nhà vua Trần Thái Tông yêu chiều con gái vả lại vốn sẵn lòng kính quý chị nên đồng ý ngay, cho phép cung nữ dẫn Thiên Thành sang đó chơi lúc nào muốn. Nhà vua cũng nói với chị mình dạy luôn cho cháu gái những điều cần biết của một công chúa hoàng gia.

Khi nàng qua phủ Thụy Bà chơi, Quốc Tuấn cũng chiều nàng. Mà không thể không chiều chuộng một nàng công chúa xinh xắn nhỏ bé đang tuổi hồn nhiên trong sáng như vậy được. Nàng như nụ hoa sắp nở, dịu dàng thơ ngây. Họ nhanh chóng thân nhau như một cặp anh em. Trần Quốc Tuấn cũng biết Thiên Thành đã được hứa gả cho Trung Thành Vương, con của Nhân Đạo Vương là một vương hầu giàu mạnh nhất nhì trong họ Đông A. Cô công chúa nhỏ Thiên Thành cũng lơ mơ trong cái đầu thiếu nữ vô tư của mình là, hình như mình đã có một mối ràng buộc nào đó. Nhưng nàng chả để tâm nhiều, nàng hướng về Quốc Tuấn như có một điều gì đó thu hút mạnh mẽ từ chàng, mà nàng không cưỡng nổi. Nhưng nàng cũng không biết đó là gì nữa. Nàng chỉ biết ngày nào sang phủ Thụy Bà chơi mà không gặp Quốc Tuấn thì nàng không chịu nổi, ủ ê cả buổi. Được gặp Quốc Tuấn thì nàng vui tươi nhí nhảnh, líu lo như một con sáo và vẽ ra đủ kiểu, đủ trò chơi để bắt chàng chiều mình. Lúc thì bắt chàng hái cho bông hoa sen giữa hồ. Lúc thì đòi chàng đọc cho nghe một bài Đường thi trong quyển sách của chàng. Có hôm nàng lại đòi Quốc Tuấn phải dạy mình múa đao bắn cung. Để rồi cả Quốc Tuấn, Thụy Bà, rũ ra cười khi nhìn nàng chả kéo nổi cái dây cung ra một tấc. Họ cứ thế bên nhau mấy năm ròng. Rồi Thiên Thành trở thành một thiếu nữ xinh đẹp lúc nào không hay. Nhưng trong lòng của cả hai, theo thời gian, tự nhiên hình thành một thứ tình nào đó mà trong tâm tưởng, hình như đã vượt qua cái tình cảm anh em thân thiết lúc nào không hay…

Trong cung cấm hàng năm vào dịp Rằm tháng Tư, có lễ hội Mo Nang.

Hội này mở ra theo triều đình nói là để cầu cho nhân khang vật thịnh, muôn loài sinh sôi, mùa màng tươi tốt, mọi việc hanh thông mát mẻ.

Khí hậu nước ta, vào dịp tháng Tư oi bức khó chịu nhất trong năm. Nắng nóng hầm hập như muốn bóp nghẹt cả hơi thở của con người. Ai cũng bức bối khó chịu. Trong cấm thành trồng nhiều kỳ hoa dị thảo, nhiều cây cổ thụ, nhiều hồ nước to thả nào sen, nào súng chen chúc. Những hồ này lại thông với nhau bằng những con lạch chạy xung quanh, vậy mà không khí vẫn vô cùng ngột ngạt. Ngột ngạt đến mức, nhiều nàng cung nữ đang tuổi đôi mươi, giữa trưa nắng, bỗng dưng khóc cười khanh khách, tuột hết xiêm y, nhảy xuống hồ sen quẫy nước ầm ĩ. Các ngự y trong triều bảo họ bị chứng tẩu hỏa nhập ma, nhiệt gặp nhiệt tắc cuồng. Còn có nhiều hầu nữ già đời, xuất thân dân quê nói, họ bị chứng rồ hoa mướp. Tháng Tư hoa mướp đang bắt đầu nở vàng trên các giàn vườn quê, nhiều cô gái quá thì không chồng bỗng chốc rồ lên…

Lễ hội Mo Nang chỉ dành cho các vương tôn công tử cùng các quan trong triều đã thành gia thất cùng dự với nhà vua. Hội thường tổ chức trong cung cấm, ít người được biết, mỗi năm chỉ có một lần, vì thế mà dân ngoài kinh thành có nhiều lời đồn thổi rất khác nhau.

Họ nói, những người dự hội cả nam và nữ sẽ trút bỏ quần áo, mặt đeo một cái mo nang khoét hai lỗ ở chỗ mắt và nơi mũi để thở. Không ai biết mặt ai. Đêm ấy rượu chảy thành sông. Đèn nến được tắt đi, nhạc tấu suốt vang lừng. Vũ nữ Chiêm Thành cởi truồng múa hát, toàn những điệu huê tình xung quanh hai linh thần của họ là Linga và Yoni. Sau đó thì thê thiếp cùng các cung nhân hầu nữ trẻ đẹp cởi bỏ xiêm y, lõa lồ tắm táp nô đùa dưới hồ sen cùng các vương tôn công tử, quan lại… ai cũng đã trút bỏ hết mũ cao áo dài, cân đai vàng ngọc. Thế là không còn vua, không còn quan, chỉ còn là con người, ai cũng giống ai, như lúc mới lọt lòng mẹ. Mọi người tự do giao hoan. Mọi chỗ. Mọi lúc. Mọi nơi. Không có một điều gì gọi là kiêng kỵ phạm húy ở trong đêm đó. Mọi lễ giáo phép tắc đều bãi bỏ. Chỉ có múa hát, uống rượu và giao hoan. Cho đến hết đêm.

Có người nói, dự hội còn có cả hoàng hậu cùng các ái phi của nhà vua, phu nhân và tỳ thiếp của các vương tôn công tử, quan lại trong triều. Đêm đó tắt đèn, giao hoan lẫn lộn. Quan có thể âu yếm với hoàng hậu. Vua có thể giao hoan với vợ các quan. Một ông có thể giao hoan liền một lúc với hai bà. Một bà có thể quấn lấy vài ông… Không có ghen tuông. Hoan ca tràn ngập. Chỉ có rượu chảy thành sông trong những lạch nước trong vườn sơn thủy hữu tình. Chỉ có những thân mình trắng lóa quấn vào với nhau quẫy đạp nô đùa rú rít, quật nước trong hồ sen dềnh lên tung tóe như đàn giao long động dục. Tràn trề tình ái. Rượu, ca vũ và giao hoan trai gái… Sớm hôm sau, đến đầu canh năm, một ông tửu lệnh khua chuông. Lập tức mọi người rời nhau ra, nam nữ trở về các phòng riêng mặc quần áo, trang điểm. Đèn nến lại được bật lên. Họ lại là vua và hoàng hậu uy nghi. Lại là vương tôn công tử quan lại triều chính rường cột nước nhà. Các phu nhân, thiếp yêu, cung nữ, người hầu lại tha thướt yểu điệu kiểu cách của những nhà danh gia vọng tộc.

Nhưng cũng có người nói là dự hội chỉ có các Đức ông cùng với thiếp yêu, nàng hầu, kỹ nữ… còn hoàng hậu, quý phi, phu nhân không được đến dự. Không biết có đúng không. Thế nhưng mỗi kỳ hội xong, thấy trong triều ngoài nội, từ vua đến quan ai ai cũng tươi tỉnh. Còn các nàng cung nữ trong cung thì luôn nhảy chân sáo, má ửng hồng, nói cười líu lo.

Năm nay, Đức vua Trần Thái Tông quyết định tổ chức hội Mo Nang ở cung Thưởng Xuân.

Cung này có từ thời nhà Lý, vốn gọi là cung Lệ Thiên. Nhân xảy ra việc của Đức ông Trần Liễu với một nàng cung nữ triều cũ, nên nhà vua cho sửa sang, trồng cây, đào hồ thả sen và tạo các dòng suối nhỏ cùng các hòn non bộ chạy quanh khu vườn. Ngài cho đổi tên cung từ Lệ Thiên thành cung Thưởng Xuân. Dân kinh thành Thăng Long vẫn cười tủm tỉm khi nhắc đến sự này. Họ nói phạt kẻ phạm lỗi như nhà vua phạt Trần Liễu thì ngang bằng với lưu danh cho ông ấy. Thật đúng là nơi thưởng thức tình xuân! Nhưng cũng chả biết làm sao được, anh em nhà vua nước Nam ta vốn quý nhau, không như bên phương Bắc, ruột thịt mà chém giết nhau như ngóe.

Cung Thưởng Xuân gần với phủ của Thụy Bà công chúa, chỉ cách có một cái vườn um tùm những cây muỗm to. Đấy chính là những cây muỗm mà Đức vua đã sai người trồng rất nhiều ở kinh thành, trồng cả hai bên con đường từ cung cấm ra bến Đông Bộ Đầu hồi Ngài mới lên ngôi được ít lâu. Hơn mười năm rồi, những cây muỗm đã cao to, xum xuê bóng mát. Hàng năm muỗm chín, Ngài thường sai vặt xuống ban cho các vương gia và quan quân trong triều.

Quốc Tuấn và Thiên Thành đều chưa được phép dự vào hội Mo Nang. Thấy các cung nữ rộn ràng chuẩn bị, thì thầm kháo nhau, đôi nam nữ trẻ tò mò vô hạn độ. Thiên Thành bảo Quốc Tuấn: “Huynh ơi, tối nay triều đình làm hội bên cung Thưởng Xuân đó. Huynh làm thế nào đưa muội sang bên ấy xem với. Muội thấy các cung nữ nói có nhiều trò hay lắm, không được xem thì tiếc lắm đấy.”

“Được rồi, muội để ta tính.” Quốc Tuấn nhìn Thiên Thành, chàng chợt thấy cô công chúa hôm nay xinh đẹp lạ lùng. Cặp má thì ửng hồng, đôi môi thì he hé chờ đợi. Quốc Tuấn cả quyết bảo Thiên Thành: “Muội về bên cung, xin với mẫu hậu tối nay ăn cơm và ngủ lại bên này nhé. Đêm nay mình sẽ đi xem hội.” Quốc Tuấn cũng đã nghe các vương tôn công tử kể về hội này. Nay hội lại tổ chức gần phủ, chàng cũng tò mò, muốn biết thật sự có đúng như lời mọi người kể không.

Tối đó Thiên Thành ở lại phủ Thụy Bà.

Ăn cơm xong, đôi trẻ nói với Thụy Bà là vào thư phòng tập đàn, đọc thơ. Quốc Tuấn đóng chặt cửa trước, sai hai đứa gia nhân một nam một nữ đóng giả, ngồi đánh đàn trước đèn, dặn bao giờ mình về thì mới ngừng. Còn mình và Thiên Thành đi lối cửa sau, băng qua vườn, bí mật vượt qua tường vào cung Thưởng Xuân. Quân lính cấm vệ bao kín mấy vòng để bảo vệ, họ vây luôn cả phủ Thụy Bà, nhưng lại hoàn toàn lơ là khoảng vườn giữa phủ và cung Thưởng Xuân. Họ đâu có ngờ, trong nội phủ công chúa Thụy Bà lại có người dám đột nhập sang cung Thưởng Xuân.

Quốc Tuấn và Thiên Thành đỡ nhau vượt tường lọt vào một góc vườn trong cung Thưởng Xuân. Quốc Tuấn dắt Thiên Thành chạy đến một đám cỏ mềm sát tường, trước mặt có bụi thủy trúc, cao lút đầu người trồng bên dòng nước, rất kín đáo, nấp sau đó quan sát mọi hoạt động trong cung.

Đúng như lời các vương tử đã kể cho chàng nghe.

Khi mà Quốc Tuấn và Thiên Thành dắt nhau chui vào ém mình bên bụi thủy trúc thì tiệc rượu đã sắp tàn. Đến khoảng giữa giờ Tuất, khi ông tửu lệnh, mặt đeo một cái mo nang khoét ba lỗ, đang ngồi giữa sảnh, bỗng đứng dậy rung chuông hô: “Tắt đèn!”

Mọi thứ đèn đuốc nến sáp phụt tắt. Cả tiếng nhạc đang rộn rã véo von cũng tắt. Tất cả dường như im ắng. Chỉ có tiếng người xôn xao khúc khích nhè nhẹ. Rồi lát sau, đàn sáo lại nổi lên vang lừng. Trong khoảng sân rộng giữa cung, mâm bát đã được dọn đi. Một bộ Linga - Yoni bằng đá được đặt ra chính giữa tự lúc nào. Dưới ánh trăng Rằm tháng Tư rực rỡ sáng như ban ngày, đoàn vũ nữ Chiêm Thành trẻ đẹp trần truồng như trẻ nhỏ nối nhau tiến ra cái sân rộng, bắt đầu điệu múa huê tình xoay xung quanh bộ linh thần. Điệu múa và thân thể ngồn ngộn huê tình của các vũ nữ, khiến cho những người đứng xem xung quanh không thể yên được. Họ cũng như các vũ nữ, không còn mảnh vải nào trên người. Họ chỉ hơn là có một cái mo nang đeo trên mặt. Những thân thể đàn ông cường tráng lập tức vươn lên kiêu hãnh. Những cặp vú trẻ trung của các nữ nhân trong hội cũng vểnh lên thách thức. Những cặp đùi, mông trắng lóa đung đưa gợi tình theo tiếng nhạc. Họ bắt đầu ôm nhau. Từng đôi, từng đôi một, họ vuốt ve âu yếm tình tự. Và rồi từng cặp, từng cặp tự nhiên chập vào nhau. Quấn chặt nhau. Riết lấy nhau. Những động tác mà người ta chỉ làm trong chốn phòng the nay được diễn ra tự nhiên ngay trên sân, trên vườn, trong nhà, dưới gốc cây. Có đôi lôi nhau xuống hồ nước dập dềnh múa lượn… Tất cả thản nhiên vui đùa trong hoan ca. Các nhạc công vẫn say sưa đàn. Các vũ nữ vẫn mê man trong điệu múa ái tình. Không gian trong cung Thưởng Xuân tràn ngập những tiếng cười vui rúc rích mãn nguyện và những tiếng rên rỉ hoan lạc đang ngày càng bùng ra dữ dội từ mọi ngóc ngách, hòa vào tiếng nhạc lả lơi. Tất cả những âm thanh đó trộn lẫn với hơi rượu làm thành một đêm tửu sắc vô tiền khoáng hậu, không có điểm dừng. Càng về khuya dường như mọi người càng hăng say hơn. Những cách giao tình mô tả trong quyển sách của nước Tây Trúc vẫn lưu truyền cung cấm được mọi người thực hành say mê. Và cả những cách âu yếm nhau chưa từng mô tả trong sách cũng tưng bừng phô diễn: Hai nam nhân kẹp chặt lấy một nàng, một nàng lại vui chơi đùa giỡn với cả mấy nam nhân một lúc. Cả cung Thưởng Xuân mê đi trong men say. Tiếng trai gái, đàn ông đàn bà rên rỉ sung sướng trong niềm hoan lạc tột đỉnh có lúc át cả tiếng đàn sáo hát múa của nhạc công vũ nữ…

Nhìn cảnh đó, đôi trẻ không sao chịu đựng nổi. Quốc Tuấn đã hăm hai, chàng đang ở thời kỳ khỏe mạnh sung sức tuyệt đỉnh. Thân thể đàn ông của chàng căng cứng ngay tức khắc khi nhìn thấy các vũ nữ trần truồng tiến ra sân uốn éo những động tác đầu tiên. Càng lúc, thân thể chàng càng căng nhức lên, bên trong đau tức, cả người chàng nóng rực lên như có một lò than hồng bên trong. Có một cái gì đó nóng bỏng và nhức nhối trong thân thể chàng đang cấp thiết đòi hỏi phải được bùng nổ… Thiên Thành lúc đó mười lăm tuổi, nàng đã là một thiếu nữ thành thục. Chỉ năm sau là nàng sẽ được đón về nhà chồng để kết tóc se tơ, động phòng hoa trúc. Nàng đã được Thụy Bà, được các cung nhân dạy cho những thuật phòng the mà một người nữ đi lấy chồng cần phải biết. Nàng đã được họ cho đọc quyển sách nghe nói từ tận nước Tây Trúc truyền sang. Quyển sách nói về thuật tình ái của các bậc đế vương từ mấy ngàn năm nay. Đêm nay, dưới ánh trăng Rằm tháng Tư, sáng rờ rỡ như ban ngày, ngồi bên một chàng trai trẻ trung cường tráng, ngắm cảnh cả hàng trăm đôi đang thực hành các kiểu giao hoan nam nữ mà nàng đã đọc trong quyển sách. Nghe tiếng những đôi tình nhân cùng gào lên thỏa mãn trong niềm hoan lạc tột đỉnh, nàng không chịu đựng nổi, thấy người mình cũng sắp nổ bùng. Nàng thấy bụng dưới của mình có những đợt sóng cồn lên quặn thắt. Những đợt sóng đó dồn lên bộ ngực trinh nữ cương cứng nhức nhối. Những đợt sóng trào lên đầu như có một luồng lửa thiêu đốt, như có cái gì đó không hiểu nổi muốn vỡ tung ra, muốn giải thoát. Nàng quay sang cầm tay Quốc Tuấn run rẩy, thì thào gấp gáp: “Huynh hãy âu yếm muội đi.”

Họ lập tức ôm nghiến lấy nhau. Quốc Tuấn đỡ Thiên Thành nằm xuống thảm cỏ êm mượt. Họ tuột xiêm y nhau ra. Bàn tay họ da diết thèm muốn quấn quýt vuốt ve những chỗ đã từng khao khát thầm kín nhau bấy lâu nay. Dưới ánh trăng đêm rờ rỡ, họ âu yếm ngắm nhìn khuôn mặt và thân thể trẻ trung đẹp đẽ của nhau. Họ âu yếm nhau dịu dàng mà mê say nồng nhiệt. Cho đến lúc, Quốc Tuấn không thể chịu nổi nữa, hực lên một tiếng, chàng trườn thân thể rắn chắc cường tráng của mình vào thân mình non tơ, nhỏ nhắn, trắng nõn nóng hổi của Thiên Thành. Nàng rên lên một tiếng khe khẽ, cong người quặp chặt thân thể chàng. Quốc Tuấn rúc sâu mặt mình vào khuôn mặt kiều diễm của Thiên Thành. Chàng hít một hơi dài, tóc và thân thể của Thiên Thành tỏa ra một mùi hương thanh khiết, hòa vào mùi thơm nồng nàn sực nức của đám cỏ mật mà hai người đang nằm lên. Ngọt ngào say đắm. Họ mê mải hòa vào nhau. Miên man sâu thẳm. Họ không còn nghe thấy tiếng đàn tiếng sáo. Những tiếng gào rú rên rỉ sung sướng của các cặp tình nhân xung quanh cũng chỉ còn như văng vẳng mơ hồ vọng về từ nơi xa lắm. Quốc Tuấn siết chặt Thiên Thành, rùng mình. Mặt trăng đang sáng rực trên bầu trời đêm Rằm tháng Tư thốt nhiên vỡ tung thành muôn hồng ngàn tía…

Quốc Tuấn và Thiên Thành có tư tình với nhau, Thụy Bà biết ngay, nhưng bà dùng dằng chưa biết khu xử ra sao. Bà biết Thiên Thành đã được Đức vua em mình hứa gả cho Trung Thành Vương, con trai của nhà Nhân Đạo Vương từ lâu. Nhưng bà biết Thiên Thành mê đắm Quốc Tuấn. Không những Thiên Thành mà con gái của tất cả các vương gia, quan lớn, danh gia vọng tộc trong kinh thành Thăng Long đều mê cháu bà, một chàng trai ưu tú nhất nước Đại Việt. Chỉ một ngày không nhìn thấy mặt Quốc Tuấn là cô công chúa nhỏ lập tức ỉu xìu, thẫn thờ, không thiết ăn ngủ. Thụy Bà suy nghĩ lung lắm, giá mà cô công chúa cành vàng lá ngọc kia được sánh duyên với cháu mình thì thật trọn mọi đường. Bà biết là huynh đệ nhà mình luôn thương xót nhau thật sự chứ không lạnh lẽo như các hoàng gia khác. Cho dù giữa Đức vua và An Sinh Vương có hục hặc nhau về chuyện Thuận Thiên, nhưng sau đó, cả hai đều hiểu là thực ra chả ai làm được gì trước một ông chú chuyên quyền áp chế. Muốn yên ổn cho vương triều, xã tắc, chỉ có cách phục tùng. Cái chính là ông chú chuyên quyền độc đoán ấy lại hết lòng vì cơ nghiệp dòng họ. Vì ngôi vương của triều đình Đông A. Vì sự an lành của trăm dân Đại Việt. Vậy thì duyên tình của một người đàn bà đâu có sá kể gì. Huynh đệ như thủ túc, phu thê như y phục. Người xưa dạy thế. Ông ấy đã từng đem thân mình ra làm đúng như thế và ông áp chế các cháu mình phải theo ông, một ông võ tướng quyền biến, hầu như chả đọc nổi một chữ thánh hiền. Mà ông ấy cũng chả cần cái thứ chữ rậm rì rắc rối ấy làm gì. Thế mà một tay ông ấy đã dựng nên và giữ cho triều đình nhà Trần kế tiếp nhà Lý một cách yên ổn thái hòa, nhân dân không phải đầu rơi máu chảy. Và trong những buổi đầu dựng nghiệp, cũng một tay ông ấy chèo chống giữ cho vương triều đứng vững. Nhưng nhiều hành động của ông ấy sẽ để lại vết thương cho hậu thế đến ngàn năm không lành. Ngay trong dòng họ Trần, ngay lúc khi vua em, và ông anh An Sinh Vương của bà còn sống, dù đã nghe bà hòa giải với nhau. Nhưng những tin đồn về mối bất hòa trưởng thứ vẫn đã và đang âm thầm len lỏi trong họ. Không một lời nào có thể giải thích cho hết mọi nhẽ cho nhân gian. Chỉ có hành động. Như năm xưa Trần Cảnh đã ôm Trần Liễu trên sông Cái, lấy thân mình che chắn trước lưỡi gươm thịnh nộ của Đức ông Trần Thủ Độ. Phải có những hành động như vậy mới dẹp yên miệng lưỡi thiên hạ. Hành động đẹp nhất lúc này là mối duyên Quốc Tuấn - Thiên Thành được trọn vẹn, thì mọi việc riêng chung, việc nhà việc nước đều tròn. Nhưng…

Khi Thụy Bà còn chưa biết mở lời với vua em thế nào thì tin đồn Trần Quốc Tuấn và Thiên Thành có tư tình với nhau đã đến tai Đức vua Trần Thái Tông.

Ngài cho gọi Thiên Thành đến có ý quở trách.

Làm vua không được phép nói chơi. Ngài đã hứa gả con gái yêu cho Trung Thành Vương thì phải thực hiện. Ngài cho giữ rịt công chúa trong cung, không cho sang phủ Thụy Bà nữa và gấp rút sai người chuẩn bị tổ chức hôn lễ.

Rằm tháng Giêng, năm Nguyên Phong thứ nhất (1251), vua sai chăng đèn kết hoa, diễn trò khắp kinh thành cho mọi người dân đều được vui vẻ để Ngài tiễn công chúa Thiên Thành về nhà chồng. Phủ Nhân Đạo Vương, cha của Trung Thành Vương không xa cung điện, nhưng vua cho rước dâu thật lớn. Ngựa xe cờ biển võng kiệu dài hàng dặm đi vòng quanh khắp cả phố phường kinh thành Thăng Long. Nhạc rộn rã. Pháo nổ ran ran. Hoa tung khắp phố. Thiên Thành công chúa ngồi trong kiệu hoa mà lòng như lửa đốt. Mấy tháng nay vua cha ngăn cấm, không được gặp Quốc Tuấn, nàng héo hon gầy mòn. Có lúc định quyên sinh. Thế nhưng mặc cho lòng yêu kính cha vô bờ, thì mối tình si dành cho Quốc Tuấn vẫn cháy rừng rực trong trái tim khiến nàng không thể cầm lòng. Nàng trích máu ngón tay, viết nhanh vào một vuông lụa trắng: “Muội bị đưa về nhà Trung Thành Vương hôm nay. Đợi mai sẽ làm lễ hợp cẩn. Nếu huynh còn tình với muội thì đêm nay hãy đến cứu muội ra. Nếu huynh không tới thì ngày này sang năm sẽ là ngày giỗ muội.” Thiên Thành đưa cho một đứa hầu gái tin cậy, dặn: “Lúc nào kiệu hoa đi diễu phố, ngươi hãy theo hầu kiệu một đoạn, rồi nhân lúc đông người lẩn nhanh, chạy đến phủ Thụy Bà đưa trao thư tận tay Quốc Tuấn cho ta.”

Nhận được thư của Thiên Thành, Quốc Tuấn lập tức tươi tỉnh. Đã mấy tháng nay không được gặp Thiên Thành, không biết cả tin tức, chàng đang rất chán chường. Đã nhiều lần chàng đòi Mẫu (Quốc Tuấn gọi Thụy Bà là Mẫu, xưng con) vào cung dò hỏi, nhưng đều không có kết quả. Kể từ hôm đó, Đức vua Trần Thái Tông sai người canh giữ công chúa nghiêm ngặt. Ngay cả một người mà Ngài hết sức kính nể là Thụy Bà, Ngài cũng thoái thác, không cho gặp. Mấy ngày hôm nay, nghe đàn sáo vang lừng trong cung ngoài phố, biết tình nương sắp về nhà chồng, Quốc Tuấn buồn vô hạn. Chàng chẳng còn muốn đọc sách hay luyện võ. Thụy Bà biết chàng buồn lắm, nhưng cũng chẳng thể làm gì. Bà cũng hiểu con cái nhà vương gia hầu hết đâu có được thỏa nguyện hôn nhân theo ý mình, mà phần lớn là phải tuân theo sắp xếp của triều đình, của thế cuộc. Ngay bản thân bà, cũng suýt mấy lần phải lấy chồng trái nguyện. May mà Quốc Sư Phù Vân đã nói với cha bà, Thượng hoàng Trần Thừa rằng, bà không có nghiệp duyên ở trần nên bà mới được ở yên chăm sóc cho các anh em trong nhà, rồi sau này nuôi cháu làm con.

Nhìn thấy Quốc Tuấn nhận được thư, đọc, rồi nhảy ngay ra sân múa gươm luyện võ rồi lại đòi bà cho ăn cơm sớm, bà biết Quốc Tuấn sẽ làm gì. Bà rất hiểu những người đàn ông trong họ Trần nhà mình nhưng bà cũng hơi lo lắng. Bà tự định liệu mọi việc trong lòng rồi âm thầm dõi theo Quốc Tuấn. Canh ba, chàng nhẹ nhàng ra khỏi nhà, nhằm hướng phủ Nhân Đạo Vương tiến tới. Với phép khinh thân siêu việt, Quốc Tuấn lọt vào trong phủ dễ dàng. Quốc Tuấn không biết rằng Mẫu mình cũng dõi theo từ phía xa. Nếu chàng gặp bất lợi, bà sẽ xông ra quát bảo, sẽ không có kẻ nào dám manh động. Nếu êm ả, một canh giờ sau, mọi việc êm xuôi, ván đã đóng thuyền, bà sẽ vào cung dựng vua em dậy, đặt Quan Gia vào sự đã rồi.

Canh tư, Thụy Bà chạy tới điện Đại Minh gõ cửa cấp báo. Đức vua Trần Thái Tông vội sai người thân tín trong cung đến phủ đệ của cha con Nhân Đạo Vương, Trung Thành Vương…

Sáng hôm sau, Thụy Bà dâng mười mâm vàng sống, tâu rằng: “Vì vội vàng nên không sắm được đủ lễ vật.”

Đức vua Trần Thái Tông đành đem hai nghìn khoảng ruộng ở phủ Ứng Thiên đền bù sính lễ cho Trung Thành Vương1.

1 Dựa theo Đại Việt sử ký toàn thư.

Trưởng công chúa Thiên Thành được rước về phủ Thụy Bà làm lễ kết tóc se tơ. Đôi vợ chồng trẻ quỳ lạy Mẫu rồi ra bến Đông Bộ Đầu, lên thuyền, ngược tới Ngã ba Dâu, rẽ vào sông Thiên Đức, xuôi về Vạn Kiếp ngay trong ngày.

Đoàn thuyền hoa rước dâu đi dọc sông Thiên Đức, muôn dân trong vùng ra đứng dọc hai bên bờ sông dài mấy chục dặm tung hoa xuống chúc mối duyên trời của đôi trai tài gái sắc. Đoàn thuyền của võ tướng trẻ tuổi tài cao Trần Quốc Tuấn đón trưởng công chúa xinh đẹp Thiên Thành về Vạn Kiếp trôi đi trên một dòng sông mênh mang đầy ắp những cánh hoa thơm nức. Một đàn chim én bỗng nhiên bay sà xuống đoàn thuyền hoa, chúng kêu những tiếng ríu rít như hân hoan chúc mừng. Chúng bay lượn quanh thuyền và dập dềnh trên sóng dẫn đôi trai tài gái sắc tiến vào Lục Đầu Giang mênh mang. Nhân dân cả nước càng hân hoan truyền tụng, chim én dẫn dâu, thật là một điềm lành của non sông Đại Việt!

—★—

Nhưng rồi Quốc Tuấn cũng không phải tìm dịp mở lời với phu nhân của mình về mối tơ duyên với nàng Quế Lan nữa.

Chỉ vài ngày sau khi từ biệt nàng Quế Lan ở bến Hồng Hạc, xuôi về Vạn Kiếp thì Quốc Tuấn đã nhận được quà từ trên Trầm Chỉ gửi xuống. Một giò phong lan đang nở những nụ hoa đầu tiên và gói lụa hồng điều phong kín do một người thân tín của gia đình Quế Lan mang tới. Quốc Tuấn treo giò phong lan lên cây muỗm cổ thụ bên đầu hồi thư phòng, cạnh cửa sổ. Chàng mang gói lụa điều vào phòng, mở ra. Trong đó chỉ có một quyển sách và hai phong thư. Một của ông đồ Kinh Bắc Dương Đức Tụng. Một của nàng Quế Lan.

Thư của ông đồ viết: “Tướng quân. Cuộc đời ta có hai thứ quý giá nhất thì nay ta trao cả cho tướng quân. Ta có một quyển sách ghi chép hết những điều ta rút ra sau một đời đọc sách và những suy ngẫm của ta về cuộc đời, về thế sự. Và cả những ghi chép của ta về thế sông hình núi nước Nam ta mỗi khi có dịp ngao du sơn thủy bấy nay. Ngay từ hôm gặp tướng quân tại phủ Vũ Uy Vương, ta đã biết là tướng quân có thiên mệnh hộ quốc an dân. Ta ghi chép lại tất cả những điều mình biết, những điều ngẫm ngợi bấy lâu, gửi cho tướng quân đọc, ngõ hầu có thể giúp ích chút gì đó cho tướng quân trong thiên mệnh của mình. Còn đứa con gái yêu duy nhất, ta cũng đã trao cho tướng quân. Nó là đứa con gái đẹp đẽ yêu quý, là báu vật của ta, nhưng ta hiểu dẫu sao cũng chỉ là phận nữ nhi thường tình. Ta chỉ hy vọng nó được nấp bóng tùng quân và sẽ là dòng nước mát cho tướng quân mỗi khi phải trải qua trận mạc ác liệt, thế sự bão bùng. Còn những thứ như gia sản tiền của chỉ là vật ngoại thân không tính đến. Nhưng việc nước mà tướng quân phải gánh vác nếu không có đủ nhân tài vật lực sẽ muôn phần khó thêm. Ta giao lại toàn bộ gia sản gồm đất đai nương ruộng, thuyền buôn, cửa hàng ngoài kinh thành cho tướng quân toàn quyền cai quản. Trong tay tướng quân, ta biết những gia sản của ta sẽ có ích cho đời. Riêng chuyện tình giữa tướng quân và Quế Lan, ta nghĩ nên để Quế Lan và tướng quân định liệu. Quế Lan là một cô gái đảm đang. Ta chỉ có một mụn con gái nên từ bé đã dạy cho đầy đủ từ chữ nghĩa đến việc bán buôn, nông tang. Ta nghĩ nó có thể sẽ giúp được Ngài trong sự nghiệp của mình. Hãy nhận lấy thành ý của ta.”

Nàng Quế Lan viết: “Quốc Tuấn chàng! Thiếp viết ngay lá thư này cho chàng khi thuyền xuôi Vạn Kiếp vừa khuất bóng. Thiếp vô cùng mãn nguyện vì thiếp đã có chàng. Đời này kiếp này thiếp không còn gì mong mỏi nữa. Mong ước của thiếp từ khi mới là một cô bé lên mười là lớn lên, chỉ cần được chàng cầm tay một lần là đủ. Thế mà nay thiếp được trọn vẹn ái ân với người yêu mình cả ngày đêm. Một ngày tựa mạn thuyền rồng, còn hơn vạn kiếp ở trong thuyền chài. Cha thiếp dạy thế. Thiếp vâng thế. Cho đến ngàn năm sau, thiếp cũng không mong gì hơn nữa. Với thiếp thế là đã đủ cho một đời một kiếp hồng nhan. Bởi thiếp cũng biết rằng, chàng đã là phu quân của bậc mẫu nghi thiên hạ, Thiên Thành phu nhân. Dù thiếp biết rằng chàng là đấng trượng phu, đời chàng có thể sẽ có muôn nữ nhân trẻ đẹp muốn ghé vào hưởng ân mưa móc. Và thiếp cũng biết rằng, về dưới Vạn Kiếp làm thứ phi cho chàng là niềm mơ của cả ngàn cô gái trên thế gian này. Thế nhưng thiếp không thích điều đó. Thiếp không muốn nhìn thấy cảnh người mình yêu dấu tay trong tay, âu yếm với người đàn bà khác, dù người ấy là ai. Và thiếp cũng không muốn hứng chịu những thị phi, hờn ghen có thể giáng xuống, nếu chàng yêu chiều thiếp hơn. Vậy nên chàng không phải làm gì cả, hãy để thiếp trên này. Thiếp là của chàng. Vĩnh viễn không có một người đàn ông nào khác nữa! Bởi thân thể này, tâm hồn này, thiếp đã nguyện chỉ để dành riêng mà tôn thờ chàng. Nhà cửa gia sản trên này là của chàng. Thiếp sẽ cùng cha mẹ trông coi giữ gìn, sẽ mở mang sản nghiệp ra to lớn hơn nữa để sau này chàng có lực làm việc quân việc nước. Thi thoảng về kinh hội triều, chàng hãy ghé về, thiếp luôn đợi. Thiếp gửi cho chàng giò phong lan mà thiếp yêu quý nhất, nó cũng mang tên thiếp, Quế Lan Hương. Chàng hãy treo giò hoa đó lên gần cửa sổ thư phòng, đêm đến Quế Lan Hương sẽ tỏa hương cho chàng thư thái. Chàng sẽ thấy như có thiếp ở bên. Thiếp gửi cho chàng một chiếc lá dâu làm bằng ngọc thiên thanh. Thiếp đã bứt một chiếc lá non ở cánh bãi nơi mình gặp nhau, sai người mài ngọc thành hình chiếc lá và nạm khắc lên đó một chữ Trần. Chàng giữ nó nhé. Lá dâu xanh nõn hình trái tim thiếp đã trao chàng cũng như phần thân thể của thiếp dành riêng để chờ chàng. Nếu may mắn trời cho cuộc giao hoan của chúng ta có hoa trái, sinh con trai, thiếp sẽ đặt tên là Hưng Hồng. Chữ Hưng, là để nhắc con sau này nhớ về tước vị của cha nó, còn chữ Hồng, là để nhớ về buổi chúng ta ân ái lần đầu tiên, trong bãi dâu, trên bến Hồng Hạc. Chàng có nhớ không, lúc chàng bước chân lên bờ sông gặp thiếp thì một đàn hồng hạc cũng từ trên trời sà xuống bến sông quê. Ôi những con chim đẹp đẽ xiết bao. Và thiếp nhớ mãi khuôn mặt chàng luôn hồng rực lên khi âu yếm thiếp... Mỗi khi chàng qua lại kinh thành, thuyền đi trên sông Thiên Đức, chàng hãy nhìn vào bãi dâu nơi mình gặp gỡ. Thiếp sẽ luôn ngóng chờ và cầu cho chàng mọi sự bình an. Thư đã dài, thiếp xin dừng bút. Mong chàng chiều theo ý thiếp.”

Quốc Tuấn nhẹ nhàng mở quyển sách ra: Ở giữa có kẹp một chiếc lá dâu được khắc tinh xảo bằng ngọc quý, màu xanh nõn như vẫn trên cành. Trên mặt có một chữ Trần được nạm vàng nổi rực rỡ trên nền mướt mát xanh. Chàng bỗng như thấy lại cả bãi bờ tốt tươi mướt mát của nương dâu bên bờ sông Thiên Đức, mới hôm nào…

Quốc Tuấn gấp sách đi ra đầu hồi thư phòng. Chàng lặng ngắm giò phong lan Quế Lan gửi tặng. Những chiếc lá dài độ gang tay, to bằng ngón tay cái xanh nhạt mịn màng, gần giống với màu của lá dâu. Ở những kẽ lá, có khá nhiều những chùm hoa chi chít nụ xanh đang thả dài xuống như chuỗi ngọc. Vài bông hoa đã hé nở khoe sắc trắng tinh khôi, thỉnh thoảng điểm thêm một đốm tím mê hoặc. Khi nào mãn khai sẽ có một tràng hoa tuyệt đẹp đây… Thầm nghĩ thế, Quốc Tuấn hít một hơi thật sâu bỗng chàng thấy thoang thoảng trong không gian một mùi hương thơm nhẹ nhõm. Thanh khiết mà vẫn nồng nàn. Như mùi hương trinh nữ trên thân thể nàng Quế Lan tỏa ra khi cùng chàng giao hoan ân ái. Một mùi hương mê đắm. Quốc Tuấn nhủ thầm trong bụng: “Quế Lan, bông hoa hương sắc tuyệt vời của ta. Nàng hãy cùng ta song hành trên con đường mà trời đã lựa chọn. Mà có lẽ trời cũng đã lựa chọn để đưa nàng đến bên ta. Vậy thì nàng hãy ở bên ta, mãi mãi nhé.”

Đúng chín tháng mười ngày, kể từ hôm gặp nhau trong bãi dâu, nàng Quế Lan sinh hạ một bé trai khôi ngô tuấn tú. Thế nhưng nàng đã mất ngay sau khi sinh do chứng băng huyết. Ông đồ Dương Đức Tụng cho người nhắn ngay về Vạn Kiếp để Quốc Tuấn được biết. Khi Quốc Tuấn lên đến nơi thì nàng Quế Lan đã mồ yên mả đẹp. Nàng được gia đình an táng ngay tại bãi dâu, bên bờ sông Thiên Đức, trên bến Hồng Hạc, nơi nàng đã gặp Quốc Tuấn.

Ông đồ Tụng vô cùng đau đớn, ông xin với Quốc Tuấn cho cậu con trai ở lại trên Trầm Chỉ để ông nuôi nấng. Quốc Tuấn cũng muốn đưa con về nuôi, nhưng nhìn cảnh vợ chồng ông đồ cô quạnh, chàng cũng đành cầm lòng theo ý. Chàng sai hầu nữ, gia nhân lên giúp ông bà nuôi cháu. Đứa cháu trai lớn lên trong sự bao bọc và tình thương yêu vô bờ bến của ông bà, rất khôi ngô sáng sủa và quấn quýt ông ngoại. Có bao nhiêu sở học, ông đồ Dương Đức Tụng lại ra sức truyền dạy cho cháu.

Hai mươi năm sau, trong kỳ thi đình năm 1278, chàng trai Trần Hưng Hồng đã đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, được Đức vua Trần Thánh Tông bổ ngay làm Thượng thư Bộ Hộ, một bộ chuyên lo liệu về mọi việc làm ăn kinh tế của nước nhà. Đấy là một đặc ân rất ít có của triều đình với người vừa mới đỗ đạt.

Cháu ngoại Trần Hưng Hồng đỗ tiến sĩ ba năm thì cả hai ông bà đồ Dương Đức Tụng theo nhau khuất núi. Nhưng trước khi ra đi, ông bà đồ đã kịp gây dựng cho cháu ngoại mình một cơ ngơi bề thế nhất vùng Kinh Bắc. Những nương dâu bạt ngàn bên bờ Thiên Đức. Những thửa ruộng màu mỡ thẳng cánh cò bay bên cánh đồng Ngũ Thiên Mẫu. Ông đồ còn mua cả một đội thương thuyền sai đi vận chuyển bán buôn tận Vân Đồn, Hải Đông, ra tận nước ngoài. Hằng năm hoa lợi thu vô vàn, ông đồ chỉ giữ lại đủ chi dùng, còn bao nhiêu, ông cho đổi thành vàng bạc, âm thầm chuyển về Vạn Kiếp cho Quốc Tuấn, với lời nhắn: “Tướng quân hãy dùng để lo việc quân, việc nước.”

Cơ nghiệp của ông ngoại để lại được quan Thượng thư Bộ Hộ Trần Hưng Hồng cai quản và phát triển ra ngày càng to lớn hơn. Vùng Kinh Bắc xưa nay vốn vẫn nổi tiếng nhiều nhà cự phú trong thiên hạ. Thế nhưng thời ấy không một ai dám sánh với gia sản của ông đồ Dương Đức Tụng để lại cho cháu. Quan lại cả triều đình đều biết tiến sĩ Hộ Bộ Thượng Thư Trần Hưng Hồng là con trai của Đức ông Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nên lại càng nể phục tài kinh bang tế thế của vị tiến sĩ trẻ tuổi người làng Trầm Chỉ, huyện Siêu Loại, trấn Kinh Bắc. Họ nói, đúng là con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh.

—★—

Nước Đại Việt kể từ mùa xuân năm 1258 trở đi thật thanh bình.

Vua sáng tôi hiền, nhân dân no ấm. Thời thịnh trị sáng tươi. Trần Quốc Tuấn được phong vương ở đất Hưng Đạo từ lâu, ngài vẫn ở tại thái ấp Vạn Kiếp. Trên kinh thành cũng có phủ Hưng Đạo Vương nhưng Trần Quốc Tuấn chỉ ở những dịp hội triều hay lễ lạt quan trọng của nước nhà, còn ông lại về dưới thái ấp.

Con sông Thiên Đức thành con đường thủy quen thuộc, mỗi khi qua bến Hồng Hạc, ông đều ghé vào thắp hương người đàn bà đã sinh cho mình một đứa con trai tài giỏi. Ông thầm cảm ơn nàng Quế Lan, người đã dâng hiến trinh trắng cho mình mà không một mảy may suy tính, đòi hỏi danh phận. Ông cũng thầm biết ơn dân vùng Trầm Chỉ, Bãi Soi, dân Siêu Loại, dân Kinh Bắc hai bờ sông Thiên Đức, tất cả đã bao bọc, che chở, ủng hộ con trai ông và họ đã góp công góp sức vào mở mang cơ nghiệp trên đất này. Cái cơ nghiệp mà Trần Quốc Tuấn được trao tặng từ ông đồ Dương Đức Tụng, từ nàng Quế Lan, như một món quà, bây giờ đang cung cấp cho ông một nguồn tài lực dồi dào để lo việc nước.

Bởi vì trên vai Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là cả một trái núi khổng lồ.

Năm Thiệu Long thứ 7 (1264), Đức ông Trần Thủ Độ mất. Trước khi nhắm mắt, Đức ông đã nói riêng với Thái Thượng Hoàng Trần Thái Tông: “Việc quân sự phòng thủ nước nhà, giao toàn quyền cho Trần Quốc Tuấn định liệu.”

Năm Bảo Phù thứ 5 (1277). Rằm tháng Giêng, Thái Thượng Hoàng Trần Thái Tông cho gọi Quan Gia Trần Hoảng (Trần Thánh Tông) và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn vào điện Đại Minh, gặp riêng, dặn: “Giang sơn đất Đại Việt là do tổ tông nhà Đông A ta được trời phù hộ, bao năm nằm gai nếm mật, nhọc công đánh dẹp, mới chiếm ngôi cao nhất thiên hạ. Công đức ấy là của chung cả họ, không riêng một người mà làm nên. Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông, người nối nghiệp tổ tông trong phải biết cùng hưởng phú quý với anh em trong họ, bên ngoài phải biết chăm lo cho cuộc sống muôn dân. Có vậy nước mới yên mà hưởng phú quý lâu dài. Tuy là một người ngồi ngôi cao, được cả thiên hạ phụng sự, nhưng anh em trong nhà, trong họ phải luôn nhớ tình ruột thịt. Lo thì cùng lo, vui thì cùng vui. Hai con nhớ lời ta dặn: Hoảng giữ ngôi cao nhưng mọi việc lớn của nước nhà, nhất nhất thỉnh ý Tuấn. Việc binh bị chiến chinh Quốc Tuấn phải tự mình lo lắng đảm nhiệm, không cần phải đợi ai giao phó, mà đó là việc của mình rồi. Phòng giặc phương Bắc, ấy là mối thù muôn đời, không ai được quên. Các xứ Lạng Giang, Kinh Bắc, Quảng Yên là nơi hiểm yếu, giặc tới sẽ xâm phạm đầu tiên, giao cả cho Quốc Tuấn trấn thủ. Lễ vua tôi phải giữ, nhưng đạo anh trên em dưới cũng phải cung kính khiêm nhường, hai con nhớ khắc ghi điều ấy. Cứ được như thế thì ta có nhắm mắt cũng yên lòng.”

Tháng Tư năm ấy, nhằm ngày mùng Một, Thái Thượng Hoàng Trần Thái Tông băng, Ngài thọ năm mươi chín tuổi [1].

[1] Đai Việt sử ký toàn thư, trang 40, tập 2 (Viện Khoa học Xã hội - NXB Khoa học Xã hội 1998) chép: “Mùa hạ, tháng Tư, ngày mùng Một, Thượng hoàng băng ở cung Vạn Thọ.”

Lễ hội Mo Nang trong triều thường tổ chức vào Rằm tháng Tư hằng năm. Năm ấy nhân có tang cha, Trần Thánh Tông ban lệnh hủy đi. Rồi các năm sau nhà vua cũng không nhắc đến nữa, quần thần cũng không ai dám hỏi. Lễ hội Mo Nang thất truyền từ dạo ấy.