Chương 4 LỤC ĐẦU GIANG ANH HÙNG TỤ NGHĨA
Hay Đất Vạn Kiếp dậy hào khí Đông A
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ngồi trầm ngâm trong thư phòng.
Ngài đang nghĩ về những điều vừa đọc trong quyển sách của ông đồ Dương Đức Tụng. Tại thiên thứ nhất, ông đồ viết: “Các nhà từ tam hoàng ngũ đế thời thượng cổ, cho đến Triệu, Đinh, Lê, Lý tiền triều tới nay, nhà nào dựng nghiệp cũng muốn muôn năm mãi mãi, truyền cho con cháu đời đời về sau. Thế nhưng rồi nước nào cũng mất, nhà nào cũng tan. Phải chăng đó là luật trời? Được là trời cho. Mất cũng là trời lấy. Nhưng thật ra trước khi lấy đi, thì những điềm mất nước mà trên cao xanh hiển hiện ra nơi lòng dân cũng rất rõ ràng. Vậy mà nhà nào cũng nhắm mắt làm ngơ, không chịu sửa mình. Cứ dương dương tự đắc là bậc thiên tử đứng đầu thiên hạ thì nào ai làm gì được? Thế là nháy mắt, chỉ một cái xoay của càn khôn, sông nên bãi, bể nên đồng. Ngôi cao cùng của cải lầu son gác tía ra tro cả, hối được ra thì đã muộn lắm thay. Ấy là trời mở mắt cho vậy. Hãy nhìn bên Tống triều phương Bắc là thấy ngay hiển hiện…”
Những biện giải trong sách thật hợp với suy nghĩ của Vương, rằng nhà Tống bên Trung Nguyên chắc chắn sẽ bị quân Mông Thát tiêu diệt. Việc đó chỉ xảy ra sớm hay muộn, không thể tránh được, bởi các điềm mất nước của nhà Tống cũng đã hiện ra rõ ràng từ lâu. Vua thì hôn quân vô đạo, ưa nịnh, không nghe lời nói thẳng, hoang dâm xa xỉ cùng cực. Quan lại chỉ lấy việc vơ vét của dân làm đầu, không ai lo việc nước. Tướng thì bất tài hèn nhát, lòng quân ly tán. Ngân khố trống rỗng. Nạn mua quan bán tước tràn lan, không có một thời nào mà chức tước được mua bán như cá ngoài chợ vậy. Kẻ sĩ trong thiên hạ quay lưng với thế sự, vào núi ở ẩn. Bách tính trăm họ lầm than, nạn đói xảy ra triền miên, người ăn xin, kẻ chết đói đầy đường. Rồi thì nắng hạn, lụt lội… Những điềm mất nước như thế không một sớm một chiều mà có, mà nó là sự tích tụ lại của bao nhiêu năm rồi. Thế nhưng…
Vương buông một tiếng thở dài đứng dậy. Vương đi ra vườn nhà, đứng bên cây muỗm cổ thụ trầm tư suy nghĩ tiếp.
Thế nhưng, nhà Tống mà mất, bọn giặc hung tàn Mông Thát kia sau khi bình định Trung Nguyên, chúng sẽ quay sang đánh Đại Việt ta. Bọn giặc này như một con yêu tinh khát máu người từ ngàn năm nay mới xổng ra từ âm phủ vậy. Chúng dường như không biết thế nào là đủ. Nghe nói chúng đã bình định cả Tây Vực và đánh tới nước Nga La Tư [1] xa xăm. Mỗi khi vó ngựa của đội quân này tới đâu là máu chảy thành sông, xương chất thành núi. Đến cỏ còn không mọc nổi dưới vó ngựa của chúng. Thế mà năm Đinh Tỵ chúng đã bị quân dân Đại Việt đánh cho chạy không kịp thở. Mối nhục thất trận năm đó chắc chắn vẫn còn nguyên trong tâm can của lũ cường bạo này, chưa thể nuốt trôi. Thế nên chúng sẽ đánh, chỉ là vấn đề thời gian. Chúng muốn làm cỏ cả nước Đại Việt…
[1] Tức nước Nga.
Vương chợt lặng đi, nhìn đăm đắm vào khóm Quế Lan Hương xanh mướt. Kể từ khi nàng Quế Lan gửi từ trên Trầm Chỉ xuống, Vương đã treo gắn vào với thân cây muỗm cổ thụ và tự tay mình hằng ngày tưới tắm. Rất nhanh chóng giò phong lan đã vươn những cái rễ mềm mại bám vấn vít vào thân cây. Bây giờ ngắm nhìn, thấy giò phong lan này cứ như được mọc ra từ thân cây muỗm chứ không phải được gửi vào. Hằng năm vào dịp tháng Tư, tháng Năm, giò phong lan ấy nở hoa thơm ngát. Một mùi thơm thanh khiết. Đêm về ngồi trong thư phòng đọc sách, hương hoa lan tràn vào sực nức nồng nàn. Mỗi khi ngửi thấy mùi hương của loài hoa ấy, Vương lại nhớ da diết người thiếu nữ tuyệt sắc của vùng Kinh Bắc, người đã dâng hiến cho Vương cả cuộc đời mình. Nàng đã sinh cho Vương thêm một đứa con trai khôi ngô tuấn tú giỏi giang. Rồi đây chàng trai ấy sẽ giúp cha mình vô cùng đắc lực trong công cuộc trụ cột cho vương triều Đại Việt. Vương đã vô cùng yêu quý và để tâm dạy bảo đứa con ấy, và để công chăm sóc tưới tắm cho giò phong lan Quế Lan Hương, như là một cách tưởng nhớ đến tình nương yểu mệnh của mình. Dường như sâu trong tâm tưởng, nàng Quế Lan vẫn dõi theo và đồng hành với Vương mỗi ngày.
Vương ngồi xuống tảng đá phẳng nhẵn được mang từ trên núi Yên Tử về theo tư thế tọa thiền. Khoanh chân xếp bằng. Hai lòng bàn tay ngửa ra, đầu ngón cái và ngón trỏ chạm nhau thành một vòng, để trên đùi. Vương nhắm mắt thiền định. Môn phái võ gia truyền của dòng họ Đông A cũng lấy Thiền Tông như là một phép dưỡng trí tu tâm. Vương hít một hơi sâu, lúc này đang không phải mùa lan ra hoa, nhưng Vương vẫn dường như thấy mùi hương thanh khiết phảng phất đâu đây. Trong đêm, mùi hương ấy nồng nàn vấn vít khắp không gian tĩnh lặng. Mùi thơm ấy đang vuốt ve mặt mũi, quấn quýt thân thể Vương, Vương dần như mê đi trong đêm. Vương có cảm giác như đang bên tình nương đẹp đẽ và thơm nức khi xưa của mình. Nàng Quế Lan trẻ trung xinh đẹp. Vương hít thở đều đặn, mắt nhắm nghiền, tâm trí phiêu diêu ở một miền xa thẳm. Vương thấy thân thể mình nhẹ bỗng, bay lên, bay lên mãi trên tầng trời xanh ngát. Nơi đó có một đám mây trắng nõn đang lơ lửng. Đám mây thoắt biến thành nàng Quế Lan kiều diễm. Nàng ôm ấp vuốt ve Vương. Nàng đưa Vương trở về bãi dâu mướt mát bên bờ sông Thiên Đức. Họ lại hòa vào nhau. Sâu thẳm. Bất tận.
Vương cứ ngồi yên lặng như thế hồi lâu trên tảng đá. Nhịp thở của Vương vẫn đều đều không đổi. Chỉ có gương mặt thỉnh thoảng lại hiện lên những sắc hồng. Chừng nửa canh giờ, bỗng Ngài vươn vai, hít thêm một hơi dài sâu như để nạp thêm dưỡng khí. Vương đứng dậy đi vào thư phòng thì gia nhân đã pha một ấm trà ướp nhài thơm ngát đặt lên bàn. Ngài chăm chú thưởng trà và suy tính. Ừ, triều đình thối nát nhà Tống sụp đổ dưới vó ngựa quân Mông Thát là tất yếu. Cuộc đụng độ giữa quân dân Đại Việt với chúng cũng sẽ là không tránh khỏi. Vậy thì chúng ta phải chuẩn bị cho cuộc chiến đó ngay từ bây giờ. Chúng ta chuẩn bị nhân tài vật lực tốt, quân sĩ thao luyện kỹ càng, vũ khí và thế trận sẵn sàng, kẻ địch sẽ được biết thế nào là hào khí Đông A, là khí phách của quân dân Đại Việt. Và quan trọng hơn, có sự chuẩn bị từ trước cho chiến cuộc thì sẽ tránh được cho người già, đàn bà, con trẻ của trăm họ sự tàn sát hung bạo của đạo quân khát máu kia. Ta phải suy xét thật chu đáo và đầy đủ, lường hết mọi tình thế có thể sẽ xảy ra trong chiến trận. Ta phải hạn chế mọi tổn thất về người và của. Và ta phải chắc thắng. Dù thiện chiến ngông cuồng hung bạo đến đâu, tới đất này chúng cũng sẽ chỉ có một đường đó là thua trận. Bất giác Vương mỉm cười! Rơi vào thiên la địa võng mà chúng ta bày sẵn thì dù bọn giặc Mông Thát có là những kẻ ba đầu sáu tay, bay được trên không, chui xuống dưới đất, chúng cũng không thể thoát ra được! Chỉ có bại vong!
Vương cho gọi Tổng quản Trương Hán Siêu vào bàn chuyện.
Trương Hán Siêu vốn là thư sinh ở phủ Trường Yên, theo về làm môn khách tại thái ấp Vạn Kiếp từ lâu. Sau khi lão quản gia của thái ấp từ thời An Sinh Vương mất thì Hưng Đạo Vương giao cho Trương Hán Siêu việc quản lý ở đây. Trương Hán Siêu không những văn hay chữ tốt mà còn tính toán giỏi, được Vương rất tin cậy. Biết tính Vương, Hán Siêu ôm theo cả chồng sổ sách ghi chép vào thư phòng. Vương hỏi đến chỗ nào, trong nháy mắt Trương Hán Siêu mở sổ đọc những con số mà Ngài cần biết: Số gia nô người hầu trong thái ấp, số quân lính trong các lộ do Vương cai quản, số nhân khẩu từng nơi. Rồi số thóc lúa nhập kho, hoa lợi từ các nguồn được thu về quy ra tiền, vàng bạc. Bao nhiêu con trâu bò, bao nhiêu con ngựa chiến. Đội voi chiến hiện có bao nhiêu con, cho đến lượng sắt khai thác từ các mỏ trên thượng du cùng số mua về từ nước ngoài gom trong kho. Thuốc súng được chế tạo, cất giữ nơi đâu cho đảm bảo. Rồi thuyền buôn có bao nhiêu chiếc. Thủy đội hiện có và số đang đóng thêm… Tất cả những con số mà Vương cần thì Hán Siêu đều cung cấp đầy đủ, chính xác. Vương hài lòng, cho gọi bày mâm cùng Trương Hán Siêu uống rượu. Vương nói:
“Việc làm ăn của ta thế là tốt. Nhưng sắp tới sẽ có rất nhiều việc lớn của nước nhà phải chi dùng. Nhân tài vật lực phải chuẩn bị đầy đủ. Ngươi chú ý tích trữ lương thực. Cho người lên mạn Nội Bàng, Đà Giang chặt gỗ xuôi bè về để đóng thuyền… Gỗ lim mạn Nội Bàng rất tốt, giống lim xanh trên đó rắn như đá. Ngươi kín đáo cho chuyển một số bè cọc, đưa về mạn sông Tranh giấu sẵn vào trong bãi bồi, rừng sú vẹt, phòng khi dùng đến.”
“Dạ thưa Vương, theo như ngu ý của kẻ dưới thì ta không nên làm vậy. Làm thế là đánh rắn động cỏ, kẻ địch sẽ biết trước mà đề phòng. Tiểu sinh biết là ở dưới Quảng Yên, cách Ghềnh Cốc về bên tả khoảng năm dặm có một cánh rừng toàn lim rất to. Vương chỉ cần sức cho dân vùng đó cấm không được đụng một cây nào trong đó là ổn ạ. Khi nào cần, ta huy động quân dân cả vùng, chỉ một đêm là có ngay hàng ngàn cái cọc!”
“Ngươi nói rất phải. Ta biết vùng này cũng có nhiều tai mắt của bọn phương Bắc nên mọi việc cần cẩn trọng. Vậy cứ theo ý của ngươi mà làm. Còn việc đạc điền rồi cấp ruộng cho gia đình có người xung quân, ngươi cũng cho làm luôn. Phủ ta gương mẫu làm trước để cho các thân vương khác làm theo.”
“Trình Vương, việc này đã làm gần xong sổ sách, chỉ còn đo đạc và giao ruộng cho mọi nhà là xong ạ.”
“Tốt. Quân sĩ ra trận, gia đình được chăm lo thì họ mới tận tâm đánh giặc. Ngươi gặp và bàn với Hưng Hồng lo việc tìm nơi khô ráo, lại kín đáo ở trong khắp nước để làm nơi cất giữ lương thực và trú ẩn cho quân dân các vùng khi có biến, vẽ địa đồ đưa lại cho ta. Việc này cũng làm bí mật, càng ít người biết càng tốt.”
—★—Mùa thu năm Thiệu Bảo thứ nhất (1279).
Rất nhiều tin tức bất lợi từ Trung Nguyên đưa về. Hốt Tất Liệt diệt xong nhà Tống. Đại thần Lục Tú Phu cõng vua nhảy xuống bể tự tử. Mười vạn quân dân Nam Tống bị bọn giặc hung tàn Mông Thát chém giết dồn xuống bể Quảng Đông chết đuối, hàng tuần sau xác mới nổi lên hết. Tin đưa về Đại Việt làm cho dân cả nước xao xác rúng động, cái họa diệt chủng đang cận kề cửa ngõ.
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nhận được tin cấp báo lập tức về triều hội kiến cùng Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông, Quan Gia Trần Nhân Tông và các thân vương. Mọi người đều thống nhất với nhận định của Hưng Đạo Vương: một khi đã diệt xong Tống thì việc đánh Đại Việt của nhà Nguyên chỉ là vấn đề thời gian. Vấn đề được đặt ra là triều đình sẽ đối phó thế nào! Hòa hay đánh? Hòa - tức là hàng. Nhưng đánh - thì đánh thế nào cho chắc thắng mà vẫn bảo tồn được bách tính? Sau ba ngày hội triều, mọi người nhất trí là sẽ đánh. Danh dự và hào khí Đông A không cho phép đầu hàng. Có một vài thân vương nêu ý kiến tạm hòa, nhưng trước khí thế sôi sục của Thái Thượng Hoàng, của nhà vua trẻ vừa lên ngôi, cũng đành thuận theo. Mọi người nhất trí đề nghị Hưng Đạo Vương soạn ra một kế sách liên hoàn chống giặc như đã làm năm Đinh Tỵ, tất cả hoàng gia, kể cả hai vua sẽ theo kế đó mà bày trận. Ai cũng tin vào tài thao lược của Hưng Đạo Vương. Hai vua lập tức ban lệnh cho quân dân cả nước chuẩn bị đánh giặc. Các thân vương trấn giữ các đạo được lệnh bổ sung ngay quân lính, vũ khí, ngựa, thuyền. Quân Thánh Dực trong triều lập tức ngày đêm tập luyện, sẵn sàng xung trận. Bộ Hộ của Trần Hưng Hồng được yêu cầu huy động mọi nguồn tài lực phục vụ cho Bộ Công của Nguyễn Hiền tăng cường chế tạo vũ khí, đóng thêm nhiều thuyền chiến.
Tan hội triều, Hưng Đạo Vương xuôi Vạn Kiếp ngay trong đêm.
Sáng hôm sau về tới thái ấp, Vương cho gọi ngay hai gia tướng Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Địa Lô, bốn vương tử là Quốc Nghiễn, Quốc Tảng, Quốc Uất, Quốc Hiện, cùng hai người tỳ tướng thân tín của Vương là Yết Kiêu, Dã Tượng về họp bàn. Và tất nhiên không thể thiếu môn thần kiêm quản gia thân tín Trương Hán Siêu.
Trương Hán Siêu mấy năm trước nguyên là môn khách trong phủ Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc. Hán Siêu nổi tiếng tuổi trẻ tài cao, thi văn hào sảng ngút trời, lại giỏi cả bấm độn tính toán. Làm môn khách tại kinh thành Thăng Long trong một nhà vương gia thế lực và giàu có nhất nhì lúc đó nhưng tay trẻ tuổi mạn Trường Yên không a dua nịnh hót chủ nhân. Đám môn khách hàng ngàn người trong phủ Chiêu Quốc, chỉ suốt ngày tìm cớ để tâng Trần Ích Tắc lên tận mây xanh. Thế nên chỉ một thời gian sau, Trương Hán Siêu chán, bỏ về núi Dục Thúy ở, tự đọc sách cày ruộng. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nghe chuyện, bèn vào tận trong đó đàm đạo với tay trẻ tuổi đất Trường Yên một ngày. Trương Hán Siêu cảm phục tâm tài và tráng khí của Vương, theo về Vạn Kiếp làm môn khách từ đó đến nay. Và Trương Hán Siêu không những là người có thể cùng Vương ngâm ngợi thơ phú khi cao hứng trăng thanh gió mát mà Hán Siêu còn trở thành mưu thần bàn việc lớn với Vương trong màn trướng. Vương tin tưởng giao cho Hán Siêu cai quản toàn bộ sổ sách quân lương của thái ấp Vạn Kiếp. Trương Hán Siêu dần trở thành một người tâm phúc của Vương.
Bốn vương tử đương thời thanh niên sung sức: Quốc Nghiễn lớn nhất chưa đến ba mươi, còn Quốc Hiện nhỏ nhất mới ngoài hai mươi. Nhìn bốn con trai khỏe mạnh, đẹp đẽ, oai nghiêm trong bộ võ phục, Vương thấy trong lòng dâng lên một niềm vui khó tả. Bao năm nay Vương dày công rèn giũa, thao luyện võ nghệ, chú giảng binh pháp cho các con, nay chúng đã đủ lông cánh, đủ lực cầm một đạo quân lớn cùng cha đánh dẹp. Bốn vương tử sẽ dẫn đầu bốn đạo quân ở bốn hướng đông, tây, nam, bắc hỗ trợ cho trung quân Vạn Kiếp. Đó sẽ là những cánh quân chủ lực tuyệt đối theo lệnh Vương. Lúc chưa thuận lợi sẽ lùi xa giữ gìn binh lực. Đến thời cơ sẽ cùng lao vào như thác đổ, quyết chiến không khoan nhượng, sẽ băm vằm kẻ thù tan thành từng mảnh nhỏ, làm cho chúng khiếp sợ đến muôn năm…
Gia tướng Phạm Ngũ Lão cũng là con rể Vương, vốn người làng Phù Ủng, lộ Đường Hào, Hải Đông. Năm xưa đi kinh lý xứ này, qua làng Phù Ủng bắt gặp, Vương đã lấy làm lạ, sao trong chốn thôn dã lại sinh ra được một chàng trai không những gan dạ, khỏe mạnh mà lại khôi ngô tuấn tú thông tuệ đến vậy. Khi quân lính của Vương túm giải Ngũ Lão đến trước kiệu, trình: “Bẩm vương, tên tiện dân này thật láo toét. Kiệu Ngài sắp đi qua mà nó cứ điềm nhiên ngồi đan xọt bên đường, không thèm dậy vái chào. Chúng con quát dẹp và chích cho mũi giáo vào đùi mà nó cũng không thèm để ý đến. Nó không coi vương pháp là gì. Xin Vương giáng tội ạ.” Hưng Đạo Vương nhìn khuôn mặt sáng rỡ của người trẻ tuổi. Rồi lại nhìn xuống bắp đùi rắn chắc vẫn đang ròng ròng máu chảy. Không có biểu hiện gì của sự đau đớn hay sợ hãi. Vương nghĩ thầm, đây có khi là người mà trời sai xuống làm vây cánh cho mình cũng nên…
Vương hỏi:
“Nhà ngươi đang nghĩ gì mà để quân lính của ta chích giáo vào đùi cũng không biết vậy?”
“Dạ, bẩm Vương. Kẻ tiện dân này đang mải nghĩ về chuyện bên Trung Nguyên, Hốt Tất Liệt đã diệt Tống, thế nào nay mai cũng đánh sang Đại Việt ta. Trộm nghĩ chuyện làm sao có thể đánh quỵ vó ngựa của chúng, dìm cho chúng chết ngập trên sông hồ nước Nam ta.” Thêm vài câu đối đáp, Phạm Ngũ Lão đã làm Vương vô cùng hài lòng, lập tức quát sai người băng bó vết thương, đưa lên kiệu cùng ngồi về phủ. Phạm Ngũ Lão dần trở thành tướng tâm phúc của Hưng Đạo Vương. Đây là người mà Vương vô cùng yêu quý. Vượt qua tình gia đình, tình thày trò, Vương luôn coi Ngũ Lão như là một người thân tín có thể cùng nhau bàn bạc mọi chuyện. Khi mà Vương và Ngũ Lão bên cạnh nhau, nhiều người trong nước cứ tưởng là cha con ruột thịt chứ không phải rể. Ngũ Lão cũng có vóc người cao lớn rắn chắc giống Vương. Thật lạ, khuôn mặt lại càng giống hơn với chiếc mũi cao, cặp mắt to sáng dưới đôi lông mày rậm luôn nhìn thẳng. Ngũ Lão không những giỏi võ nghệ mà còn tinh thông binh pháp và hiểu rất nhanh mọi ý đồ bày trận của Vương. Nhìn ngắm Ngũ Lão đang ngồi cạnh bốn con trai, Vương chợt nhớ đến trận tỉ thí võ nghệ năm xưa tại võ đường của thái ấp.
Hôm ấy, nhân dịp tiết xuân sáng sủa, Vương cho tất cả các binh sĩ, gia nô cùng đấu võ chọn ra anh hùng vô địch. Ba môn đấu là: phi ngựa bắn cung, múa giáo đối chiến và chiến đấu tay không. Đó cũng là những môn võ thiết yếu của chiến binh Đông A khi ra trận. Đánh xa sẽ dùng cung tên. Đánh gần sẽ dùng giáo dài. Và khi cận chiến đối mặt trong hỗn trận sẽ dùng võ thuật quật ngã, bẻ cổ hoặc dùng đoản đao hạ sát kẻ thù. Năm đó, Phạm Ngũ Lão mới về làm môn khách của Vương được ba năm, nhưng đến chiều hôm thứ ba của hội võ thì mọi đấu thủ đều đã bị Ngũ Lão đánh cho thua hoặc quật ngã hết. Võ vật giỏi như Yết Kiêu, người năm mười lăm tuổi đã dám đấu với Đô Trâu bên phủ Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc nổi tiếng vô địch kinh thành để tranh giải, thế nhưng sau mười mấy keo cũng bị Ngũ Lão lừa miếng, tóm gót giật chân, quật ngã, đè nghiến, khóa chặt khiến Yết Kiêu cũng không cựa nổi. Bắn cung thì Nguyễn Địa Lô vốn dân miền rừng trên ải Nội Bàng, là người có thể một lúc bắn rơi năm con chim đang bay trên trời, nhưng khi thi môn vừa phi ngựa vừa bắn vào hồng tâm cũng vẫn bị chậm một nhịp so với Ngũ Lão. Dã Tượng là tay đánh giáo không phải thường thế nhưng xuống đấu với Ngũ Lão cũng chỉ dăm hiệp là đã bị Ngũ Lão đánh cho văng giáo, rồi bị mũi giáo nhọn đã được bịt đầu kề vào yết hầu. Vương ngồi xem cùng các vương tử và quận chúa Anh Nguyên trên đài. Ai cũng tấm tắc khen Phạm Ngũ Lão múa giáo đẹp. Quân sĩ đồng thanh hô tên Ngũ Lão vang rền.
Nhìn chàng trai trẻ tuổi làng Phù Ủng, đất Đường Hào múa võ trên đài, Vương như thấy lại tuổi trẻ của mình. Máu võ tướng tiên phong đánh quân Thát Đát năm nào như sống dậy rừng rực trong người. Vương sai người lấy một cây giáo, cũng bịt đầu nhọn bằng lụa đỏ rồi nhảy lên võ đài nói với Ngũ Lão: “Ta cùng với ngươi tỷ thí vài hiệp để khích lệ tinh thần luyện tập của tướng sĩ.” Phạm Ngũ Lão vòng tay vâng mệnh rồi lùi lại thủ thế. Một màn song đấu diễn ra đẹp mắt chưa từng có trên võ đài Vạn Kiếp. Hai kỳ phùng địch thủ, một trẻ, một trung niên biểu diễn một màn võ giáo chiến đấu… Quân sĩ hò reo ngất trời. Chưa bao giờ họ được chứng kiến tài nghệ tuyệt đỉnh của hai vị tướng quân như thế. Đấu được nửa canh giờ thì Ngũ Lão bị Vương đâm dứ một phát, nhưng nửa chừng Vương thu nhanh giáo, xoay một vòng, quay cán đánh văng cây giáo của Ngũ Lão khỏi tay. Đòn đánh của Vương hơi nặng, khiến cho Ngũ Lão nhăn mặt đau đớn, nhưng vẫn vội quỳ xuống, vòng tay xá chịu thua… Cùng lúc Ngũ Lão bị văng giáo ra thì trên đài vang lên tiếng hét lanh lảnh của quận chúa Anh Nguyên: “Cha làm đau chàng rồi!” Hưng Đạo Vương đỡ Ngũ Lão dậy, hướng về phía con gái yêu cả cười: “Võ tướng luyện tập, có sứt chân tay một chút thì mới hăng. Con mau về phòng ta lấy thuốc xoa cho Ngũ Lão, sáng mai là hết.”
Và cũng chỉ ít lâu sau, Hưng Đạo Vương đã quyết định gả con gái yêu cho Phạm Ngũ Lão, chàng trai con nhà thường dân làng Phù Ủng. Vương vốn là một người cha hiểu con, yêu quý các con. Nghe tiếng thét của Anh Nguyên khi thấy Ngũ Lão bị cha đánh phạm đòn, Vương hiểu rằng con gái mình đã yêu chàng tướng trẻ tài năng nhường nào. Mặc dù lệ triều đình không cho con gái nhà quyền quý lấy con nhà thường dân, nhưng Vương đã vượt qua tất cả để tác thành cho đôi lứa. Phạm Ngũ Lão sau này đã góp công lớn vào chiến thắng chung của Đại Việt trước quân Nguyên Mông. Phạm Ngũ Lão còn nổi tiếng là vị tướng bách chiến bách thắng của triều đình Đông A, ông không hề thua một trận nào trong đời cầm quân của mình.
Chỉ mới cách đây ba năm, trong lần lên ải Nội Bàng, nơi mà Vương dự kiến bọn giặc Nguyên nếu sang xâm chiếm nước ta thế nào cũng đi qua, Vương cần xem xét thật kỹ từng ngọn núi, thế sông để về vẽ địa đồ bày trận thì gặp Nguyễn Địa Lô. Lúc đó, Địa Lô đang là một thiếu niên. Lúc Vương và đoàn tùy tùng của mình đang đứng trên sườn ngọn núi cao nhất vùng quan sát, thì bỗng thấy năm con chim xanh bị tên bắn rơi bồm bộp ngay trước mắt, một thiếu niên khỏe mạnh nhanh nhẹn ở đâu chạy vụt đến nhặt chim. Vương cho giữ lại hỏi han thì mới biết cậu ta người lũng Địa Lô gần đó, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, chuyên nghề săn bắn thú rừng nuôi thân. Năm con chim xanh là do thiếu niên vừa bắn rơi trên trời xuống. Vương lấy làm lạ bèn bảo thiếu niên bắn thử cho Vương xem. Cậu thiếu niên giương cung nhằm đàn chim rừng đang đỗ trên tán cây cổ thụ, bắn liền năm phát, động tác bắn cực nhanh, năm mũi tên xé gió lao đi gần như cùng lúc. Năm con chim rừng bị năm mũi tên xuyên ngang theo nhau rơi xuống gốc cây. Vương khoái trá, vỗ đùi khen: “Quả là kỳ tài! Đúng là trời mang người đến cho ta đây.” Vương bèn mang cậu thiếu niên về Vạn Kiếp. Thiếu niên vốn họ Lý, Vương bèn đổi sang họ Nguyễn và đặt tên là Địa Lô để ghi nhớ quê hương bản quán. Địa Lô được vương nuôi dạy và nhanh chóng trở thành tỳ tướng tâm phúc của Vương. Địa Lô dong dỏng nhanh nhẹn và dai sức, biệt tài cưỡi ngựa bắn cung, chạy cả ngày không biết mệt, chỉ có thay ngựa chứ người không cần nghỉ. Từ khi có Nguyễn Địa Lô về dưới trướng, quân bản bộ của thái ấp Vạn Kiếp có thêm thuật bắn nỏ liên châu, nhiều mũi tên một lúc rất tài tình và hiệu nghiệm. Cùng với môn thuốc kịch độc từ cây rừng được chế ra, tẩm vào các mũi tên, dành riêng cho những trận huyết chiến. Địa Lô còn đảm nhiệm luôn nhiệm vụ cảnh giới bảo vệ từ xa cho Vương và tổ chức đội thám thính, đưa tin. Vương rất tin cậy Địa Lô.
Về Vạn Kiếp trước Nguyễn Địa Lô một năm là Dã Tượng. Trong một lần Vương đi kinh lý theo mệnh vua trên mạn Đà Giang, Vương đi sâu mãi vào gần biên giới Lan Xang, Vương cũng muốn xét kỹ địa hình để xem bọn giặc có thể tấn công vào Đại Việt từ ngả Lan Xang không. Chiều hôm đó, đến một vùng rừng núi sâu thẳm thì Vương gặp một bản người Mán ở sâu biệt lập trong núi. Bản ấy có nghề đặc biệt chuyên săn bắt và nuôi voi rừng. Voi rừng xứ đó được nuôi chẳng khác gì người dưới miền xuôi nuôi trâu cày, chúng ngoan ngoãn nghe theo sự điều khiển của chủ. Vương bỗng nảy ra ý lập một đội voi chiến. Những con voi to lớn, gầm thét vang trời, xông thẳng vào dẫm, cuốn, quật… thật là một vũ khí có sức mạnh uy hiếp tinh thần chiến đấu của kẻ địch. Chú bé Dã Tượng năm đó mười ba tuổi, nhưng chú chỉ cần gọi, vẫy tay là con voi đực to lớn kềnh càng đã đi theo sau lững thững, ngoan ngoãn như con chó nhà. Vương hết sức khoái trá, Ngài thuyết phục dân bản đó bán cho mình những con voi khỏe mạnh nhất và mang theo chú bé Dã Tượng về xuôi. Dã Tượng là chú bé mồ côi, sống trong sự bao bọc của dân bản, nghe Vương rủ về xuôi, lập đội voi chiến đánh giặc chú vô cùng thích thú và vâng ngay. Bản người Mán nằm sâu trên thượng nguồn Đà Giang thành nơi cung cấp voi chiến cho đạo quân của Vương. Dã Tượng sau này trở thành chỉ huy của đội voi chiến lừng danh Đại Việt. Và cậu bé miền sơn cước ấy cũng được Vương bảo bọc, chăm sóc như con đẻ vậy. Vương cũng dạy chữ nghĩa và thập bát ban võ nghệ cho Dã Tượng. Lớn lên Dã Tượng cũng trở thành tỳ tướng thân cận, luôn theo sát bên cạnh Vương trong chiến trận cùng với người bạn thân thiết của mình là Yết Kiêu bảo vệ cho chủ tướng mọi nơi mọi lúc.
Tất cả các tướng sĩ của mình, Vương đều coi như con cháu trong nhà nhưng khi tập luyện thì Vương rất khắt khe.
Những lúc ngoài giờ tập luyện, Vương chăm lo cho mọi người rất chu đáo, từ chỗ ăn chỗ ở cho đến chu cấp cha mẹ già, vợ con ở quê. Vương luôn biết rằng một khi gia đình người lính được yên ấm, được chăm lo đầy đủ trong mọi tình huống có thể xảy ra, thì họ sẽ yên tâm xả thân hết mình vì nước nhà. Thời đó, lệ triều đình, các thân vương hoàng tộc có quân đội riêng. Thân vương nào cũng muốn quân sĩ của mình tinh nhuệ, thỉnh thoảng hai vua lại cho gọi quân bản bộ các nơi về duyệt binh tại kinh thành. Những đội quân đi oai hùng, đội ngũ chỉnh tề làm nức lòng nhân dân và chủ tướng thì hãnh diện. Quân của hương Vạn Kiếp do tám tướng là Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng, Địa Lô, Quốc Nghiễn, Quốc Tảng, Quốc Hiến, Quốc Uất dẫn đầu tám đội thủy, bộ, kỵ, tượng tả hữu tiến ra giữa sân Giảng Võ Đường bày ra thành hình trận đồ bát quái biến ảo liên tục, làm cho hai vua vô cùng hài lòng và các thân vương hết sức nể phục. Các võ tướng mưu thần, các cao thủ trong môn phái Đông A đều rạp người trước trướng của vị chủ tướng đã từng chém đầu không biết bao giặc Thát thời Nguyên Phong năm nào. Kính phục. Hân hoan. Tin tưởng. Những câu chuyện như truyền thuyết về võ công của Đức ông Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lại một dịp được râm ran truyền tụng từ kinh thành Thăng Long về khắp nơi trên đất Đại Việt.
Nhưng người được các công chúa, quận chúa, thiếu nữ con nhà danh gia vọng tộc đất kinh thành Thăng Long chú ý nhất trong những kỳ hội quân luyện binh thời ấy lại là tỳ tướng Yết Kiêu của Hưng Đạo Vương. Viên tỳ tướng trẻ tuổi này được Hưng Đạo Vương thu nạp trong một dịp hết sức tình cờ.
Năm ấy, lộ Hải Đông được mùa to, dân tình mở hội lớn lắm. Vương tiện muốn biết lòng dân ra sao bèn giả trang cùng vài người thân tín về dự hội. Hội nhiều trò vui và không thể thiếu sới vật, mà giải rất to nên có cả Hắc Ngưu, một đô vật mệnh danh vô địch Đại Việt khi ấy, đồ đệ của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc tham gia. Từ sáng đến chiều, Hắc Ngưu đã quật ngã tất cả các đô trong sới, tưởng như sắp chiếm trọn giải thì có cậu thiếu niên chẳng biết ở đâu cứ nằng nặc đòi vào đấu. Quan viên tổ chức hội không cho vì sợ chênh lệch quá, dễ gây ra án mạng. Thấy thiếu niên hăng hái quá, Hắc Ngưu lấy làm động lòng, ra nói nhỏ với quan viên cho cậu vào đấu, mình sẽ nương tay cho vui hội. Trận đấu tưởng chừng chỉ để mua vui diễn ra. Hưng Đạo Vương tò mò cũng đứng xem. Những tưởng chỉ múa may vài ba keo cho xôm trò rồi đô Hắc Ngưu sẽ vật ngửa thằng bé ra để lĩnh giải, vậy mà qua mười bốn keo, Hắc Ngưu to lớn rắn chắc, đen như con trâu mộng vẫn không làm gì nổi cậu thiếu niên mà còn suýt bị cậu ta quật ngã mấy lần. Đến keo thứ mười lăm, trời đã nhá nhem, Hắc Ngưu sốt ruột xông vào thì bị cậu thiếu niên trẻ tuổi luồn qua vai quật cho một miếng gồng chí tử, ngã phơi trắng bụng, thua luôn. Vương đứng xem từ đầu đến cuối thấy yêu quá, bèn sai người gọi đến hỏi han úy lạo rồi đón đi theo mình. Chàng thiếu niên này tên là Yết Kiêu.
Được Vương coi như con đẻ, nuôi nấng truyền dạy đủ các môn võ nghệ, sau này Yết Kiêu trở thành tỳ tướng tâm phúc bảo vệ bên mình cùng với người bạn thân Dã Tượng. Yết Kiêu luôn được Vương giao cầm cờ lệnh trong những lần thao diễn trên Giảng Võ Đường. Một viên võ tướng cao dong dỏng, thân mình tròn lẳn như con cá kình, nhưng cơ bắp vẫn cuồn cuộn nổi lên dưới bộ võ phục, Yết Kiêu cầm lá cờ đại màu đỏ rực, giữa có ba chữ Hưng Đạo Vương màu xanh. Lá cờ ấy nếu bình thường, phải ba bốn quân sĩ mới giữ nổi, thế nhưng trên tay Yết Kiêu chỉ như là một lá cờ lệnh nhỏ bé của quân truyền tin mà thôi. Yết Kiêu nhẹ nhàng phất, múa, quay cờ chỉ hướng cho quân lùi tiến, đóng mở trận theo lệnh của Vương. Tập trận hăng say cả buổi mà khuôn mặt Yết Kiêu không biểu lộ một chút gì mệt mỏi. Thi thoảng những lúc giải lao giữa trận, quân bản bộ của các vương hầu cũng hay thách vật nhau cho vui. Mỗi đạo quân cử ra một viên tướng đại diện vào sới. Đạo quân của hương Vạn Kiếp luôn là Yết Kiêu. Khi Yết Kiêu cởi võ phục, đóng trên mình chỉ một chiếc khố múa tay se đài, thì các tiểu thư cành vàng lá ngọc theo cha anh đến xem tập trận đều nín thở, vì thấy thân hình Yết Kiêu quá đẹp. Một thân thể trai trẻ sung sức hoàn mỹ. Nước da Yết Kiêu vốn trắng hồng như thiếu nữ đương thì, mặc cho có bơi lội cả ngày dưới sông hay cởi trần luyện võ trên thao trường nóng bỏng, nước da vẫn không hề thay đổi. Khi Yết Kiêu lên sới, gồng thân mình lên để chuẩn bị vào cuộc đấu, thân thể rắn chắc như được tạc bằng đồng đỏ với những múi cơ cuồn cuộn khắp vai, tay, ngực, bụng... không có một chút mỡ thừa nào. Cặp chân và cánh tay dài như được làm bằng những cuộn chão neo thuyền đi bể. Những bước di chuyển trên sới vật của Yết Kiêu làm người ta tưởng các vũ nữ Chiêm Thành đang múa, lúc đó dường như những cuộn cơ trên thân hình Yết Kiêu chuyển động như những làn sóng. Nhìn từ xa cứ như có những con giao long thần thoại đang quấn quanh người chàng. Không có viên tướng nào từ các đạo quân bản bộ cho đến đội quân Thánh Dực trong triều chịu nổi ba hiệp của Yết Kiêu. Tất cả nhanh chóng bị tỳ tướng trẻ tuổi của Hưng Đạo Vương vật cho ngã ngửa trong tiếng hò reo như sấm dậy của toàn quân. Còn Yết Kiêu thì mỉm cười bình thản kéo tay đối thủ đứng dậy... Nhưng cái điều thu hút nhất các nàng giai nhân đất kinh thành đến xem luyện binh không phải là tài võ vật và thân hình tròn chắc của Yết Kiêu, mà chính là khuôn mặt đẹp đẽ của chàng võ tướng trẻ trung tài năng. Yết Kiêu tuy là võ tướng nhưng lại có khuôn mặt trái xoan thanh tú như thư sinh sáng láng, anh tú với cặp môi đỏ rực. Mắt to mũi cao. Tài năng và đẹp giai. Tất cả mỹ nhân đất Thăng Long thủa ấy đều xuýt xoa khi nhìn thấy chàng và thầm mong ước được lọt vào mắt xanh của Yết Kiêu. Các phu nhân thì thầm nhắc lại với nhau rằng, người tài trai mà đẹp dường ấy trên đất kinh thành xưa nay mới chỉ thấy có Đức ông Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn thời trẻ và nay là tỳ tướng của Ngài là Yết Kiêu. Hưng Đạo Vương rất khó lòng, phải từ chối rất nhiều đám con nhà danh giá đánh tiếng với ông về mối nhân duyên của con gái họ với viên tỳ tướng trẻ tuổi. Bởi họ biết Yết Kiêu vẫn coi Vương như cha đẻ của mình, nhưng họ không biết là Vương cũng đã nhiều lần muốn tác thành gia thất cho Yết Kiêu đều không được. Viên tỳ tướng thân tín khăng khăng từ chối mọi mối nhân duyên.
Một hôm, Yết Kiêu nói với Vương: “Con cảm ơn tấm lòng của Vương. Nhưng con xin Vương cho con được sống theo ý mình. Với con, cuộc đời được theo hầu Ngài, kính Ngài như cha, được Ngài dạy bảo mọi điều, sau này ngõ hầu có thể lập công với đời, lưu danh trong sử sách là con mãn nguyện lắm rồi. Con không cần gia đình riêng nữa. Con có Vương, chính là gia đình của mình rồi. Với con thế là đủ.” Vương cũng không biết nói sao nữa. Tuệ Trung Thượng Sĩ anh Ngài cũng chọn cuộc đời tu ẩn trên núi từ trẻ. Ngài cũng không màng đến gia thất và ngài cũng từng bảo Vương: “Biết đủ là đủ.” Thế nhưng người đời thì thường không biết hết những uẩn khúc nhân tình sâu sắc bên trong. Yết Kiêu võ nghệ siêu quần, bơi lội dưới nước như đi trên cạn. Đẹp đẽ như thanh tiên đồng tử giáng thế. Thế nhưng, viên võ tướng trẻ tuổi tài danh ấy lại hoàn toàn không để ý gì đến những bóng hồng của nước Đại Việt đang hướng ánh mắt chờ đợi, săn đón chàng. Không những giai nhân nước Việt mê Yết Kiêu, mà rồi sau này, đến cả nàng Ngọc Hoa công chúa thiên triều Nguyên cũng lại phải lòng viên tướng thủy quân lừng danh của Đại Việt…
Ấy là năm Trùng Hưng thứ 5 (1289). Lúc đó, binh đao hai nước vừa dứt.
Triều đình cử Đỗ Thiên Hư làm chánh sứ theo đường bể sang Nguyên khôi phục lại mối giao hảo mong chấm dứt hẳn nạn chiến chinh. Yết Kiêu được cử theo làm phó sứ, bảo vệ cho đoàn ta đi đường đến Yên Kinh, có ý sợ bọn quan quân nhà Nguyên mới thua trận làm càn chăng…
Đến Yên Kinh, sứ đoàn vào cung yết kiến vua Nguyên. Công chúa Ngọc Hoa nhà Nguyên nhìn thấy võ tướng Yết Kiêu lừng danh chiến trận, đẹp đẽ sáng láng, khí phách ngời ngời, nàng ta mê quá, một hai đòi vua cha gả mình cho Yết Kiêu. Vốn là con gái của gia tộc Thiết Mộc Chân đời đời sinh sống trên mình ngựa, nàng công chúa xinh đẹp tuyệt sắc nhưng cũng rất mạnh mẽ, cá tính. Ngọc Hoa đến thẳng nơi ở của sứ bộ gặp Yết Kiêu mà nói: “Thiếp đã nghe danh tiếng của tướng quân vang lừng đến tận Trung Nguyên bấy lâu. Nay được gặp mặt, quả đúng như lời đồn. Thiếp cũng biết tướng quân chưa có người nâng khăn sửa túi, vậy thiếp xin tình nguyện theo chàng về nước Nam, làm người hầu hạ cho tướng quân. Xin tướng quân chớ phụ lòng thiếp!” Yết Kiêu không biết nói thế nào. Bình thường thì đây là một ân sủng của hoàng đế nhà Nguyên, ai cũng mong được hưởng. Mà Ngọc Hoa công chúa nổi tiếng xinh đẹp, tài giỏi, trẻ trung, lại đã hạ mình xuống cầu hôn trước.
Yết Kiêu đành nói với nàng: “Ta vô cùng cảm kích khi được công chúa yêu mến. Nhưng ta mồ côi từ nhỏ, ở với Đức ông Hưng Đạo Vương, được nuôi dạy nên người, công lao Đức ông còn hơn cả cha mẹ ta. Mọi việc từ nhỏ đến lớn xưa nay ta đều trình ý Đức ông rồi mới quyết. Vậy công chúa để ta về nước Nam, trình báo với Đức ông rồi sang rước công chúa sau cũng chưa muộn.”
Yết Kiêu cũng định chỉ nói thế để kéo dài thời gian ra rồi tìm cớ thoái thác. Yết Kiêu về nước trình với Hưng Đạo Vương tìm kế giải quyết sao cho vẹn toàn. Vương bèn cho người sang bên Nguyên phao tin là Yết Kiêu về đến nước thì đã ốm chết.
Thế nhưng không ngờ, nàng Ngọc Hoa công chúa vì quá mê Yết Kiêu, không đợi được, đã xin vua cha cho đoàn tùy tùng đưa mình sang Đại Việt. Đến Quảng Đông, nghe tin Yết Kiêu mất. Nàng Ngọc Hoa khóc lóc thảm thiết, rồi sai người lập đàn thờ cúng ngoài bãi bể suốt ngày đêm. Đến ngày thứ bảy, nàng khấn: “Ở trên đời này thiếp đã không được kết duyên cùng chàng. Vậy thiếp xin theo chàng xuống âm phủ để được gần nhau.” Nói rồi nàng gieo mình xuống bể…
Nhưng đó là chuyện sau này, khi chiến trận đã kết thúc. Còn bấy giờ Yết Kiêu cùng tứ vương tử và các gia tướng quân bản bộ Vạn Kiếp ngày đêm thao luyện quân sĩ, rèn tập võ nghệ. Họ đều biết một trận chiến vô cùng ác liệt đang đón chờ phía trước.