← Quay lại trang sách

Chương 5 HƯNG ĐẠO VƯƠNG MƯU TÍNH VIỆC NHƯ THẦN

Hay Bát Quái Cửu Cung Đồ sẵn bày chờ đánh giặc

Năm Thiệu Bảo thứ 4 (1282).

Những tin tức từ bên kia biên giới đưa về đại bản doanh của Hưng Đạo Vương tại Vạn Kiếp ngày càng dồn dập, nóng bỏng hơn.

Hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt, sau khi bị ta từ chối không cho mượn đường, không cung cấp lương thảo để đi đánh Chiêm Thành, bèn ra lệnh cho viên mãnh tướng Toa Đô dẫn hai mươi vạn quân, vượt bể đánh thẳng vào thành Đồ Bàn, kinh đô nước Chiêm. Đồng thời, y cũng xuống chiếu phong con trai thứ chín là Thoát Hoan làm Trấn Nam Vương, chuẩn bị binh lực tấn công Đại Việt. Ý đồ bao vây tấn công nước ta từ hai phía đã rõ ràng. Hốt Tất Liệt còn sai hàng loạt các tướng tài đã chinh chiến khắp nơi về giúp Thoát Hoan, quyết bình định nước Đại Việt. A Lý Hải Nha, viên tướng mưu lược dày dạn chiến trường được cử làm phó. Ô Mã Nhi, tướng thủy quân số một của Nguyên Mông cầm đội chiến thuyền. Hốt Tất Liệt biết quân Trần sở trường đánh thủy, y cho Ô Mã Nhi cầm đội chiến thuyền hùng mạnh sang với ý đồ rõ ràng là sẽ đánh gục lực lượng chủ lực chiến lược của quân ta. Một danh sách dài tên các viên tướng trong đội quân chuẩn bị đánh xuống Đại Việt cũng được chuyển tới Vương: Lý Hằng, Lý Quán, Lưu Thế Anh, Nghê Thuận, Khoan Triệt, Sát Tháp Nhi Đài… cùng năm mươi vạn quân sĩ, dưới sự chỉ huy của một hoàng tử trẻ đang khao khát lập công. Hốt Tất Liệt chắc mẩm phen này sẽ làm cỏ quân dân Đại Việt.

Gọng kìm từ hai phía Bắc - Nam đang hình thành để siết vào Đại Việt.

Ô Mã Nhi hùng hổ tuyên bố sẽ bắt sống vua quan nhà Trần đem về Yên Kinh trị tội. Nhìn đội chiến thuyền mới đóng thao diễn trên bể Bắc Hải, y khoan khoái xoa tay nói với Thoát Hoan: “Phen này thì chúng nó chạy trời không khỏi nắng! Nó lên trời ta sẽ theo lên. Nó xuống âm phủ ta cũng lao xuống. Bằng mọi giá ta sẽ bắt chúng về trị tội, trả mối nhục năm xưa.” Phó tướng A Lý Hải Nha đứng bên cạnh bèn nói: “Xin tướng quân đừng quá chủ quan. Bên đó có Trần Quốc Tuấn là một tay kiệt hiệt. Trận chiến năm Đinh Tỵ, mấy dũng sĩ của ta đã bị hắn chém đầu, đại tướng quân Ngột Lương Hợp Đài của ta suýt mất mạng dưới tay Trần Quốc Tuấn đó. Muốn phá đại quân Trần, trước hết phải đánh tan quân Vạn Kiếp, bắt giết được Quốc Tuấn thì mới thành chuyện lớn được.”

“Kha kha kha…”

Ô Mã Nhi vuốt chòm râu đen nhánh cười to:

“Ta sẽ bắt sống Trần Quốc Tuấn đem về dưới trướng trình hoàng tử và Ngài. Xin phó tướng hãy đợi!

—★—

Được triều đình giao cho đặc trách trông coi trấn thủ Kinh Bắc, Lạng Giang và Hải Đông, Quảng Yên, nơi có những con đường thủy bộ huyết mạch từ biên giới đổ về kinh thành Thăng Long. Nơi này, mọi đạo quân xâm chiếm nước ta từ xưa đến nay đều đã từng đi qua, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn hiểu trách nhiệm của mình. Vương đã chủ động tổ chức một mạng lưới đưa tin sang đến tận Yên Kinh, cho nên mọi động tĩnh của Hốt Tất Liệt đều được đưa về nước.

Rất nhiều tin bất lợi.

Năm mươi vạn quân Nguyên đã được tập hợp, đang tích cực thao diễn chuẩn bị tiến về phương Nam. Lương thảo đang được huy động. Năm trăm chiến thuyền đã được đóng mới. Hai mươi vạn quân Toa Đô đã đổ bộ lên Chiêm Thành đang tấn công dữ dội thành Đồ Bàn…

Lòng dân Đại Việt xao xác. Các vương hầu nhiều người bàn ra tán vào. Hưng Đạo Vương nhiều đêm mất ngủ. Phu nhân Thiên Thành nhìn thấy đèn trong thư phòng Vương sáng suốt đêm, khe khẽ thở dài, phu nhân thương Vương, hai vai chồng chất gánh nặng sơn hà xã tắc. Dịp này Vương còn ít cả để ý đến chuyện gối chăn khiến Thiên Thành suy nghĩ, hay là do mình bây giờ luống tuổi, con nhiều, nhan sắc tàn phai nên Vương không để ý đến nữa. Vương ngoài năm mươi tuổi nhưng sức lực dồi dào, cây thần giáo Pháp Lôi, Ngài vẫn múa mỗi sớm mai trong tay nhẹ như thanh trúc. Phu nhân Thiên Thành gần năm mươi tuổi, cái khí chất đàn bà trong người đang giảm nhiều, sắp về chiều tắt bóng. Phu nhân vốn xuất thân là công chúa trong triều, phu nhân hiểu rằng chuyện đàn ông năm thê bảy thiếp là chuyện tất nhiên. Vua cha nàng có cả tam cung lục viện với hàng trăm phi tần kia. Thế nhưng chồng nàng kể từ khi lấy nhau đến giờ cũng chỉ có một phu nhân. Lâu lắm rồi, có nghe phong thanh là Vương định lập thêm thiếp, người trên Kinh Bắc, nhưng rồi cũng không thấy Vương nói gì nên phu nhân cũng không hỏi. Với phu nhân, chuyện ấy nếu có xảy ra, thì nàng cũng vui vẻ chấp nhận cho Vương có thêm người nâng khăn sửa túi. Thế mà người ấy yểu mệnh, nhưng cũng kịp để lại cho Vương thêm đứa con trai. Nghe nói quan Thượng Thư Bộ Hộ Trần Hưng Hồng chính là đứa con riêng của Vương với người con gái trên Kinh Bắc. Thiên Thành khi mới biết chuyện thì trong sâu thẳm lòng của người đàn bà cũng có chút gì đó khó nói ra. Và rồi sau này khi thấy Vương vẫn nặng lòng với mình, lại thấy gia đình trên Kinh Bắc một lòng hướng về Vạn Kiếp, mà sản nghiệp trên đó rất to lớn, sinh sôi nảy nở, bao nhiêu hoa lợi đều dành đưa về dưới này để Vương lo việc quân, phu nhân cũng thấy đẹp lòng, có lúc còn chạnh thương người đã khuất. Thiên Thành phu nhân thấy Vương ngày đêm lo lắng việc quân chả để ý gì đến hưởng thụ tửu sắc như các vương hầu khác bèn ướm lời: “Thiếp thấy phu quân ngày đêm vất vả lo việc nước. Mà thiếp thì bận con cái, rồi cai quản mọi việc trong thái ấp, nhiều khi cũng không chăm sóc phu quân đầy đủ được. Hay là phu quân để thiếp tuyển nạp thêm vài nàng hầu trẻ, để có người bầu bạn, hầu hạ chăm nom cho người được thư thái mà lo việc triều đình?” Vương cả cười, cầm tay Thiên Thành nói: “Cám ơn ý tốt của phu nhân, nhưng giang sơn nước Đại Việt ta đang bị cường địch hung bạo nhòm ngó. Xã tắc tổ tông đang bị đe dọa san phẳng. Muôn dân sắp làm mồi cho đàn thú dữ. Ta không còn lòng nào nghĩ đến việc vui thú bản thân. Vả lại với ta, ta có nàng là đủ rồi. Ta không còn nghĩ đến ai khác.”

Đúng là kể từ khi nàng Quế Lan mất, Vương không còn nghĩ đến người đàn bà nào khác nữa.

Nhưng có một điều mà mấy năm nay những lúc thức khuya đọc sách một mình Vương hay chạnh nghĩ tới. Đó là lời cha dặn lúc lâm chung. Trước đây tuổi trẻ hăng hái, Vương dẫn quân xông ra trận tiền chém tướng giặc lập công, về triều được quan quân ca tụng, nhà vua ban thưởng. Về nhà nghỉ ngơi lại đọc sách, thao luyện võ nghệ. Rồi vợ đẹp con khôn, kẻ hầu người hạ đầy nhà, bổng lộc phú quý cũng không ai bằng, triều đình tin tưởng giao cho trấn thủ, cai quản cả vùng rộng lớn phía đông và phía bắc kinh thành. Tuy Vương vẫn nhớ lời cha dặn, nhưng Vương cũng không suy xét sâu về những lời đó. Vả lại lúc còn sống, Đức ông Trần Thủ Độ và nhà vua, cũng là bố vợ Vương đã hơn một lần nói thẳng thắn với Vương những khúc mắc trong nội tình chuyện đó rồi. Vương nghĩ rằng cuộc đời cha mình cũng có những điều uất ức không thỏa nên lúc sắp ra đi phải thốt ra cho nhẹ gánh ưu phiền trần thế để thăng về miền cực lạc. Nhưng xét cho cùng, cha mình thế cũng là đã được Quan Gia hết lòng ưu ái. Em làm vua thì phong anh là Hiển Hoàng. Mắc lỗi lớn ở cung Lệ Thiên thì vua em cũng xí xóa, coi chỉ như trò vui, lại còn đổi tên cung đó thành Thưởng Xuân làm cho người cả nước cười thầm, nhưng lại cũng thấy cái tình anh em họ tha thiết với nhau thế nào. Đến lúc nổi loạn trên sông Cái thất bại, thì rồi Quan Gia vẫn xót thương bao bọc. Ngôi vương là mệnh trời giao cho nhạc phụ của Vương, không trao cho cha đẻ Vương thì biết làm sao. Lỗi tại ông trời sao? Chống lại mệnh trời sao? Thuận thiên, đó chính là phép đầu tiên mà người chính nhân quân tử phải thấu, một khi đã sống trong trời đất. Nhạc phụ Quan Gia của Vương đã từng coi cái ngai vàng như mớ giẻ rách mà vất đi, bỏ lên núi Yên Tử ở nhưng đâu có tránh được mệnh trời. Mệnh của Quan Gia nhạc phụ là đứng đầu trăm họ, giữ ngôi cao cho giang sơn Đại Việt, bách tính nhân gian được yên nghiệp làm ăn sinh sống. Vương cũng đọc cả hàng ngàn trang sách của các bậc tiên hiền xưa nay nói về mọi lẽ trong trời đất và đạo quân thần rồi nhưng Vương vốn vẫn cho là trí giả dù có đọc ngàn vạn cuốn sách hay thì cũng chưa nói nên điều gì. Cái quan trọng của bậc trí giả là đọc sách nhưng phải biết bình xét những lẽ hay dở ở trong cuốn sách và những lẽ đó có giúp ích gì cho đời này. Đọc sách rồi nhất nhất theo lời người xưa bất kể lời đó có còn đúng hay không trong thời buổi hôm nay không thì chỉ là những kẻ ngu trung. Những kẻ đó nhiều khi còn là tai họa của giang sơn xã tắc… Về điều này, Vương thấy tâm đắc vô cùng với những gì ông đồ Dương Đức Tụng viết trong thiên thứ hai của cuốn sách:

Phàm những kẻ trí giả ở đời khi đã đọc sách của các bậc tiên hiền thì đều muốn hiểu hết cả những cái lẽ ý tại ngôn ngoại của người xưa. Nhiều bậc cao minh từng dạy: Được nước thì mất nhà. Được nhà thì mất nước. Phàm đã là những kẻ đại trượng phu, ai là người không muốn nhảy ra giữa đất trời tranh đoạt cùng thiên hạ để chiếm ngôi chúa tể? Nhưng sự đời muốn được cái lớn thì phải hy sinh cái nhỏ. Muốn nên đại nghiệp thì cần phải biết bỏ qua những thói nữ nhi thường tình. Sử sách bên Tàu từ đời Tần Hán đến nay chẳng đã chép ghi rất nhiều, Đại Việt ta, kể từ khi nhà Đinh mở nghiệp đế đến nay cũng có khối điều để nói. Nhiều anh hùng và cũng không ít kẻ tiện nhân. Thế nhưng lưu tiếng thơm trong sử sách, bất hủ với trời xanh thì thật là ít ỏi thay. Phần nhiều chỉ là những kẻ tầm thường, cũng chỉ nhăm nhăm chiếm được ngôi cao tột đỉnh rồi thì vội hưởng vinh hoa phú quý, gái đẹp rượu ngon. Rồi đắm chìm trong dục lạc mê muội, làm những điều trái đạo, sử sách đời sau lại ngàn đời nguyền rủa. Như vậy ngồi ngôi cao phỏng để làm gì. Nước ta thật ít những bậc đại trượng phu anh hùng cái thế, lấy nước lấy dân làm trọng, coi vinh hoa phú quý chỉ là mộng phù vân, dám dẹp hết những cái thường tình để xây nghiệp trường tồn mãi trong lòng dân. Được lòng dân nước muôn đời, ấy mới là được cái nghĩa lớn bao trùm vũ trụ, bất hủ giữa trời xanh. Đó là cái đạo của bậc chính nhân nên theo. Bởi có dân mới có nước. Quân vương hung bạo có cưỡng chiếm được ngôi cao, dân sợ nhưng chăng ai thờ. Dân chỉ phụng thờ những bậc thánh nhân, an dân hộ quốc, công tích để đến muôn đời.

Vương thở một hơi nhẹ, lấy miếng ngọc thiên thanh hình chiếc lá dâu đặt lại vào trang sách đọc dở. Cầm miếng ngọc xanh mướt mát, giữa khảm chữ Trần bằng vàng óng ánh, Vương lại nhớ tới nàng Quế Lan da diết. Đã mấy chục năm âm dương cách biệt, đứa con chung của Vương và nàng nay đã trưởng thành, đã làm quan to trong triều. Thông thường đỗ tiến sĩ trẻ tuổi như vậy thì triều đình cũng chỉ bổ làm một chức quan nhỏ, rồi sau đó xem có tài không, mới thăng dần, thế nhưng Thái Thượng Hoàng, Quan Gia đều biết đó là dòng dõi của Vương nên đã lập tức bổ nhiệm Hộ Bộ Thượng Thư cho Trần Hưng Hồng. Hai vua đều hy vọng Hưng Hồng giống cha, sẽ giúp cho triều đình trong việc kinh bang tế thế. Trần Hưng Hồng đã không phụ lòng hai vua, không phụ lòng Vương. Bộ Hộ đang giúp được dân nhiều việc. Từ việc canh nông cho đến mở rộng thương nghiệp, tích trữ tài lực cho triều đình, chuẩn bị mọi thứ cho cuộc chiến ác liệt sắp tới.

Mỗi lần về kinh hội họp, đi qua sông Thiên Đức, bến Hồng Hạc, khi Trần Hưng Hồng còn bé, Vương đều vào nghỉ lại với con một đêm. Vương tranh thủ những lúc như thế để truyền dạy cho con cái hào khí của dòng họ Đông A, chí làm trai quyết nên nghiệp lớn. Sau này khi đã đỗ đạt, làm quan trong triều rồi, mỗi lần lai kinh, Vương đều cho gọi Trần Hưng Hồng tới phủ riêng ở phía tây cung vua để cha con gặp gỡ nói chuyện.

Vương dặn Trần Hưng Hồng:

“Bọn giặc Mông Thát đánh sang Đại Việt là điều không thể tránh được. Lũ khát máu ấy vẫn thù ta trận thua năm Đinh Tỵ. Ta không sợ gì chúng, nhưng chúng đông quân, thiện chiến nên không thể đánh một trận mà xong. Phải kéo dài trận chiến ra, để tìm cách tiêu hao lực lượng của chúng, làm cho chúng mệt mỏi rồi mới diệt được. Con ta theo địa đồ cha đã vẽ đây, bí mật tìm hang động trong rừng, chỗ nào không có thì xây hầm cất giấu sẵn lương thực vũ khí, cử người canh giữ. Khi nào quân ta thất lợi, rút về là có sẵn lương ăn. Ta sẽ thực hiện kế thanh dã, vườn không nhà trống cả nước. Bọn Mông Thát sang đây lâu, không tìm được lương ăn thì sẽ suy sụp tinh thần, tan khí lực. Trong khi quân ta được nghỉ ngơi ăn uống đầy đủ, xông ra đánh thì lúc ấy chúng có chạy đằng trời.

“Vâng thưa phụ thân, con sẽ cho thực hiện ngay ý người.”

“Còn điều này nữa, con phải huy động nhiều tài lực, khai các mỏ sắt trên thượng du, thiếu thì cho thuyền buôn ra nước ngoài mua, về giao cho Bộ Công để đúc hỏa pháo, chế thuốc súng, rèn gươm giáo, câu liêm, mũi tên sắt, chông sắt. Đánh bọn này chỉ có hào khí thôi không đủ mà còn phải có vũ khí sắc bén và võ nghệ cao cường mới trị được chúng.”

“Dạ vâng, điều này thì phụ thân yên tâm, con và Công Bộ Thượng Thư Nguyễn Hiền đang cùng nhau làm theo đúng ý chỉ của hai vua và lời cha dạy rồi ạ.”

Vương vuốt râu mỉm cười mãn nguyện. Các con đều đã trưởng thành, tướng sĩ đang hăng say luyện tập, chỉ mong có dịp lập công. Tất cả đều tin tưởng vào tài thao lược của Vương. Quân dân cả nước Đại Việt đều tin rằng có một vị thiên tướng nhà trời là Đức ông Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn xuống giúp thì không có kẻ thù nào đánh bại được họ.

Lên kinh bàn bạc việc nước với hai vua và triều đình xong, Vương về ngay Vạn Kiếp. Vương đang muốn nhanh chóng lập kế sách bình Nguyên cho quân dân cả nước yên lòng. Mở cửa sổ thư phòng, Vương định ngồi xuống bàn viết, bỗng một mùi thơm thanh khiết, nồng nàn tràn vào sực nức. Mùi hương thơm quen thuộc với Vương từ bao năm nay, kể từ mùa xuân năm nào… Vương hơi bàng hoàng, nhìn ra ngoài cửa sổ, bên thân cây muỗm già, giò Quế Lan Hương đang mãn khai, khoe sắc dưới nắng vàng rực rỡ. Vương đứng lặng người bên song đăm đắm ngắm nhìn. Từ những kẽ lá của giò lan, những nhành hoa đang buông dài xuống như một chuỗi ngọc. Vẫn một màu trắng tinh khôi và điểm chút tím huyễn hoặc trên đầu cánh. Dưới ánh của nắng tháng Năm đã được lọc qua tán đồ sộ của cây muỗm, những chuỗi hoa lung linh sáng rỡ. Cả giò Quế Lan Hương rực sáng, cả khu vườn của thái ấp dường như cũng bừng lên, lung linh. Đã bao năm nay Vương chỉ ngắm và tưới tắm duy nhất cho giò hoa này. Cả khu vườn thái ấp Vạn Kiếp có cả trăm loài kỳ hoa dị thảo, do gia nô hàng ngày tưới tắm chăm sóc. Chỉ có giò Quế Lan Hương bên cạnh thư phòng Vương là biệt lệ, tự tay Vương chăm sóc. Mỗi khi ngắm hoa, nỗi nhớ về người con gái Kinh Bắc năm xưa lại cồn lên trong Vương. Có lúc Vương đã từng nghĩ việc gặp gỡ người con gái ấy như là một giấc mộng liêu trai. Thế nhưng sự hiện diện của giò Quế Lan Hương, của đứa con trai tài giỏi mà khuôn mặt nó, mỗi lần gặp, Vương vẫn trìu mến ngắm nhìn và lại da diết nhớ nàng. Khuôn mặt chàng trai, quan Thượng Thư Bộ Hộ triều đình vừa có những nét mạnh mẽ cương nghị của cha vừa có cả những nét đẹp tươi sáng rỡ của mẹ, một người con gái đẹp nức tiếng vùng bờ nam sông Thiên Đức năm xưa…

Hít một hơi dài cho căng lồng ngực vạm vỡ, Vương cảm thấy khoan khoái và phấn chấn lạ thường. Giang sơn đất nước gấm hoa đẹp đẽ này không thể để cho quân thù tàn phá. Con dân hiền lành trung hậu của Đại Việt không thể để cho lũ giặc hung tàn chém giết.

Vương ngồi xuống bàn, cầm bút viết lên trang giấy dó:

Kế bình Nguyên: BÁT QUÁI CỬU CUNG ĐỒ

Nước Nam ta là một dải non sông có đủ núi cao vực sâu bể rộng rừng thẳm. Nếu biết cách bày đặt thì khi chiến trận xảy ra sẽ vô cùng thuận lợi cho việc phá thế kẻ cừu thù. Ta đã dành mấy mươi năm đi du xét khảo cứu các nơi. Lại đọc kỹ sách của người xưa, của các bậc danh sĩ trong thiên hạ đương thời. Ta viết ra kế sách này kèm theo địa đồ bày trận từng nơi, tiến thoái ra sao từng lúc để chuẩn bị đối phó với lũ giặc Mông Thát hung tàn. Tướng sĩ cả nước ngày chăm lo luyện tập võ nghệ, tối chong đèn đọc thuộc kế này, đồng lòng nghe lời ta dạy thì bọn chúng dẫu có trăm vạn hùng binh sang đây cũng chỉ có bại vong...

—★—

Cuối tháng Mười một năm Thiệu Bảo thứ 4 (1282).

Tại bến Bình Than trên bờ sông Thiên Đức, cách Vạn Kiếp không xa, vua quan nhà Trần họp bàn kế đánh lại quân Nguyên Mông.

Hội nghị quân sự quan trọng này chỉ gồm các vương hầu và đang trấn thủ những vùng hiểm yếu của đất nước.

Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản năm ấy mới mười lăm, nhà ở Võ Giàng bên sông Thiên Đức, nghe tin bèn chèo thuyền tới bến, đòi vào dự họp. Quân cấm vệ không cho. Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông nghe thấy ồn ào bèn ra ngoài nhìn. Thấy Quốc Toản, Thái Thượng Hoàng vẫy đến gần bảo: “Cháu ta còn nhỏ, chưa được phép tham dự bàn việc nước. Cháu hãy về luyện tập võ nghệ, học tập binh pháp, tới tuổi trưởng thành sẽ có ích cho nước nhà.” Đoạn Thái Thượng Hoàng ban cho Quốc Toản một quả cam rồi vỗ vai bảo lui. Trần Quốc Toản đứng trên bờ sông, nhìn các vương hầu tôn thất đang bàn việc nước trong thuyền ngự, giận mình, nghiến răng bóp nát quả cam lúc nào không biết. Quốc Toản nhảy lên thuyền, căng hết sức trẻ, chèo như xé gió băng ngang sông Thiên Đức về quê, tự mưu làm việc nước…

Tại cuộc họp đó, phái chủ chiến trong vương triều đã áp đảo hoàn toàn phái chủ hòa.

Nhà vua trẻ Trần Nhân Tông trang trọng bê ấn Quốc

Công Tiết Chế trao cho Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn:

“Thời Nguyên Phong đức Thế Tổ Trần Thái Tông và Thượng Phụ Trần Thủ Độ đã trao kiếm Hộ Quốc cho Ngài. Nay thay mặt vương triều, thay mặt dòng họ Đông A, thay mặt cho con dân cả nước Đại Việt, ta trao ấn Quốc Công Tiết Chế cho Ngài. Việc mưu tính đánh kẻ địch hung tàn đang lăm le bờ cõi nước ta tất cả trông cậy ở Ngài. Vương triều này, non sông này có còn hay không là ở Ngài.”

Hưng Đạo Vương quỳ xuống nhận ấn từ tay Đức vua Trần Nhân Tông. Nhà vua đỡ Hưng Đạo Vương đứng dậy, đoạn quay ra phía các vương hầu dự họp cất giọng sang sảng:

“Hỡi các vương hầu, các chư khanh. Vận mệnh nước nhà đang như trứng treo đầu đẳng. Hôm nay quân thần ta hội họp tại đây đã đồng lòng quyết tâm đánh giặc và cử ra người tài trí thống lĩnh ba quân. Ta đã trao ấn tín Quốc Công Tiết Chế cho Đức ngài Hưng Đạo Vương. Từ thời khắc này trở đi, việc quân trong nước nhất nhất theo sự điều động của Quốc Công. Kẻ nào dám trái mệnh lập tức chém đầu không tha.”

Tất cả các vương hầu dự họp quỳ xuống, đồng thanh hô lớn:

“Thái Thượng Hoàng anh minh. Quan Gia anh minh. Vạn tuế! Vạn vạn tuế!”

Cũng tại hội nghị này, Hưng Đạo Vương đã trao cho hai vua và tất cả các vương hầu dự họp mỗi người một bản BÁT QUÁI CỬU CUNG ĐỒ, rồi Ngài bình giảng ngay tại chỗ để cho mọi người cùng hiểu ý đồ bày trận. Các vua, các vương hầu dòng họ Đông A vốn nổi tiếng về đánh dẹp, nhưng sau khi được nghe Hưng Đạo Vương trình bày, chú giải cặn kẽ mọi lẽ trong kế sách của Ngài thì tất cả đều quỳ sụp xuống vái, mà đồng thanh rằng: “Thật là một kế sách vẹn toàn, một thế trận thiên la địa võng. Kẻ địch có mạnh đến đâu lọt vào cũng chỉ có một đường là bại vong. Quả là Đức ông Quốc Công do trời cử xuống phò tá cho nước Nam ta vậy.”

Cũng tại hội nghị này, Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã xin hai vua phục chức cho Thiên tử nghĩa nam Trần Khánh Dư, giao cho làm phó đô tướng, đặc trách thủy quân. Ngài nói: “Trần Khánh Dư trước kia có lỗi nhưng đó chỉ là lỗi của người trong nhà với nhau.

Nay đất nước lâm nguy, mọi lỗi lầm hiềm khích nội tộc phải bỏ đi hết, hãy tập trung sức lực vào mà chống giặc mạnh giữ lấy nước. Có giữ được nước thì mới còn nhà. Nước mất thì nhà tan, vợ con bị bắt đi làm tỳ thiếp cho người ta, thân làm trai nhìn cảnh ấy phỏng có vui thú gì? Đánh tan giặc mạnh, đất nước thanh bình thịnh trị, trăm họ yên nghiệp, thì vua tôi quân thần ta thiếu gì lúc vui vẻ đàn xướng hát ca cùng nhau.”

Kết thúc hội nghị Bình Than, dự yến vua ban xong, Hưng Đạo Vương đến bên Thượng Tướng Thái Sư Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, cầm tay nói: “Chả mấy khi đệ về đến vùng này. Ta mời đệ sang thuyền ta, huynh đệ ta cùng đi dạo một vòng bến Bình Than, cửa Lục Đầu. Biết đâu cảnh non sông cẩm tú lại gợi hứng cho đệ xuất khẩu thành thi những áng thi văn để đời.” Trần Quang Khải cười: “Quốc Công huynh đã mời thì đệ chỉ có là… tuân lệnh!”

Nhìn hai ông văn quan võ tướng chủ chốt đầu triều sang một thuyền, cùng đứng trên lâu thuyền ngắm cảnh, đàm đạo thân mật, quân sĩ vô cùng cảm kích. Họ biết rằng vương triều đã là một khối kết đoàn. Vua sáng tôi hiền, kẻ địch dù hung tàn đến đâu cũng sẽ bật ra trước khối lòng quân dân vững chãi. Theo những người đi theo hầu hai đức ông dạo chơi trên sông hôm ấy kể lại, Thuyền Quốc Công chở Thái Sư đi dạo một vòng trên Lục Đầu Giang rồi Quốc Công bảo Thái Sư: “Chả mấy khi huynh đệ ta có một buổi nhàn tản thế này. Ta đã sai người nấu nước lá thơm. Ta muốn tự tay dội nước tắm cho đệ để bao nhiêu bụi bặm trôi ra bể cho mát mẻ.” Thái Sư cười vang thuyền chắp tay: “Đệ đội ơn huynh! Đệ chắc là người duy nhất của họ nhà ta được huynh ban cho đặc ân này. Cung kính không bằng tuân lệnh. Đệ xin vâng.”

Trong họ theo vai vế thì Trần Quốc Tuấn là anh, Trần Quang Khải là em. Kể từ ngày xảy ra vụ An Sinh Vương dấy quân làm loạn trên sông Cái rồi bị dẹp, mặc dù anh em trong nhà đã gạt bỏ mọi hiềm khích, Đức Thái Tông vẫn yêu quý thương xót anh mình như xưa. Và sau này ông cũng dành cho Trần Quốc Tuấn mọi đặc ân, không chỉ vì Quốc Tuấn tài năng hơn người mà sâu xa, trong đó có cả một thứ tình gần như là muốn bù đắp cho sự thiệt thòi của người anh. Thế cho nên ngay cả khi Trần Quốc Tuấn mắc lỗi lớn trong vụ cướp cưới công chúa Thiên Thành, thì nhà vua cũng không nỡ trách phạt mà còn vui vẻ tác thành cho đôi lứa. Trong họ nội tộc Đông A, ai cũng hiểu cái mối thâm tình ruột thịt luôn cao hơn tất thảy mọi thứ ngôi vị. Thế nhưng dân gian thì thật khó che miệng cả người tốt lẫn người xấu, người hiểu chuyện lẫn người không hiểu chuyện. Vẫn cứ có râm ran những tiếng đồn về mối bất hòa giữa hai ngành trưởng thứ trong họ. Dân gian nhiều khi vẫn cho là ngôi vua vẫn là cái đích của cuộc tranh giành. Họ đâu có hiểu, đối với nhiều đấng trượng phu của dòng họ Đông A, ngôi chí tôn cả thiên hạ khao khát ấy cũng sẵn sàng bị vất bỏ không thương tiếc. Năm mười chín tuổi, Đức vua Trần Thái Tông đã bỏ ngai vàng vào núi Yên Tử ở đó sao? Ngài đau đớn, chỉ vì ngôi cao mà anh em ruột thịt trong nhà phải tranh giành, xâu xé nhau. Ngài trở lại giữ ngôi vua chỉ vì muốn tránh cho nội tộc một trận tàn sát lẫn nhau, tránh cho muôn dân vô tội rơi vào cảnh nồi da nấu thịt. Nhưng dân gian đâu có hiểu hết lòng người trượng nghĩa, âu cũng là lẽ thường tình. Kẻ tiểu nhân đâu thấu lòng quân tử mà người quân tử thì không phải là kẻ lúc nào cũng giãi lòng mình ra cho thiên hạ biết. Người quân tử chỉ có thể giãi lòng với tri âm tri kỷ, nếu không, chỉ có trời xanh chứng giám cho lòng họ mà thôi.

Hôm ấy, trên thuyền tướng, Quốc Công nấu nước lá thơm tự tay dội tắm rửa cho Thái Sư. Bụi trần ghét bỏ theo nước trôi xuôi. Hiềm khích trưởng thứ nhà Trần đã tan vào dĩ vãng. Tất cả, chỉ còn là giang sơn xã tắc.

Quân dân cả nước Đại Việt hân hoan. Dân chúng cả nước nói, anh em đồng lòng, vua tôi hòa mục làm gì chả nên nghiệp lớn. Trong dân gian,những người lính già đầu bạc, đêm đêm lại kể cho lớp con cháu nghe chuyện ngày xưa theo Đức ông Hưng Đạo Vương đánh nhau với Ngột Lương Hợp Đài. Họ kể về ngọn thần giáo Pháp Lôi của Đức ông bay như một ánh chớp, nổ rền vang như sét đánh, phá vỡ tung tành chiếc xe tướng giặc năm xưa trên biên giới phía bắc. Họ lại cùng nhau hoan ca…

Theo kế sách của Hưng Đạo Vương, khi có giặc sang, toàn dân là lính, cả nước là chiến trường, mỗi thôn xóm đều thực hiện vườn không nhà trống. Giặc tới bất cứ nơi đâu đều có thể bị tấn công. Trai tráng khỏe mạnh ưu tú tập trung vào đội ngũ luyện tập võ nghệ hàng ngày ngay tại quê hương, khi nào có chiến tranh xảy ra lập tức trở về dưới trướng các đạo quân bản bộ của các vương hầu. Những người ở lại lập thành các đội dân binh, tổ chức sơ tán người già, phụ nữ trẻ nhỏ và cất giấu lương thực và đánh du kích vào quân địch. Vũ khí sẽ là hầm chông, cung tên và câu liêm, giáo dài. Kỵ binh giặc bị sụp hầm chông sẽ dùng câu liêm giật cổ, giáo đâm và bắn tên sát thương, sau đó lại nhanh chóng rút ngay theo đường hẻm định sẵn, bảo toàn lực lượng. Đồng thời với cách tuyển binh như vậy, Vương đề nghị nhà vua, các vương hầu, và bản thân mình thực hiện trước, đem ruộng công, ruộng riêng của mình cấp cho các gia đình có người đi lính. Những người bị thương, tử trận thì gia quyến được lo chu đáo. Nhân dân phấn khởi đồng lòng sẵn sàng chiến đấu. Người người đua nhau thích vào cánh tay hai chữ Sát Thát, thề một phen quyết sống mái với kẻ thù.

Quan Gia Trần Nhân Tông, sau hội nghị Bình Than đã xuống chiếu cho quân dân cả nước rèn vũ khí chuẩn bị chống giặc. Thái Thượng Hoàng và Quan Gia đích thân đôn đốc Bộ Công chế tạo vũ khí theo yêu cầu của Quốc Công Tiết Chế. Gươm, giáo, cung tên, khiên nỏ, câu liêm, thuốc súng và đặc biệt hỏa pháo được đúc nhiều để đặt trên mặt thành và phục vụ các trận công kích trại giặc. Một loại giáp sắt bền nhẹ được đặc chế cho đội quân đột kích bao gồm những binh sĩ khỏe mạnh dũng cảm nhất. Đội quân này sẽ mang theo đoản đao sắc bén, sẵn sàng giáp chiến, quật ngã kẻ thù mà tiêu diệt. Thuyền chiến được gấp rút đóng nhiều cho thủy quân thao luyện ngày đêm trên sông Cái. Vương còn cho đúc nhiều trống đồng đặt trên thuyền tướng và các thớt voi chiến để khi lâm trận sẽ cho thúc lên cổ vũ tinh thần binh sĩ.

Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lập tức điều các vương hầu, tướng lĩnh chia nhau đi trấn thủ các vùng hiểm yếu trong cả nước, chiêu quân tập trận sẵn sàng đợi lệnh. Đặc cử Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải vào trấn thủ đất Thanh Nghệ, hỗ trợ Chiêm Thành cầm chân Toa Đô, không cho chúng tạo thế gọng kìm bao vây quân ta khi Thoát Hoan tiến quân sang. Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật trấn thủ phía tây kinh thành Thăng Long, Quy Hóa, Thao Giang. Mạn phía bắc và phía đông, nơi dự kiến cánh quân chủ lực của giặc tới do đích thân Hưng Đạo Vương và bộ tướng trấn giữ. Hai vua và tùy tướng giữ kinh thành.

Sứ thần nhà Nguyên liên tục sang ta đe dọa bắt cung tiến, đầu hàng.

Ta cũng cử sứ thần sang cầu hòa để kéo dài thời gian và tranh thủ do thám tình hình quân địch. Nhưng một số đoàn sứ ra đi không trở về, phản trắc đầu hàng quân Nguyên. Hoàng thúc Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc thậm chí còn nhận chiếu tiếm phong An Nam Quốc Vương của Hốt Tất Liệt. Triều đình Đông A lại một phen rúng động. Nhiều hoàng thân quốc thích cũng tỏ ra nao núng. Trước tình hình vậy, tháng Tám năm Thiệu Bảo thứ 6 (1284) Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn quyết định triệu tập quân binh cả nước về duyệt binh tại bến Đông Bộ Đầu để thao luyện quân sĩ và nâng cao sĩ khí.

Quân bản bộ Vạn Kiếp theo chủ tướng kéo về Thăng Long từ hôm trước.

Tối hôm đó, Hưng Đạo Vương nghỉ trong phủ của ngài ở kinh thành. Biết tin Vương ở Thăng Long, Hàn Lâm Học Sĩ Giám Tu Quốc Sử Lê Văn Hưu tới vấn an Ngài. Lê Văn Hưu kém Vương hai tuổi nhưng Vương coi như người ngang lứa. Vương biết Hưu ngay từ thời trẻ, năm mười bảy tuổi Hưu đỗ Bảng Nhãn thì họ đã giao du với nhau. Trong các kỳ bình văn đọc thơ của các vương tôn công tử đất kinh kỳ khi ấy họ cùng đã tìm thấy tri âm ở nhau. Khi Lê Văn Hưu định quỳ xuống vòng tay thi lễ thì Hưng Đạo Vương đã bước tới rất nhanh, ôm vai đỡ người bạn văn của mình mà nói: “Bạn cũ lâu ngày gặp nhau xin chớ đa lễ làm mất đi tình thân mật vốn có.” Hai người cùng nhau thưởng trà trong thư phòng. Sau những hỏi thăm về sức khỏe và gia quyến của nhau như thường lệ, câu chuyện của họ chuyển sang việc nước. Hưng Đạo Vương bảo Lê Văn Hưu: “Theo như thời thế thì cuộc chiến với quân Mông Thát kỳ này là không tránh khỏi. Thái Thượng Hoàng và Quan Gia đều quyết chiến. Thế nhưng lòng người trong nước không phải không có chỗ còn lung lay. Binh lực của ta thì thực lòng mà nói khó đem so bì với chúng. Vẫn biết trong thuật cầm quân biến yếu thành mạnh, lấy ít địch nhiều cũng là chuyện thường xảy ra. Thế nhưng để làm được việc đó thì quan quân phải là một. Sĩ tốt phải đồng lòng thề chết vì nước. Ta muốn cố kết lòng quân dân cả nước thành một bức thành đồng vững chãi, làm cho kẻ địch hung hãn đến đâu lao vào cũng chỉ có ôm đầu máu mà tháo chạy. Ta không lo binh lực kém kẻ thù. Ta chỉ còn đang muốn cố kết lòng quân dân cả nước. Quan Giám Tu Quốc Sử đọc sử sách nhiều có cao kiến gì chăng?”

“Thưa, đây chính là điều hôm nay Hưu tôi muốn đến trình với Vương. Làm cho quân dân cả nước đồng lòng sẽ thành vô địch. Năm xưa, Lý triều chống Tống trên sông Như Nguyệt, Đức Ngài Lý Thường Kiệt đã cho người vào trong miếu Tam Giang đọc bài thơ thần Nam Quốc Sơn Hà, làm cho quân dân ta phấn khởi hùng khí lên cao gấp bội, đánh hăng muôn phần. Còn bọn Tống thì run sợ oai thần, để rồi phải thua trận tháo chạy về nước. Đó là chuyện xưa, còn chuyện mới nay thôi, Vương Công Kiên, Nguyễn Văn Lập cùng quân dân bên thành Điếu Ngư nhỏ như cái đấu chống lại trăm vạn hùng binh của Mông Kha, khiến cho y phải uất mà chết dưới chân thành, chẳng phải là câu chuyện cố kết lòng người thành sức mạnh đó sao? Ngày mai quân ta thao duyệt tại bến Đông Bộ Đầu, trước mặt quân dân cả nước Vương hãy đọc một bản hùng văn khích lệ lòng người chẳng hay lắm sao? Chính là một dịp cố kết muôn người thành một khối vậy!”

“Thật là một ý hay! Chẳng hay Hàn Lâm Học Sĩ đã thảo cho ta bản văn đó rồi sao?”

“Dạ bẩm Vương, hùng văn tráng khí ở nước Nam này thì không ai dám so với Vương. Xin Vương đêm nay hạ bút thảo một bài Hịch, sáng mai Ngài đọc trước ba quân xong, Quốc Sử Viện sẽ cho chép thành nhiều bản truyền về các lộ trong cả nước để khích lòng quân dân.”

Tiễn Lê Văn Hưu ra về, Vương lập tức sai người mài mực, thắp nến, Ngài vung bút nhanh mạnh dứt khoát như khi đang múa gươm giữa trận tiền năm xưa.

Khi Ngài hạ bút viết xong ba chữ lớn đầu tiên: Hịch Tướng Sĩ thì đêm kinh thành Thăng Long bỗng như xôn xao, oai linh của tổ tông ngàn đời Đại Việt dường như về cả phò trợ bên Ngài chuẩn bị đánh giặc.

Sáng hôm sau tại bến Đông Bộ Đầu, trước ba quân, Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương đích thân đọc bản hịch khích lệ tướng sĩ:

Ta cùng các ngươi sinh ra gặp thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi rối ren. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà chửi mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ. Thác lệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để thỏa lòng tham khôn cùng. Giả hiệu Vân Nam Vương để vơ vét của kho có hạn. Thật như là ném thịt cho hổ đói, giữ sao cho khỏi tai vạ về sau!

Ta từng tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt nước mắt đầm đìa, chỉ giận không được ăn thịt, nằm da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.

Giọng đọc của vị tướng quân đã đánh tan quân Mông Thát thời Nguyên Phong rền vang trên kinh thành Thăng Long, lan xa như sóng cuộn triều dâng trên mặt sông Cái đang ken đặc chiến thuyền. Quân dân Đại Việt vô cùng hứng khởi. Kể từ thời Đức ngài Lý Thường Kiệt đọc thơ thần trên bờ sông Như Nguyệt làm cho quân Tống khiếp sợ mà tan đến nay, nước ta lại có thần nhân giáng thế đọc một bản hùng văn làm cho quân dân cả nước bừng bừng khí thế. Đức ông Quốc Công đúng là thanh thiên đồng tử do trời cử xuống để hộ quốc an dân. Cứ theo lệnh Đức ông ra trận, sẽ không có kẻ nào chống nổi, quân ta nhất định sẽ chiến thắng vẻ vang.

Quốc Công Tiết Chế đích thân đứng trên soái thuyền chỉ huy tướng sĩ tập trận. Ngài mới năm mươi sáu tuổi, còn tráng kiện khỏe mạnh nhưng râu tóc đã bạc trắng. Quân dân cả nước thấy nhìn Quốc Công mặt đỏ rực, mắt tinh anh sáng quắc, giọng hô sang sảng rền sông. Ngài vận bộ võ phục đỏ tía, đeo gươm báu Hộ Quốc bên sườn, tay phải cầm cờ lệnh phất chỉ huy cho tướng sĩ tiến thoái nhịp nhàng. Tay trái người cầm dựng ngọn thần giáo Pháp Lôi trứ danh, chống trên lâu thuyền. Nhiều tướng sĩ trẻ đã được nghe kể về cây giáo thần này rồi, nhưng hôm nay mới được tận mắt nhìn thấy. Họ vô cùng hân hoan kính phục tin tưởng vị võ tướng đầu triều Đông A. Cả dòng sông Cái, cả kinh thành Thăng Long bỗng rền vang tiếng gầm “Sát Thát! Sát Thát! Sát Thát!” mà đáp lời hịch của Quốc Công khi Ngài vừa dứt lời.

Tập trận xong, các vương hầu lại dẫn quân trở lại cứ địa của mình. Trước khi đi, họ được hai vua và Quốc Công gặp mặt trong hoàng cung và dặn dò kỹ lưỡng. Tự tay Quốc Công giao cho từng vương hầu, tướng lĩnh mỗi người một bản Bát Quái Cửu Cung Đồ với đầy đủ chú giải cho từng trận chiến dự định sẽ xảy ra và cách đánh, cách tiến, cách rút lui bảo toàn lực lượng. Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông nghiêm khắc dặn: “Quốc Công đã đem hết tâm lực soạn ra kế sách bình Nguyên. Mọi đường đi nước bước người đã tính toán kỹ trong Bát Quái Cửu Cung Đồ mà các ngươi cầm trong tay, các ngươi phải về thao luyện, chuyên tập theo đúng sách này. Lâm trận cứ theo đó mà làm, chắc chắn sẽ cuối cùng thắng lợi. Ai mà coi nhẹ sách này, làm trái chỉ dẫn của Quốc Công thì chính là phường bất trung bất nghĩa vậy. Toàn thể quân dân Đại Việt, kể cả ta và Quan Gia đều nhất nhất theo sự điều động của Quốc Công. Các ngươi là tướng cầm quân ra trận, kẻ nào trái lệnh Quốc Công lập tức chém không tha. Ta nói với các ngươi thế để các ngươi rõ bụng ta.”

Các vương hầu dẫn quân đi rồi, tối hôm đó Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông lại cho mời Quốc Công tới điện Đại Minh cùng dùng trà với Quan Gia. Thi lễ vua tôi xong, theo lệ họ Đông A, ba người đàn ông trụ cột của triều đình lại xưng hô với nhau như trong gia đình. Trần Thánh Tông lên tiếng trước:

“Việc quân sự hôm nay đệ thấy thế là ổn, dưới tay huynh, vương hầu tướng sĩ răm rắp tiến thoái, xông lên như vũ bão, rút lui cũng trật tự đúng đội hình. Chiến thuyền, khí giới chúng ta đã sắm đủ. Nhưng không hiểu sao đệ vẫn cảm thấy có điều gì đó bất an…”

“Vâng. Thưa cha, thưa bá phụ, con cũng cảm thấy có điều gì đó còn chưa an lòng.” Trần Nhân Tông tiếp lời cha. “Kể từ lúc Chiêu Quốc Vương sang Yên Kinh rồi không về nữa thì trong triều ngoài nội cũng xôn xao bàn tán. Hôm nay trên bến Đông Bộ Đầu, quân ta thao diễn hoành tráng làm cho muôn dân sĩ tốt phấn chấn nhớ lại trận đánh quân Thát năm xưa, khí thế đã tăng lên vài phần. Thế nhưng vẫn còn điều gì đó chưa trọn vẹn. Bá phụ xem còn việc gì cần phải làm để triều đình bổ khuyết?”

Trần Quốc Tuấn ngồi yên lặng thưởng trà.

Trong họ tộc thì Ngài là vai trên. Trần Thánh Tông là em con ông chú ruột, Trần Nhân Tông là cháu. Tuy vậy, Ngài luôn chú ý giữ gìn phép tắc vua tôi nghiêm cẩn, không bao giờ cậy mình lớn tuổi, vai trên mà có ý khinh nhờn phép nước. Trần Quốc Tuấn nhấp một ngụm, thứ trà đã được nội cung ướp sen lấy từ hồ Dâm Đàm thơm mát, một vị chát dịu về cuối lại lưu thành vị ngọt trong miệng, khiến đầu óc người ta dường như sáng ra. Ngài thong thả nói:

“Quả là hai vua lo cũng có lý. Tin từ bên kia biên giới đưa về là Hốt Tất Liệt đang huy động năm mươi vạn quân giao cho Thoát Hoan cầm đầu sẽ đánh xuống từ bắc, kết hợp với hai mươi vạn quân của Toa Đô đang ở trong Chiêm Thành sẽ đánh thốc lên từ phía nam. Chúng sẽ dùng cách đánh nhanh tiến nhanh để bình định nước ta. Mà quân cả nước ta huy động tận lực cũng chưa bằng nửa của chúng, chưa kể ngựa xe, chiến thuyền của chúng nhiều và to hơn của ta rất nhiều…”

“Vậy thì chúng ta chịu thua chúng sao bá phụ?” Nhà vua trẻ vội vã ngắt lời, hỏi.

“Con cứ bình tĩnh, để anh ta nói hết cho nghe đã…” Thánh Tông có ý nhắc nhở ông vua con của mình.

“Vâng!” Quốc Tuấn thong thả nói tiếp. “Mọi kế sách thần đã dự liệu cả trong Bát Quái Cửu Cung Đồ rồi. Kẻ địch muốn đánh nhanh tiến nhanh ta sẽ cản lại, làm cho chúng không thể nhanh bằng các trận mai phục trên đường tiến quân. Kẻ địch sở trường kỵ binh, trường trận ta sẽ dử chúng vào chỗ hẹp để đánh và lôi xuống nước mà dìm. Kéo dài trận chiến ra, chấp nhận có thể thất thế những trận đầu khi thế chúng đang mạnh, nhưng phải đánh sao cho chúng hao mòn quân sĩ mà ta vẫn bảo toàn được lực lượng. Chúng ta lại cho toàn dân làm kế thanh dã, cất giấu lương thực, tổ chức dân binh tập kích bất ngờ. Mỗi hương thôn phải được tổ chức như một đạo quân, thành một chiến lũy. Thực hiện triệt để toàn dân là lính. Kẻ địch từ xa đến đây, không quen thung thổ, nước ta đầm lầy rừng rậm xen với nhau, không tiện cho kỵ binh tác chiến. Chúng lại không biết đường sá, không kiếm được lương ăn, bị đánh tỉa suốt ngày đêm, ý chí sức lực sẽ hao mòn, lúc đó quân chủ lực của ta sẽ đổ ra phản công, lo gì không thắng.”

“Thưa bá phụ!” - Ông vua trẻ Trần Nhân Tông vòng tay kính cẩn. “Nghe bá phụ nói, con đã hiểu rõ những ý đồ bày trận của người. Nhưng còn kế lập tất cả các thôn hương đồng lòng đánh giặc thì con thấy chưa được khả thi lắm. Liệu bách tính có tuân theo chỉ dụ của triều đình không, khi mà ngay trong hoàng tộc cũng còn khối kẻ nghe thấy tiếng vó ngựa Mông Thát đã rụng rời chân tay?”

“Thôi, chuyện nội bộ hoàng tộc thì để sau hãy nói.” Trần Thánh Tông lại ngắt lời con. “Nói ra chỉ làm cho lòng tướng sĩ hoang mang. Cái cần thiết bây giờ là làm sao huy động lòng dân cả nước, cùng nhau thực hiện kế sách đánh giặc của Quốc Công kia. Sáng nay nghe huynh đọc bài hịch, đệ thật khâm phục kiến văn sâu sắc của huynh quá. Bản hịch văn đã thật sự lay động được lòng người. Mà khi lâm trận thì lòng người cố kết với nhau sẽ làm nên sức mạnh vô địch. Đệ thầm nghĩ chắc huynh cũng đã dự liệu cho việc này cả rồi?”

“Thái Thượng Hoàng lại quá khen thần. Nhưng quả là thần đã tính đến điều này. Đánh giặc mà lòng dân không theo thì trăm vạn hùng binh cũng chỉ như không người. Được dân ủng hộ thì quân ít thành đông, lực yếu thành mạnh. Người xưa dạy dân như nước. Chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân. Thần xin cho triệu mời tất cả các bô lão trên cả nước về hoàng cung, thiết yến rồi trình bày việc nước nhà với các cụ, xin ý kiến nên hòa hay đánh. Thần dám chắc với hào khí Đại Việt, các bô lão sẽ hô quyết đánh. Lúc đó ta sẽ phân phát vũ khí về các hương thôn, cho người đến tổ chức tập luyện cho dân binh. Các bô lão sẽ đứng lên hô hào con cháu hưởng ứng. Thần xin đảm bảo bọn quân Nguyên Mông có tràn được vào nước ta thì chúng cũng không thể ở nổi. Cả nước sẽ là chiến trường vùi thây chúng.”

Đầu tháng Chạp năm ấy (1284) triều đình nhà Trần cho mời các bô lão cả nước về kinh thành Thăng Long. Chưa bao giờ cả nước Đại Việt rộn ràng vui vẻ đến thế. Giặc mạnh đang lăm le ngoài biên ải nhưng nhân dân cả nước vô cùng hân hoan chọn các cụ đức cao vọng trọng, rước về kinh để triều đình thỉnh ý. Cả nước như trong ngày hội.

Đích thân Thái Thượng Hoàng, Quan Gia ban yến cho các bô lão tại điện Diên Hồng.

Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương thay mặt triều đình trình bày với các cụ tình thế đất nước và kế sách đối phó. Quốc Công nói: “Quân Mông Thát hung tàn đang lăm le xâm lược nước ta. Chúng huênh hoang rằng, vó ngựa của chúng phi đến đâu thì cỏ nơi đó không mọc được. Nhưng chúng quên rằng năm Đinh Tỵ quân dân Đại Việt ta đã đánh cho chúng chạy không kịp thở. Lần này chúng huy động đông quân gấp bội, quyết làm cỏ nước ta. Thái Thượng Hoàng, Quan Gia và vương hầu tướng sĩ trong triều đã quyết đánh. Nhưng trước thế giặc mạnh, phải có sự đồng lòng của quân dân cả nước mới nên sự nghiệp được.”

Nhà vua trẻ Trần Nhân Tông tiếp lời Hưng Đạo Vương: “Quốc Công đã nói hết thế của giặc và thế nước ta, vậy xin hỏi các bô lão, ta nên hàng hay nên đánh?”

“Đánh! Đánh! Đánh!”

Hàng trăm bô lão râu tóc bạc phơ đứng bật dậy, hét to như trai tráng rền vang điện Diên Hồng. Một cụ cao tuổi nhất nước, người vùng Thao Giang thay mặt cho các bô lão nói: “Mọi kế sách đánh giặc giữ nước toàn dân xin trông cậy cả vào hai vua và Quốc Công. Dân chúng tôi cần phải làm những việc gì xin Ngài cứ chỉ dạy, chúng tôi về quê hương sẽ truyền lại cho con cháu, cho dân làng làm đúng theo lời Ngài.” Vương cầm tay vị bô lão rưng rưng trong lòng. Người lính già năm xưa đã cùng mình chinh chiến, nay lại sẵn sàng cùng Vương bước vào cuộc chiến mới. Được lòng dân là được tất cả. Vương biết trong cuộc chiến này, dù khốc liệt đến đâu thì cuối cùng chiến thắng vẫn sẽ thuộc về quân dân Đại Việt.