Chương 9 KHI VẬN MAY KHÔNG ĐỨNG VỀ PHÍA BẠN
LÚC ĐẦU TÔI không nghĩ cô ta sẽ đi theo. Không có lý do gì để cô ta đi theo, và không có lý do gì để tôi rủ cô ta, nhưng khi tôi nói “Đi nào” lần thứ hai một cách khẩn trương hơn và dùng tay ra hiệu, cô ta liền đi theo tôi, đi theo Manchee. Thế đấy, đó là điều chúng tôi làm. Ai mà biết liệu làm vậy có đúng hay không, nhưng đó là điều chúng tôi làm.
Đêm đã buông và trời đã tối hẳn. Đầm lầy có vẻ đặc hơn, đen như mực. Chúng tôi vội vã vòng về để lấy ba lô rồi quay ngược trở lại, đi cách xa hơn một chút trong bóng tối để tránh thi thể của Aaron (làm ơn hãy để nó là một thi thể). Chúng tôi trèo qua những thân cây và leo qua những bộ rễ, đi sâu hơn vào đầm lầy. Khi đi tới một khoảng rừng thưa, nơi có chút đất bằng và bớt cây, tôi ra hiệu dừng lại.
Tôi vẫn cầm con dao. Nó nằm đó trong tay tôi, chiếu vào tôi như lời buộc tội, như tiếng thằng hèn vang lên hết lần này đến lần khác. Nó bắt ánh sáng từ cả hai mặt trăng. Và Chúa ơi, nó là một thứ đầy quyền uy. Một thứ hùng mạnh, như thể tôi phải chấp nhận làm một phần của nó thay vì nó là một phần của tôi.
Tôi vòng tay ra phía sau và nhét con dao vào chiếc vỏ đang kẹp giữa lưng và ba lô, ít nhất tôi sẽ không phải nhìn thấy nó ở đó.
Tôi cởi ba lô và lục lọi tìm chiếc đèn.
“Cô có biết cách dùng thứ này không?” tôi hỏi cô gái, bật tắt đèn vài lần.
Cô ta chỉ nhìn tôi, như từ nãy đến giờ.
“Thôi quên đi,” tôi chán nản.
Cổ họng tôi vẫn đau, mặt tôi vẫn đau, ngực tôi vẫn đau, Tiếng Ồn vẫn tra tấn tôi với những hình ảnh báo tin xấu, về sự chống trả quyết liệt của Ben và Cillian ở trang trại, về việc sẽ mất bao lâu để Prentiss Con nhận ra tôi đi đâu, mất bao lâu để hắn lên đường đuổi theo tôi, đuổi theo chúng tôi (sẽ không lâu chút nào, mà có lẽ hắn đã lên đường từ ba đời tám hoành rồi ấy chứ), nên ai thèm quan tâm liệu cô ta có biết dùng đèn hay không. Dĩ nhiên cô ta không biết.
Tôi lấy cuốn sách ra khỏi ba lô, dùng đèn để rọi. Tôi lại mở bản đồ và lần theo các mũi tên mà Ben đã vẽ từ trang trại tới dòng sông và qua đầm lầy, rồi ra khỏi đầm lầy nơi nó lại trở thành dòng sông.
Không quá khó để tìm đường ra khỏi đầm lầy. Ở đường chân trời, bạn luôn nhìn thấy ba ngọn núi, một ngọn gần và hai ngọn xa ở cạnh nhau. Dòng sông trên bản đồ của Ben chạy giữa ngọn núi ở gần và hai ngọn ở xa, nên tất cả những gì chúng tôi cần làm là cứ đi tới vào khoảng giữa, rồi chúng tôi sẽ lại tìm thấy dòng sông và đi theo nó. Theo nó tới nơi những mũi tên tiếp tục đi.
Tiếp tục đi đến một khu định cư khác.
Nó ở đó. Ngay cuối trang giấy nơi bản đồ kết thúc.
Một khu định cư khác.
Cứ như thể tôi chưa có đủ việc mới để nghĩ đến không bằng.
Tôi ngước lên nhìn cô gái. Cô ta vẫn nhìn tôi chằm chằm, có lẽ còn không thèm chớp mắt. Tôi rọi đèn vào mặt cô ta. Cô ta nhăn nhó rồi quay đi.
“Cô từ đâu đến?” tôi hỏi. “Có phải từ đây không?”
Tôi rọi đèn xuống bản đồ và đặt một ngón tay lên thị trấn kia. Cô ta không hề nhúc nhích, nên tôi vẫy tay gọi cô ta lại. Cô ta vẫn không buồn động đậy, nên tôi thở dài và nhặt cuốn sách lên, mang nó đến gần cô ta, rọi đèn vào trang giấy.
“Tôi,” tôi chỉ vào mình, “đến từ đây.” Tôi chỉ vào trang trại của mình ở phía Bắc thị trấn Prentiss trên bản đồ. “Đây,” tôi vung vẩy tay, ý nói đầm lầy, “là ở đây.” Tôi chỉ vào vị trí của đầm lầy trên bản đồ. “Chúng ta cần đến đây,” tôi chỉ vào thị trấn kia. Ben đã viết tên của nó bên dưới, nhưng - thôi, kệ đi. “Có phải cô từ đây đến không?” tôi chỉ vào cô ta, chỉ vào thị trấn kia, rồi lại chỉ vào cô ta. “Có phải cô từ đây đến không?”
Cô ta nhìn bản đồ, nhưng ngoài nhìn thì chẳng làm gì khác nữa.
Tôi thở dài bực dọc và lùi lại. Thật khó chịu khi ở quá gần nhau. “Thôi, tôi hy vọng là vậy,” tôi nói, lại cúi xuống nhìn bản đồ. “Vì đó là nơi chúng ta sẽ tới.”
“Todd,” Manchee sủa. Tôi ngước lên nhìn. Cô ta bắt đầu đi quanh khoảng rừng thưa, nhìn mọi thứ như thể nhận ra điều gì.
“Cô làm gì đấy?” tôi hỏi.
Cô ta nhìn tôi, nhìn chiếc đèn trong tay tôi, rồi chỉ tay xuyên qua những thân cây.
“Sao cơ? Chúng ta không có thời gian…”
Cô ta lại chỉ tay xuyên qua những thân cây và bắt đầu đi về hướng đó.
“Này!” tôi gọi. “Này!”
Có lẽ tôi phải đi theo.
“Chúng ta phải đi theo bản đồ!” Tôi cúi đầu tránh những cành cây, chiếc ba lô hết vướng trái lại kẹt phải. “Này! Đợi đã!”
Tôi loạng choạng bám theo, Manchee nối gót, chiếc đèn chẳng mấy hữu dụng trước những cành cây nhỏ và rễ và bùn trong đầm lầy rộng lớn. Tôi phải liên tục cúi đầu và gỡ ba lô ra khỏi những thứ mà nó mắc vào nên gần như không kịp nhìn về phía trước mà bám theo cô ta. Tôi thấy cô ta đang đứng trước một thân cây đổ trông như bị cháy, nhìn tôi, đợi tôi đến gần.
“Cô đang làm gì vậy?” tôi hỏi, cuối cùng cũng đuổi kịp. “Cô đang đi…”
Rồi tôi nhìn thấy.
Thân cây đã cháy, mới cháy và mới đổ xuống. Những mảnh vụn không bị lửa đốt trông sạch và trắng như gỗ tươi. Có rất nhiều những thân cây như vậy, đúng ra là cả hàng, ở hai bên một rãnh lớn khoét giữa đầm lầy, giờ đã đầy nước. Đất đùn lên và cây cháy quanh đó cho thấy rãnh này còn khá mới, như thể ai đó đã đến đây và khoét ra chỗ chỉ bằng một nhát xẻng.
“Chuyện gì đã xảy ra?” tôi vung đèn soi xung quanh. “Thứ gì đã gây ra chuyện này?”
Cô ta chỉ nhìn về bên trái, nơi cái rãnh biến mất vào bóng tối. Tôi rọi đèn, nhưng đèn không đủ sáng để nhìn thấy bất cứ thứ gì. Dù tôi cảm giác được là có thứ gì đó.
Cô ta bước vào bóng tối, về phía vật thể vô định.
“Cô đang đi đâu đấy?” tôi hỏi, không trông đợi sẽ có một câu trả lời, và không nhận được câu trả lời nào thật. Manchee đi giữa tôi và cô gái, như thể đi theo cô ta thay vì tôi, và bọn họ cứ thế tiến vào bóng tối. Tôi giữ khoảng cách, nhưng cũng đi theo. Sự im lặng vẫn tuôn ra từ cô ta, vẫn khiến tôi khó chịu, như thể nó chuẩn bị nuốt chửng thế giới và tiện thể nuốt chửng luôn cả tôi.
Tôi cứ rọi đèn vào từng ngõ ngách của đầm lầy. Lũ cá sấu thường không vào sâu đến mức này, nhưng vẫn còn đó rắn độc đỏ và chồn nước hay cắn. Và dường như vận may không đứng về phía bất kỳ ai trong chúng tôi ngày hôm nay, nên nhiều khả năng là vẫn có chuyện đen đủi sắp xảy ra.
Chúng tôi đang đến gần hơn. Tôi rọi đèn thẳng về phía trước. Có thứ gì đó rọi lại, một thứ không phải là cây hay bụi rậm hay động vật hay nước.
Một thứ bằng kim loại. Một thứ lớn và bằng kim loại.
“Cái gì thế?” tôi hỏi.
Chúng tôi đến gần hơn. Ban đầu tôi nghĩ đó là một chiếc xe đạp phân hạch cỡ lớn, và tôi tự hỏi thằng ngu nào lại đi tìm cách đạp xe phân hạch ở đầm lầy, vì bạn thậm chí chẳng thể lái chúng trên đường đất bằng phẳng, nói gì đến địa hình đầy nước và rễ cây.
Nhưng đó không phải là một chiếc xe đạp phân hạch.
“Đợi đã.”
Cô gái dừng lại.
Xem kìa. Cô ta dừng lại.
“Vậy là cô hiểu những gì tôi nói.”
Nhưng chẳng có thêm gì, vẫn chẳng có gì, như từ nãy đến giờ.
“Đợi chút đã,” tôi nói tiếp, vì một ý nghĩ chợt ập đến. Dù vẫn còn cách khá xa, nhưng tôi cứ rọi đèn vào khối kim loại. Rồi rọi vào đường thẳng tạo thành cái rãnh. Rồi vào khối kim loại. Rồi vào những thứ cháy rụi ở hai bên cái rãnh. Và một ý nghĩ cứ ập đến.
Cô ta dừng đợi và tiến thẳng đến khối kim loại. Tôi đi theo. Chúng tôi phải bước vòng qua một cành cây lớn cháy rụi vẫn lười nhác nhả khói một hai chỗ. Khi đến nơi, tôi thấy khối kim loại lớn hơn rất nhiều chiếc xe đạp phân hạch lớn nhất trên đời, dù vậy, có vẻ nó mới chỉ là một phần của thứ gì đó còn lớn hơn nữa. Nhiều chỗ trên đó đã méo và cháy rụi. Dù tôi không biết chính xác nó trông như thế nào trước khi méo và cháy rụi, nhưng giờ nó chỉ còn là một đống đổ nát.
Và rõ ràng là đống đổ nát của một con tàu.
Một chiếc phi thuyền. Thậm chí có thể là một chiếc phi thuyền không gian.
“Nó là của cô ư?” tôi hỏi, rọi đèn vào cô ta. Cô ta không nói gì, như thường lệ, nhưng lần này là im lặng theo kiểu đồng ý. “Cô đã rớt xuống đây ư?”
Tôi rọi đèn khắp người cô ta, từ trên xuống dưới. Quần áo cô ta mặc hơi khác so với những gì tôi biết, dĩ nhiên rồi, nhưng không khác đến nỗi chúng không thể thuộc về tôi của ngày xửa ngày xưa.
“Cô từ đâu đến?”
Nhưng dĩ nhiên cô ta không nói gì, chỉ nhìn sâu hơn vào bóng tối, khoanh tay, và bắt đầu tiến về phía ấy. Lần này tôi không đi theo. Tôi chỉ nhìn con tàu. Nó phải là một con tàu. Ý tôi là, nhìn nó mà xem. Phần lớn đã bị giập méo đến độ không thể nhận ra, nhưng bạn vẫn nhìn thấy một thứ có thể là thân tàu, một phần có thể là động cơ, và thậm chí một vật có thể là cửa sổ.
Những căn nhà cổ nhất ở thị trấn Prentiss được làm từ tàu của những người định cư đầu tiên đã đáp xuống. Dĩ nhiên sau đó họ xây thêm nhà gỗ, nhưng Ben nói việc đầu tiên bạn làm khi hạ cánh là xây nơi trú ẩn và nơi trú ẩn được xây từ những thứ sẵn có trong tay. Nhà thờ và trạm xăng ở thị trấn vẫn được làm một phần từ thân tàu, từ khoang và những căn phòng bằng kim loại. Mặc dù đống đổ nát này đã bẹp rúm, nhưng nếu bạn nhìn kỹ, nó trông chẳng khác gì một căn nhà cũ ở thị trấn Prentiss rớt xuống từ trời cao. Vừa rớt xuống vừa cháy.
“Todd!” Manchee sủa từ nơi nào đó khuất tầm mắt. “Todd!”
Tôi chạy đến nơi cô gái đã biến mất, đến phần tàu trông có vẻ ít rúm ró hơn. Tới nơi, tôi thấy một cánh cửa mở trên một bức tường bằng kim loại và bên trong thậm chí còn có ánh đèn.
“Todd!” Manchee sủa, và tôi rọi đèn vào nơi nó đang đứng, cạnh cô gái. Cô ta chỉ đứng đó, nhìn xuống thứ gì đấy, nên tôi rọi đèn và thấy cô ta đang đứng cạnh hai đống quần áo.
Mà chắc hẳn là hai thi thể, phải không?
Tôi lại gần. Một người đàn ông, quần áo và cơ thể hầu như đã cháy rụi từ ngực trở xuống. Mặt ông ta cũng bị cháy, nhưng vẫn đủ để nhận ra là đàn ông. Trán có một vết thương đủ nặng để giết chết ông ta, nếu các vết cháy không phải nguyên nhân. Nhưng chẳng còn quan trọng nữa, vì ông ta đằng nào cũng chết rồi. Chết và nằm đây giữa đầm lầy.
Tôi dịch đèn sang và thấy ông ta đang nằm cạnh một người đàn bà.
Tôi nín thở.
Đó là người phụ nữ đầu tiên tôi từng thấy. Và cũng như với cô gái. Tôi chưa thấy một người phụ nữ bằng xương bằng thịt bao giờ, nhưng nếu trên đời này có phụ nữ, thì bà ta đúng là một trong số họ.
Và dĩ nhiên, bà ta cũng đã chết, nhưng nguyên nhân không dễ thấy như vết bỏng và vết thương, thậm chí không có lấy một giọt máu nào trên quần áo, nên có lẽ bà ta đã bị nát nội tạng.
Nhưng đó vẫn là một người phụ nữ. Một người phụ nữ bằng xương bằng thịt.
Tôi rọi đèn vào cô gái. Cô ta không tránh đi.
“Đó là bố mẹ cô, phải không?” tôi hỏi, giọng nhẹ nhàng.
Cô ta không đáp gì nhưng đó hẳn là sự thật.
Tôi rọi đèn quanh đống đổ nát và nghĩ đến cái rãnh bốc cháy phía sau. Chỉ có một lời giải thích duy nhất. Cô ta có rớt xuống đây cùng bố mẹ. Họ chết. Cô ta sống. Và cô ta có đến từ một nơi ngoài Tân Thế giới hay một chốn nào đó hoàn toàn khác thì cũng không quan trọng. Họ đã chết, cô ta sống, và cô ta ở đây một mình.
Rồi bị Aaron tìm thấy.
Khi vận may không đứng về phía bạn thì nó chống lại bạn.
Tôi nhìn thấy các vết kéo lê trên mặt đất. Chắc hẳn cô ta đã kéo thi thể của họ ra khỏi đống đổ nát và đưa đến đây. Nhưng đầm lầy không phải là nơi chôn cất ai ngoại trừ lũ Xú Vật, vì chỉ cần đào năm phân là sẽ chẳng có gì ngoài nước. Nên họ cứ thế nằm ở đây. Tôi ghét phải nói ra, nhưng họ đang bốc mùi. Mặc dù so với mùi của đầm lầy, mùi của họ cũng không quá tệ. Ai mà biết cô ta đã ở đây bao lâu.
Cô gái lại nhìn tôi, không cười, không khóc, chỉ trống rỗng như trước giờ. Rồi cô ta bước qua mặt tôi, bước qua các vết kéo, lại gần cánh cửa mở mà tôi thấy trên thân tàu, trèo lên, rồi biến mất vào trong.