Chương 10 THỨC ĂN VÀ LỬA
“NÀY!” tôi gọi và bước tới. “Chúng ta không thể nán lại…”
Tôi đến chỗ cánh cửa cùng lúc cô ta bước ra, khiến tôi nhảy dựng về phía sau. Cô ta đợi tôi tránh đường, rồi trèo xuống và đi qua mặt tôi, một tay cầm túi, tay còn lại cầm vài gói đồ nho nhỏ. Tôi ngoái lại nhìn cánh cửa và nhón chân, tìm cách ngó vào. Bên trong là một đống lộn xộn, đúng như dự đoán, mọi thứ ngổn ngang, vỡ nát.
“Làm sao mà cô sống sót được?” tôi hỏi, quay người lại.
Nhưng cô ta đang bận làm gì đó. Cô ta đặt túi xuống và lấy ra một chiếc hộp nhỏ dẹp màu xanh. Cô ta đặt nó xuống mặt đất khô ráo rồi xếp củi lên trên.
Tôi nhìn nghi hoặc. “Không có thời gian để…”
Cô ta nhấn nút bên hông chiếc hộp và phụt, chúng tôi có ngay một đống lửa, lửa to, lửa thứ thiệt.
Tôi chỉ đứng đó như một thằng ngốc, miệng há hốc.
Tôi muốn có một cái hộp nhóm lửa.
Cô ta nhìn tôi và xoa tay, khi đó tôi mới nhận ra mình đang ướt nhẹp, lạnh cóng, khắp người đau nhức, và một đống lửa là điều phúc lành lớn nhất tôi có thể nghĩ đến lúc này.
Tôi ngoái lại nhìn màn đen của đầm lầy, như thể sẽ thấy được nếu có người đang đến không bằng. Dĩ nhiên không có ai, nhưng cũng không có Tiếng Ồn. Chưa ai đến gần. Chưa thôi.
Tôi lại nhìn đống lửa. “Chỉ một lát thôi,” cuối cùng tôi cũng đầu hàng.
Tôi bước đến bên đống lửa và bắt đầu hơ tay, vẫn đeo ba lô. Cô ta xé một trong những cái gói và ném cho tôi. Tôi nhìn nó chằm chằm cho đến khi cô ta thọc tay vào gói, lấy ra một thứ mà chắc hẳn là hoa quả khô rồi cho vào miệng ăn.
Cô ta đang cho tôi thức ăn. Và lửa.
Mặt cô ta vẫn không bộc lộ cảm xúc, trống rỗng như một hòn đá trong lúc đứng ăn bên đống lửa. Tôi cũng bắt đầu ăn. Hoa quả, hay bất kể là thứ gì, trông như những cái đốm nhăn nheo nhỏ xíu, nhưng ngọt và dai. Tôi chén sạch một gói trong vòng nửa phút trước khi kịp nhận ra Manchee đang nài nỉ.
“Todd?” nó khẽ sủa, và liếm môi.
“Ối,” tôi đáp, “tao xin lỗi.”
Cô ta nhìn tôi, nhìn Manchee, rồi lấy một nắm từ gói của mình, xòe ra cho Manchee. Khi nó đến gần, cô ta lùi lại một chút như thể không kiểm soát được phản xạ, và đánh rơi chỗ hoa quả xuống đất. Manchee không bận tâm. Nó chén sạch trong nháy mắt.
Tôi gật đầu với cô ta. Cô ta không gật đầu đáp trả.
Đêm đã buông hẳn, mọi thứ bên ngoài vòng tròn lửa nho nhỏ của chúng tôi đều tối đen. Chỉ có thể nhìn thấy những ngôi sao qua lỗ hổng trên vòm cây do con tàu gây nên. Tôi cố nhớ lại xem tuần trước mình có nghe thấy tiếng động lớn nào vang đến từ đầm lầy hay không. Nhưng có lẽ bất cứ âm thanh nào từ khoảng cách này cũng bị lấn át bởi Tiếng Ồn của thị trấn Prentiss, vậy nên chắc là không ai nghe thấy.
Tôi chợt nhớ đến tên thuyết giáo nọ.
Hầu như không ai nghe thấy.
“Chúng ta không thể ở lại,” tôi nói. “Tôi rất tiếc về chuyện bố mẹ cô, nhưng sẽ có những kẻ khác đuổi theo chúng ta. Ngay cả nếu Aaron đã chết.”
Khi nghe đến tên Aaron, cô ta giật mình, chỉ một chút. Chắc hẳn hắn đã xưng tên với cô ta. Hoặc đại loại như vậy. Có lẽ vậy.
“Tôi xin lỗi,” mặc dù tôi không biết mình xin lỗi về chuyện gì. Tôi cựa ba lô trên lưng. Nó có vẻ nặng hơn bao giờ hết. “Cảm ơn về bữa ăn, nhưng chúng ta phải đi thôi.” Tôi nhìn cô ta. “Nếu cô muốn đi cùng?”
Cô ta nhìn tôi trong giây lát rồi dùng mũi giày đá những khúc củi đang cháy khỏi chiếc hộp bé xíu màu xanh. Cô ta cúi xuống, lại nhấn nút và nhặt chiếc hộp lên mà không bị bỏng.
Quỷ tha ma bắt, tôi thực sự muốn có một thứ như vậy.
Cô ta nhét nó vào chiếc túi đã lấy ra từ đống đổ nát, rồi vòng quai qua đầu. Như thể đó là ba lô của cô ta. Như thể cô ta đã định đi cùng tôi từ trước.
“Ừ thì,” tôi nói, khi cô ta cứ nhìn tôi chằm chằm. “Có lẽ chúng ta đã sẵn sàng.”
Không ai di chuyển.
Tôi ngoái lại nhìn bố mẹ cô ta. Cô ta cũng làm vậy, nhưng chỉ trong thoáng chốc. Tôi muốn nói gì đó, nói thêm gì đó, nhưng biết nói gì đây? Dù sao tôi cũng mở miệng chực nói, nhưng cô ta đã bắt đầu lục túi. Tôi tưởng cô ta sẽ lôi ra một thứ, để tưởng nhớ cha mẹ, chẳng hạn, hay bày tỏ gì đó, nhưng cô ta chỉ rút ra một cái đèn. Cô ta bật nó lên. Vậy là cô ta biết cách dùng đèn. Cô ta đi, về phía tôi, rồi lướt qua tôi, như thể chúng tôi đã lên đường.
Và chỉ có thế, như thể bố mẹ cô ta không nằm chết ở đó.
Tôi nhìn cô ta bỏ đi trong một thoáng, rồi gọi, “Ê!”
Cô ta quay lại nhìn tôi.
“Không phải hướng đó.” Tôi chỉ sang bên trái. “Là hướng này.”
Tôi bỏ đi theo hướng chính xác, Manchee đi theo, và tôi ngoái đầu lại nhìn, thấy cô gái cũng đi theo. Tôi liếc nhanh ra sau lưng cô ta, và mặc dù tôi cực kỳ muốn ở lại, lục đống đổ nát để tìm thêm những thứ hữu dụng khác, Chúa ạ, tôi thực sự muốn làm vậy, nhưng chúng tôi phải đi. Mặc dù trời đang tối, mặc dù chưa ai được ngủ, chúng tôi phải đi.
Vậy là chúng tôi đi, tìm đường chân trời qua những rặng cây mỗi khi có thể, hướng đến khoảng giữa ngọn núi gần nhất và hai ngọn núi ở xa. Cả hai mặt trăng đều đã gần tròn quá nửa, và bầu trời thì quang đãng, nên ít nhất cũng có chút ánh sáng để mà đi, dù là bên dưới mái vòm của đầm lầy, dù là trong bóng tối.
“Chú ý nghe đó,” tôi nhắc Manchee.
“Nghe gì?” Manchee sủa lại.
“Những thứ có thể tóm chúng ta, đồ ngu.”
Không thể chạy trong đầm lầy tăm tối giữa màn đêm, nên chúng tôi đi bộ nhanh hết mức có thể. Tôi rọi đèn phía trước, vòng qua rễ cây và gắng không phải lội bùn quá nhiều. Manchee đi đầu rồi quay lại, ngửi quanh, đôi khi nó sủa, nhưng không có gì nghiêm trọng. Cô gái đi theo, không để bị bỏ lại đằng sau nhưng cũng không quá gần. Như thế cũng tốt, vì mặc dù Tiếng Ồn của tôi đang ở mức yên tĩnh nhất trong ngày, thì sự im lặng của cô ta vẫn chèn ép nó bất cứ khi nào cô ta đến quá gần.
Thật kỳ lạ khi cô ta không làm gì thêm cho bố mẹ mình lúc chúng tôi lên đường, phải không? Không khóc cũng không nhìn lần cuối, chẳng gì cả. Có phải tôi đã sai? Tôi sẵn sàng trả bất cứ giá nào để được nhìn Ben lần nữa, thậm chí là Cillian, ngay cả khi họ đã…
“Ben,” Manchee nói vọng lên từ dưới đầu gối của tôi.
“Tao biết.” Tôi gãi giữa hai tai nó.
Chúng tôi tiếp tục đi.
Tôi muốn chôn cất họ, nếu chuyện đã đến nước ấy. Tôi muốn làm gì đó, tôi không biết nữa. Tôi dừng lại, ngoái đầu nhìn cô gái, nhưng mặt cô ta vẫn vậy, trơ trơ như từ trước đến giờ. Có phải vì cô ta đã gặp tai nạn và mất bố lẫn mẹ? Có phải vì Aaron đã tìm thấy cô ta? Có phải vì cô ta từ một nơi khác đến?
Cô ta không cảm thấy gì sao? Trong đầu cô ta không có gì sao?
Cô ta nhìn tôi, đợi tôi đi tiếp.
Nên, sau một giây, tôi đi tiếp.
Hàng giờ. Chúng tôi đi băng băng suốt hàng giờ đồng hồ trong yên lặng. Hàng giờ. Ai biết liệu chúng tôi đã đi được bao xa, hay có đi đúng hướng, nhưng đã hàng giờ. Thi thoảng, tôi nghe thấy Tiếng Ồn của một sinh vật về đêm, đám cú đầm lầy cất tiếng trong lúc đi tìm bữa tối, sà xuống bắt một con chuột đuôi ngắn có Tiếng Ồn rất khẽ hầu như chẳng thành thứ ngôn ngữ nào. Nhưng chủ yếu những gì tôi nghe thấy, thỉnh thoảng, là Tiếng Ồn dịu đi nhanh chóng của một sinh vật về đêm nào đó chạy xa khỏi những âm thanh chắc hẳn do chúng tôi gây ra khi bì bõm lội qua đầm lầy.
Nhưng điều kỳ quái là vẫn không có tiếng động phía sau chúng tôi. Không có gì đuổi theo. Không Tiếng Ồn. Không có tiếng cành cây gãy. Chẳng có gì cả. Có lẽ Ben và Cillian đã đánh lạc hướng bọn chúng. Có lẽ lý do tôi đang bỏ chạy không quan trọng đến vậy. Có lẽ…
Cô gái dừng lại để kéo giày ra khỏi vũng bùn.
Cô gái.
Không. Họ đang đến. Điều “có lẽ” duy nhất là có lẽ họ đang đợi trời sáng để đi nhanh hơn.
Nên chúng tôi tiếp tục đi, càng lúc càng mệt mỏi hơn, chỉ dừng lại một lần để đi tiểu trong riêng tư ở bụi cây. Rồi đến lượt tôi lấy đồ ăn của Ben ra khỏi ba lô để chia cho Manchee cùng cô gái.
Rồi lại tiếp tục đi nữa đi mãi.
Một tiếng trước khi trời sáng, chúng tôi không thể đi được nữa.
“Chúng ta phải dùng lại thôi,” tôi nói, thả ba lô xuống một gốc cây. “Chúng ta phải nghỉ một lát.”
Cô gái hạ túi của mình xuống một gốc cây khác mà không cần thuyết phục thêm. Cả hai chúng tôi cứ thế gục xuống, dùng ba lô và túi thay gối.
“Năm phút,” tôi nói. Manchee cuộn tròn dưới chân tôi và nhắm mắt gần như ngay lập tức. “Chỉ năm phút,” tôi nói với cô gái, lúc này đã lôi ra một tấm chăn nhỏ từ trong túi và đắp lên người. “Đừng thoải mái quá.”
Chúng tôi phải tiếp tục đi, không có gì phải bàn cãi về việc đó. Tôi sẽ chỉ nhắm mắt một hoặc hai phút, chỉ nghỉ một chút, rồi chúng tôi sẽ tiếp tục đi nhanh hơn lúc trước.
Chỉ nghỉ một chút, một chút thôi.
Tôi mở mắt thì mặt trời đã ló dạng. Chỉ hơi nhú lên thôi nhưng thực sự đã ló dạng.
Chết tiệt. Chúng tôi đã lãng phí một tiếng đồng hồ, hoặc hai.
Rồi tôi nhận ra tiếng động đã đánh thức tôi.
Là Tiếng Ồn.
Tôi hoảng hốt, nghĩ đến những kẻ đang săn đuổi mình và loạng choạng đứng dậy.
Để rồi nhìn thấy đó không phải là người.
Là một con khổng điểu, đứng sừng sững trước mặt tôi, Manchee, và cô gái.
Thức ăn? Tiếng Ồn của nó nói.
Tôi biết là chúng vẫn chưa đi khỏi đầm lầy mà.
Tôi nghe thấy một tiếng thở hoảng hốt nơi cô gái đang nằm. Không còn ngủ nữa. Con khổng điểu quay qua nhìn cô ta. Rồi Manchee cũng thức dậy và sủa, “Bắt! Bắt! Bắt!” Và con khổng điểu quay ngoắt lại nhìn chúng tôi.
Hãy hình dung con chim lớn nhất mà bạn từng nhìn thấy, lớn đến nỗi không thể bay nữa, cao ít nhất hai mét rưỡi hoặc ba mét, cái cổ siêu dài mềm oặt vươn lên quá đầu bạn. Nó vẫn có lông nhưng trông giống lông thú hơn, và đôi cánh không còn nhiều hữu dụng ngoại trừ việc dùng để làm choáng những thứ mà nó chuẩn bị ăn. Nhưng đôi chân mới là thứ bạn phải đề phòng. Đôi chân dài, cao đến ngực tôi, với bộ móng có thể giết chết bạn chỉ bằng một cú đạp nếu bạn không cẩn thận.
“Đừng lo,” tôi nói vọng qua chỗ cô gái. “Chúng rất thân thiện.”
Quả vậy. Ít nhất là trên lý thuyết. Chúng chỉ ăn chuột, và chỉ đá nếu bị tấn công. Ben nói nếu bạn không tấn công thì chúng rất thân thiện và lù đù, chúng sẽ để bạn cho ăn. Thịt của chúng cũng rất ngon, một phẩm chất khiến những người định cư đầu tiên của thị trấn Prentiss hăng hái săn bắt chúng, và đến khi tôi ra đời, chẳng còn con khổng điểu nào trong bán kính vài cây số để mà ngắm nữa. Thêm một thứ nữa tôi chỉ nhìn thấy trong phim hoặc trong Tiếng Ồn.
Thế giới tiếp tục rộng ra.
“Bắt! Bắt!” Manchee sủa và chạy quanh con khổng điểu.
“Đừng cắn nó!” tôi hét lên với Manchee.
Cổ con khổng điểu xoay xoay như ngọn cây leo, bám theo Manchee như mèo vờn bọ. Thức ăn? Tiếng Ồn của nó không ngừng hỏi.
“Không phải thức ăn,” tôi nói, và cái cổ bự của nó xoay về phía tôi.
Thức ăn?
“Không phải thức ăn,” tôi nhắc lại. “Chỉ là một con chó.”
Chó?
Nó nghĩ, rồi lại bắt đầu đuổi theo Manchee, tìm cách mổ con chó. Cái mỏ khổng điểu không hề đáng sợ, chỉ như mỏ ngỗng, nhưng Manchee không chịu. Nó chạy trốn và sủa, sủa, sủa.
Tôi bật cười. Vì trông rất buồn cười.
Rồi tôi nghe thấy một tiếng cười khe khẽ không phải của tôi.
Tôi quay sang nhìn. Cô gái đứng đó dưới gốc cây, nhìn con khổng điểu đuổi con chó ngu ngốc của tôi chạy khắp nơi, và cô ta cười.
Cô ta cười.
Cô ta thấy tôi nhìn, bèn ngưng bặt.
Thức ăn? tôi nghe, rồi quay lại nhìn con khổng điểu đang mổ xuống ba lô của tôi.
“Này!” tôi hét lên và xua nó đi.
Thức ăn?
“Đây.” tôi lấy một mẩu phó mát nhỏ gói trong tấm vải mà Ben đã cất.
Con khổng điểu ngửi, cắn, rồi nuốt chửng, cổ nó gợn lên từng đợt trong lúc nó nuốt. Nó táp mỏ vài lần như một người đàn ông chép miệng sau khi ăn. Nhưng rồi cổ nó bắt đầu gợn lên theo chiều ngược lại. Và bằng một tiếng khạc lớn, mẩu phó mát, sũng nước miếng và hầu như chưa bị nát, đập thẳng vào má tôi, để lại một vết nhầy nhụa trên mặt.
Thức ăn? con khổng điểu nói và thong dong tiến vào đầm lầy, như thể chúng tôi thậm chí còn không thú vị bằng một chiếc lá cây.
“Bắt! Bắt!” Manchee sủa, nhưng không đuổi theo con khổng điểu. Tôi chùi nước miếng khỏi mặt và nhìn thấy cô gái đang cười với tôi.
“Cô nghĩ chuyện vừa rồi thật khôi hài, hả?” tôi nói, và cô ta tiếp tục giả vờ như đang không cười, nhưng cô ta có cười. Cô ta quay đi nhặt túi.
“Ừ,” tôi nói, lại ra vẻ cầm đầu. “Chúng ta đã ngủ quá lâu. Phải đi thôi.”
Chúng tôi tiếp tục đi mà không nói với nhau nửa lời, cũng không cười. Không lâu sau, mặt đất đã bắt đầu gồ ghề và khô hơn một chút. Cây cối thưa thớt dần, để mặt trời thi thoảng rọi thẳng vào chúng tôi. Một lúc sau, chúng tôi đến khoảng rừng thưa nhỏ, gần như một cánh đồng, cao dần lên thành một quả đồi thấp nằm ngay phía trên những ngọn cây. Chúng tôi trèo lên và dừng lại ở đỉnh đồi. Cô gái chìa ra một gói hoa quả khác. Bữa sáng. Chúng tôi ăn trong khi vẫn đứng.
Nhìn qua những ngọn cây, con đường phía trước quang đãng. Ngọn núi lớn hơn nằm ở đường chân trời và ta có thể thấy hai ngọn núi nhỏ ở phía xa, đằng sau một lớp sương mù mỏng.
“Đó là hướng chúng ta sẽ đi,” tôi nói, giơ tay chỉ. “Ít nhất là hướng tôi nghĩ chúng ta phải đi.”
Cô ta đặt gói hoa quả xuống và lại lục túi, lấy ra một chiếc ống nhòm nhỏ xịn chưa từng thấy. Chiếc ống nhòm cũ đã vỡ hai năm trước của tôi trông chẳng khác gì hộp đựng bánh mì nếu đem ra so sánh. Cô ta đưa lên mắt một lúc, rồi đưa cho tôi.
Tôi nhận lấy và quan sát hướng chúng tôi đang nhắm đến. Mọi thứ thật rõ ràng. Trải dài trước mặt chúng tôi là một khu rừng xanh rì, uốn lượn theo chân đồi thành những thung lũng, tại nơi mặt đất bắt đầu trở lại là đất thực sự chứ không còn là đầm lầy nhớp nhúa. Ta thậm chí còn nhìn thấy nơi đầm cỏ chuyển trở lại thành sông, cắt xuyên qua những hẻm núi sâu hơn, xa hơn. Nếu lắng tai, ta thậm chí còn có thể nghe thấy nước đang róc rách chảy. Tôi nhìn mãi nhìn mãi mà không thấy bất kỳ khu định cư nào, nhưng ai mà biết thứ gì đang ẩn mình đằng sau những khúc quanh và ngã rẽ. Ai mà biết thứ gì đang đợi chờ phía trước?
Tôi ngoái lại nhìn, vào con đường chúng tôi đã đi qua, nhưng vẫn còn sớm nên sương mù bao phủ phần lớn đầm lầy, che đi mọi thứ, không để lộ điều gì.
“Tuyệt quá,” tôi nói, trả lại ống nhòm. Cô ta cất nó vào túi và chúng tôi đứng đó, tiếp tục ăn.
Chúng tôi đứng cách nhau một cánh tay vì sự yên lặng của cô ta vẫn khiến tôi khó chịu. Tôi nhai một mẩu hoa quả khô và tự hỏi cảm giác sẽ ra sao nhỉ khi không có Tiếng Ồn, khi đến từ một nơi không có Tiếng Ồn? Điều ấy có nghĩa gì? Đó là một nơi thế nào? Có tuyệt vời không? Hay tồi tệ?
Nếu đứng trên đỉnh đồi với một người không có Tiếng Ồn, liệu có giống như bạn đang đứng đó một mình? Bạn sẽ chia sẻ ra sao? Bạn có muốn không? Ý tôi là, chúng tôi đứng đây, cô ta và tôi, đang chạy trốn khỏi hiểm nguy, tương lai vô định, không có Tiếng Ồn chồng lấn lên nhau, không có gì nói cho người này biết điều người kia đang nghĩ. Là như vậy sao?
Tôi ăn hết số hoa quả và vo tròn giấy gói. Cô ta xòe tay ra, nhét đống rác vào túi. Không nói với nhau một lời, chỉ có Tiếng Ồn của tôi và sự yên lặng cùng cực của cô ta.
Bố mẹ tôi có như vậy khi họ vừa hạ cánh? Tân Thế giới có phải là một nơi yên tĩnh trước khi…
Đột nhiên tôi ngước nhìn cô ta.
Trước khi.
Ôi, không.
Tôi thật là một thằng ngu.
Tôi thật là một thằng đại ngu.
Cô ta không có Tiếng Ồn. Và cô ta đến từ một con tàu. Có nghĩa cô ta đến từ một nơi không có Tiếng Ồn, dĩ nhiên rồi, thằng ngu.
Có nghĩa cô ta vừa đáp xuống và chưa mắc phải vi khuẩn Tiếng Ồn.
Có nghĩa khi cô ta mắc phải, thứ vi khuẩn ấy sẽ làm điều nó đã làm với tất cả những người phụ nữ khác.
Nó sẽ giết cô ta.
Nó sẽ giết cô ta.
Tôi nhìn cô ta, và mặt trời đang rọi xuống chúng tôi. Mắt cô ta mỗi lúc một mở lớn khi tôi nghĩ về chuyện đó. Và đó là lúc tôi nhận ra một điều ngu ngốc khác, một điều hiển nhiên khác.
Chỉ vì tôi không thể nghe thấy Tiếng Ồn của cô ta, không có nghĩa cô ta không thể nghe thấy từng từ từng chữ trong đầu tôi.