Chương 12 CÂY CẦU
THỊ TRƯỞNG. Không phải con trai ông ta nữa, mà thực sự là chính thị trưởng. Với chiếc mũ sạch, khuôn mặt nhẵn nhụi, quần áo tươm tất, đôi giày sáng loáng và dáng ngồi thẳng lưng của ông ta. Chúng tôi không thường xuyên nhìn thấy ông ta ở thị trấn Prentiss, không như lúc trước, trừ phi bạn là người thân cận, nhưng mỗi khi gặp, ông ta lúc nào cũng như bây giờ, ngay cả khi nhìn qua một chiếc ống nhòm. Như thể ông ta biết cách chăm sóc bản thân còn bạn thì không.
Tôi nhấn thêm vài nút để phóng to hết mức. Có năm người tất cả. Không, sáu người. Những kẻ bạn thường nghe thấy Tiếng Ồn trong lúc họ tập luyện những bài tập ngớ ngẩn ở nhà thị trưởng. TÔI LÀ NHÓM VÀ NHÓM LÀ TÔI, đại loại vậy. Có ông Collins, ông Maclnerny, ông O’Hare và ông Morgan, tất cả đều cưỡi ngựa. Đó là một cảnh tượng hiếm thấy. Vì ngựa là những sinh vật khó nuôi dưỡng ở Tân Thế Giới và thị trưởng bảo vệ đàn ngựa riêng của ông ta rất nghiêm ngặt với những vệ sĩ mang súng.
Có cả Prentiss Con chết tiệt đi cạnh bố hắn nữa. Mắt hắn thâm quầng vì bị Cillian đấm. Tốt.
Nhưng rồi tôi nhận ra điều đó có nghĩa là chuyện gì xảy ra ở trang trại thì cũng đã kết thúc. Chuyện gì xảy ra với Ben và Cillian thì cũng đã xong rồi. Tôi hạ ống nhòm xuống và nuốt khan.
Tôi lại đưa ống nhòm lên. Nhóm người dừng lại chốc lát và nói chuyện với nhau, nhìn vào một tờ giấy to mà chắc hẳn là tấm bản đồ xịn hơn cái của tôi. Và…
Ôi, quỷ tha ma bắt.
Ôi, quỷ tha ma bắt, đừng có giỡn chứ.
Aaron.
Aaron bước ra khỏi những rặng cây đằng sau họ.
Aaron thối tha, đần độn, máu me be bét.
Gần hết đầu hắn quấn băng, nhưng hắn vẫn bước đi sừng sững trên mặt đất cách ngài thị trưởng không xa, vẫy tay lên trời, trông như thể đang giảng đạo dù không ai lắng nghe.
SAO CÓ THỂ? Làm sao hắn có thể sống sót? Hắn không CHẾT được sao?
Là lỗi của tôi. Là lỗi của tôi. Vì tôi là một thằng hèn. Tôi là một thằng hèn yếu nhớt và ngu ngốc. Vì tôi mà Aaron còn sống, vì tôi mà hắn đang dẫn ngài thị trưởng vượt qua đầm lầy chết tiệt để đuổi theo chúng tôi. Vì tôi đã không giết hắn, nên hắn đến để giết tôi.
Tôi thấy muốn bệnh. Tôi cúi gập người và ôm bụng, khẽ rên rỉ. Máu trong người tôi chảy rần rần đến nỗi Manchee bất giác lùi lại.
“Là lỗi của tao, Manchee,” tôi nói. “Tao đã gây ra chuyện này.”
“Lỗi của Todd,” nó nói, hoang mang lặp lại lời tôi, nhưng chuẩn không cần chỉnh, phải không?
Tôi ép mình tiếp tục nhìn vào ống nhòm và thấy thị trưởng gọi Aaron lại gần. Kể từ khi đàn ông bắt đầu nghe thấy Tiếng Ồn, Aaron nghĩ động vật là những thứ bẩn thỉu và không bao giờ đến gần chúng, nên mất vài lần thị trưởng mới gọi được hắn đến bên hông ngựa để nhìn bản đồ. Hắn lắng nghe trong lúc thị trưởng hỏi điều gì đó.
Rồi hắn nhìn lên.
Qua những ngọn cây đầm lầy và lên trời.
Nhìn thẳng vào ngọn đồi này.
Nhìn thẳng vào tôi.
Hắn không thể nhìn thấy tôi. Không thể nào. Phải không?
Không thể, trừ phi có ống nhòm như của cô gái này và tôi không nhìn thấy toán người ấy có chiếc ống nhòm nào, chưa từng thấy dù chỉ một thứ tương tự ở thị trấn Prentiss. Hẳn rồi. Hắn không thể nhìn thấy tôi.
Nhưng như một thứ tàn nhẫn bất lương, hắn nhấc tay lên chỉ thẳng vào tôi, cứ như thể tôi đang ngồi đối diện hắn ở phía bên kia bàn.
Tôi bỏ chạy trước khi kịp nghĩ, chạy hết tốc lực xuống đồi và tới chỗ cô gái, với tay ra sau lưng lấy con dao, Manchee sủa ầm ĩ dưới chân tôi. Tôi lao vào những rặng cây, xuyên qua bụi rậm, và cô ta vẫn ngồi lắc lư trên tảng đá. Nhưng ít nhất cô ta cũng ngẩng lên nhìn khi tôi đến gần.
“Đi nào!” tôi nói, chộp lấy tay cô ta. “Chúng ta phải đi ngay!” Cô ta giật lùi lại nhưng tôi không buông ra.
“Không!” tôi hét. “Chúng ta phải đi! NGAY LẬP TỨC!” Cô ta thụi vài quả vào mặt tôi.
Nhưng tôi không buông tay.
“NGHE NÀY!” tôi nói và mở Tiếng Ồn cho cô ta. Cô ta đánh thêm một cú rồi nhìn, nhìn vào Tiếng Ồn của tôi, thấy hình ảnh của những gì đang đợi chúng tôi ở đầm lầy. Đính chính, những gì đang không đợi chúng tôi, những gì đang gắng hết sức để đến bắt chúng tôi. Aaron, kẻ không chịu chết, kẻ không ngừng vắt óc nghĩ cách để tìm chúng tôi, và lần này hắn đến cùng những kỵ sĩ. Những kẻ nhanh hơn chúng tôi bội phần.
Mặt cô gái nhăn nhó, như thể cô ta đang phải hứng chịu cơn đau tồi tệ nhất trần đời, và cô ta mở miệng như thể sắp hét lên gì đó, nhưng chẳng có gì thốt ra. Vẫn không có gì. Vẫn không có Tiếng Ồn, không có tiếng động, không một chút gì bắn ra từ người cô ta.
Tôi chẳng tài nào hiểu nổi.
“Tôi không biết đằng trước có gì,” tôi nói. “Tôi không biết cái khỉ khô gì hết, nhưng hẳn phải tốt hơn những gì ở đằng sau. Chắc chắn vậy.”
Và khi cô ta nghe thấy những lời tôi nói, mặt cô ta thay đổi. Sau đó nó lại phẳng như một tờ giấy trắng, và cô ta mím môi.
“Đi! Đi! Đi!” Manchee sủa.
Cô ta xòe tay đòi túi của mình. Tôi đưa nó cho cô ta. Cô ta đứng dậy, nhét ống nhòm vào, đeo túi lên, và nhìn thẳng vào mắt tôi.
“Được rồi,” tôi nói.
Và thế là tôi co giò chạy hết tốc lực về phía dòng sông, lần thứ hai trong vòng hai ngày. Manchee đi cùng tôi, và lần này sau lưng tôi có một cô gái nữa.
Thực ra thì, cô ta gần như chạy ngang hàng với tôi, nhanh như quỷ vậy.
Chúng tôi lại trèo lên đồi và sang phía bên kia. Phần cuối của đầm lầy bắt đầu biến mất, rồi chuyển thành rừng bình thường. Mặt đất cứng hơn và dễ chạy hơn. Đường dốc xuống nhiều hơn là dốc lên, có lẽ là vận may đầu tiên của chúng tôi. Chúng tôi nhìn thấy dòng sông phía bên trái trong lúc chạy. Ba lô liên tục đập vào lưng và tôi thở hổn hển.
Nhưng tôi vẫn nắm chặt dao.
Tôi thề. Tôi thề ngay lúc này trước mặt Chúa hay bất kỳ ai. Nếu Aaron đến gần tôi một lần nữa, tôi sẽ giết hắn. Tôi sẽ không ngần ngại nữa. Không đời nào. Có chết cũng không. Tôi thề.
Tôi sẽ giết hắn.
Tôi sẽ giết hắn như giết một con nhái.
Cứ chờ mà xem.
Mặt đất mà chúng tôi đang chạy ngày một dốc lên, lúc bên trái, lúc bên phải, dẫn chúng tôi qua những thân cây nhỏ và um tùm hơn, ban đầu đưa chúng tôi ra gần với dòng sông, rồi lại đưa ra xa và cứ thế, trong lúc chúng tôi tiếp tục vắt giò lên cổ. Lưỡi Manchee thè ra hổn hển, nẩy lên nẩy xuống. Tim tôi đập cả triệu nhịp và chân như muốn gãy lìa nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục chạy.
Chúng tôi lại ra đến gần bờ sông, và tôi gọi, “Đợi đã.” Cô gái, lúc này đã chạy khá xa trước mặt tôi, dừng lại. Tôi chạy đến bờ sông, nhìn quanh đề phòng cá sấu, rồi cúi xuống múc một hớp nước đầy vào miệng. Ngọt hơn bình thường. Ai mà biết trong nước có gì, khi nó chảy ra từ đầm lầy, nhưng cứ phải uống. Tôi cảm thấy sự im lặng của cô gái cúi xuống bên cạnh trong lúc cô ta cũng uống. Tôi nhích ra một chút. Manchee vục mõm liếm và bạn có thể nghe thấy cả ba thở hổn hển giữa những tiếng xì xụp.
Tôi ngước lên nhìn nơi chúng tôi đang nhắm đến, lấy tay chùi miệng. Mặt đất cạnh dòng sông bắt đầu trở nên gồ ghề, quá dốc để chạy, và tôi có thể thấy một lối đi từ bờ sông dẫn lên đỉnh khe núi.
Tôi chớp chớp mắt khi nhận ra.
Tôi thấy một lối đi. Có người đã làm một lối đi.
Cô gái quay lại nhìn. Lối đi dẫn lên cao và xuôi theo dòng sông đang càng lúc càng dốc xuống, sâu và xiết hơn, rồi cuối cùng thành ghềnh. Có người đã làm một lối đi.
“Hẳn là đường đến khu định cư,” tôi nói. “Hẳn là vậy.”
Và rồi, tôi nghe thấy tiếng vó ngựa từ xa. Lờ mờ, nhưng đang trên đường đến.
Tôi không nói thêm nửa lời vì chúng tôi đã vắt giò lên cổ chạy tiếp. Dòng sông đổ xa hơn và xa hơn bên dưới chúng tôi, ngọn núi to hơn xuất hiện ở phía bên kia sông. Phía bên này, một khu rừng rậm bắt đầu trải ra từ đỉnh vách. Lối đi rõ ràng đã được làm để người ta có thể đi tiếp qua con thác.
Nó thừa rộng cho ngựa chạy qua. Thậm chí thừa rộng để năm, sáu con ngựa chạy qua.
Tôi nhận ra nó không phải là một lối đi. Nó là một con đường.
Chúng tôi chạy theo con đường uốn lượn, cô gái chạy trước, tôi chạy sau, rồi đến Manchee.
Cho đến khi tôi suýt đâm vào người cô ta và đẩy cô ta khỏi con đường.
“Cô đang làm gì vậy?” tôi thét lên, chộp lấy tay cô ta để cả hai không rớt xuống vách đá, gắng không để con dao vô tình giết chết cô ta.
Rồi tôi nhìn thấy thứ cô ta đang nhìn.
Một cây cầu, tít phía trước chúng tôi. Nó nối bên này với bên kia vách núi, bắc qua dòng sông, phải đến ba mươi, bốn mươi mét phía trên dòng sông. Con đường, hay lối đi, hay bất kể thứ gì bên phía chúng tôi dừng lại tại cây cầu, xung quanh chỉ còn đá và khu rừng dày đặc. Chẳng có lối nào khác để đi ngoài cây cầu.
Những ý nghĩ đầu tiên bắt đầu hình thành.
Tiếng vó ngựa đang lớn dần. Tôi ngoái lại nhìn và thấy những đám mây bụi bay lên từ nơi thị trưởng đang đuổi theo.
“Đi nào!” tôi nói, chạy qua mặt cô ta, nhắm đến cây cầu nhanh hết mức có thể. Chúng tôi chạy trên đường, cũng khiến bụi bay lên mù mịt, hai tai Manchee thốc ra sau, nó phi như ngựa. Chúng tôi đến nơi và thấy rằng đây không chỉ là một cây cầu đi bộ. Nó rộng ít nhất hai mét. Trông chỉ thấy chằng chịt dây buộc vào cọc gỗ đóng vào đá ở hai đầu, ván gỗ buộc chặt chạy dài sang phía bên kia.
Tôi thử giậm chân lên, nhưng mặt cầu chắc chắn đến nỗi không thèm nẩy lại. Đủ để tôi, một cô gái, và một con chó đi qua.
Thậm chí đủ để những kẻ cưỡi ngựa phi qua.
Dù ai đã xây nó, thì cũng có ý định dùng nó lâu dài.
Tôi ngoái lại nhìn xuống dòng sông nơi chúng tôi đã chạy qua. Nhiều bụi hơn, tiếng vó ngựa to hơn, và lời thì thầm từ Tiếng Ồn của những kẻ truy đuổi đang đến gần. Tôi nghĩ mình đã nghe thấy Nhóc Todd nhưng chắc hẳn tôi đang tưởng tượng vì Aaron còn ở tít đằng sau do phải đi bộ.
Nhưng tôi đã thấy thứ mình muốn thấy: cây cầu là cách duy nhất để vượt sông, từ nơi chúng tôi đã chạy qua tới vài cây số trước mặt.
Có lẽ một mẩu vận may khác đang đến với chúng tôi.
“Đi nào,” tôi nói. Chúng tôi chạy qua cầu, nó được dựng rất chắc chắn, thậm chí không thể nhìn thấy khe hở giữa những thanh ván. Chẳng khác gì đi trên mặt đất. Chúng tôi sang đến đầu bên kia và cô gái dừng lại, quay sang tôi, hẳn đã nhìn thấy ý tưởng trong Tiếng Ồn của tôi và đứng đợi tôi thực hiện.
Con dao vẫn nằm trên tay tôi. Sức mạnh trên tay tôi.
Có lẽ cuối cùng tôi cũng có thể sử dụng nó một cách hiệu quả.
Tôi nhìn đầu cầu đang được buộc vào những cây cọc cắm chặt vào đá phía bên này. Con dao có một phần răng cưa đáng sợ, nên tôi chọn nút thắt dễ nhằn nhất và bắt đầu cứa.
Tôi cứa rồi lại cứa.
Tiếng vó ngựa đến gần hơn, vọng qua hẻm núi.
Nhưng nếu đột nhiên không còn cây cầu nào nữa…
Tôi cứ cứa.
Rồi cứa.
Rồi cứa.
Và tôi chẳng cứa được một chút nào.
“Cái quái gì vậy?” tôi thốt lên, nhìn vào chỗ đang đưa dao nãy giờ. Chẳng có lấy một vết xước. Tôi chạm ngón tay vào phần răng cưa của con dao. Nó chọc vào tay tôi, khiến tôi chảy máu gần như ngay lập tức. Tôi nhìn kỹ sợi dây buộc. Dường như nó được tráng một lớp nhựa chết tiệt nào đó.
Loại nhựa chết tiệt cứng, như thép, không thể cắt đứt.
“Không thể tin được,” tôi nói, ngước lên nhìn cô gái.
Cô ta đang chĩa ống nhòm về phía chúng tôi đã đi qua dưới dòng sông.
“Cô có nhìn thấy họ không?”
Tôi nhìn xuống dòng sông, và bạn không cần đến ống nhòm để thấy họ. Chỉ cần mắt thường cũng thấy. Họ vẫn còn cách một quãng đường nhưng đang đến gần hơn và không hề giảm tốc độ, vó ngựa rền vang như không có ngày mai.
Chúng tôi có ba phút. Nhiều nhất là bốn.
Chết tiệt.
Tôi tiếp tục cứa, nhanh và mạnh hết sức bình sinh, dồn hết lực vào tay. Mồ hôi chảy ra như tắm và những cơn đau mới hình thành để làm bạn với những cơn đau cũ. Tôi cứa và cứa rồi lại cứa, mồ hôi chảy từ mũi xuống dao.
“Nào, nào,” tôi nói qua kẽ răng.
Tôi nhấc dao lên. Tôi đã cứa đứt một vết nhựa tí hon ở một chỗ tí hon trên cả cây cầu bự chảng.
“Quỷ tha ma bắt!” tôi nhổ nước bọt.
Tôi tiếp tục cứa và cứa và cứa. Rồi lại cứa và cứa, mồ hôi chảy vào mắt cay sè.
“Todd!” Manchee sủa, lời cảnh báo của nó ầm lên khắp nơi.
Tôi lại cứa, và cứa.
Nhưng điều duy nhất xảy ra là con dao bị vướng và tôi va khớp tay vào cột gỗ, bật máu.
“CHẾT TIỆT!” tôi hét lên, ném con dao xuống. Nó nẩy lên, rồi rớt xuống ngay dưới chân cô gái. “CHẾT TIỆT!”
Thế là xong, phải không?
Đây là kết thúc của mọi chuyện.
Cơ hội ngu ngốc duy nhất của chúng tôi rốt cuộc chẳng phải là cơ hội nào cả.
Chúng tôi không thể chạy nhanh hơn ngựa và không thể cứa đổ cây cầu bự chảng ngớ ngẩn. Chúng tôi sẽ bị bắt. Ben và Cillian đã chết, và chúng tôi cũng sắp phải bỏ mạng. Thế giới sẽ kết thúc, hết chuyện.
Một màu đỏ hừng hực bao trùm Tiếng Ồn của tôi, không hề giống bất kỳ thứ gì tôi từng cảm thấy, đột ngột và thô sơ, như một cây sắt nung đỏ rực gí vào tôi, một khối đỏ sáng bừng của mọi thứ khiến tôi đau đớn không ngừng, một cơn thịnh nộ gào thét của bất công và phi lý, của dối trá.
Của mọi thứ, dồn vào một thứ.
Tôi ngước lên nhìn cô gái và cô ta lùi lại trước vẻ hằn học trong ánh mắt tôi.
“Cô,” tôi nói, không gì có thể ngăn được tôi. “Tất cả là tại cô! Nếu cô không xuất hiện ở đầm lầy chết tiệt ấy, tất cả những chuyện này sẽ không xảy ra! Và giờ tôi sẽ được ở nhà! Tôi sẽ chăm đàn cừu chết tiệt và sống trong căn nhà chết tiệt, ngủ trên chiếc giường CHẾT TIỆT của mình!”
“Nhưng, ồ KHÔNG,” tôi thét lên, ngày càng lớn hơn. “CÔ ở đây! CÔ và sự IM LẶNG của cô! Và cả thế giới ĐIÊN ĐẢO!”
Tôi không nhận ra mình đang đến gần cô ta cho đến khi nhìn thấy cô ta lùi lại. Nhưng cô ta chỉ nhìn tôi.
Và tôi không nghe thấy một điều chết tiệt nào hết.
“Cô CHẲNG LÀ GÌ CẢ!” tôi gào lên, tiếp tục lại gần. “CHẲNG LÀ GÌ! Cô chẳng là gì ngoài TRỐNG RỖNG! Trong cô chẳng có gì! Cô TRỐNG RỖNG và VÔ DỤNG và chúng ta sẽ chết mà CHẲNG vì CÁI GÌ CẢ!”
Tôi nắm tay chặt đến nỗi móng cắt vào lòng bàn tay. Tôi đang nổi cơn tam bành, Tiếng Ồn của tôi gầm lên dữ dội, đỏ rực, khiến tôi phải giơ nắm đấm lên với cô ta, phải đánh cô ta, phải nện cô ta, phải khiến sự im lặng chết tiệt của cô ta ngừng lại trước khi nó NUỐT CHỬNG TÔI VÀ CẢ THẾ GIỚI!
Tôi giơ tay tự đấm mạnh vào mặt mình.
Tôi lặp lại, đấm con mắt sưng mọng do bị Aaron đánh.
Lần thứ ba, tôi làm nứt vết cắt đã đóng vảy trên môi do bị Aaron đấm sáng hôm qua.
Mày là thằng ngu, thằng vô dụng, thằng ngu chết tiệt.
Tôi lại đấm, mạnh đến mức loạng choạng. Tôi ngã sõng soài và tự làm mình trầy xước, nhổ máu xuống đường.
Tôi ngước lên nhìn cô ta, thở gấp.
Chẳng có gì. Chỉ nhìn tôi và vẫn chẳng có gì.
Cả hai chúng tôi quay lại nhìn bên kia dòng sông. Bọn chúng đã đến chỗ có thể nhìn thấy rõ cây cầu. Nhìn thấy rõ chúng tôi. Chúng tôi cũng có thể nhìn thấy mặt của từng người trong lúc chúng cưỡi ngựa, nghe thấy Tiếng Ồn ríu rít khi chúng phóng từ dưới dòng sông về phía chúng tôi. Ông Maclnemy, kỵ sĩ cừ khôi nhất của thị trưởng, đang dẫn đầu, thị trưởng ngay sát phía sau, trông bình tĩnh như thể đây chẳng khác gì một cuộc cưỡi ngựa ngày Chủ nhật.
Có lẽ chúng tôi còn một phút, hoặc ít hơn.
Tôi quay sang cô gái, tìm cách đứng dậy, nhưng tôi đã quá mệt. Quá, quá mệt. “Chúng ta nên chạy thì hơn,” tôi nói, nhổ thêm chút máu. “Cứ thử xem sao.”
Và tôi thấy vẻ mặt cô ta thay đổi.
Miệng cô ta mở lớn, mắt cũng vậy, rồi đột nhiên cô ta cởi túi và thọc tay vào đó.
“Cô đang làm gì thế?” tôi hỏi.
Cô ta lấy chiếc hộp nhóm lửa, nhìn quanh quất cho đến khi tìm được một hòn đá bự. Cô ta đặt chiếc hộp xuống và nhấc hòn đá lên.
“Khoan, đợi đã, chúng ta có thể dùng…”
Cô ta đập hòn đá xuống, làm chiếc hộp nứt ra. Cô ta nhặt cái hộp lên, vặn mạnh cho đến khi nó nứt thêm. Từ bên trong chảy ra một thứ dung dịch. Cô ta lại gần cây cầu và rải thứ dung dịch ấy lên khắp các nút thắt của cây cột gần nhất, trút những giọt cuối cùng xuống thành vũng dưới chân cột.
Các kỵ sĩ đang đến gần cây cầu, gần hơn, gần hơn, gần hơn nữa…
“Nhanh lên!” tôi thúc giục.
Cô gái quay sang tôi, dùng tay ra hiệu cho tôi lùi lại. Tôi lảo đảo lùi bước một chút, chộp lấy gáy Manchee và kéo nó theo. Cô ta lùi xa hết mức có thể, xòe những gì còn sót lại của chiếc hộp ở khoảng cách một cánh tay và nhấn nút. Tôi nghe thấy tiếng lạch cạch. Cô ta ném chiếc hộp và nhảy về phía tôi.
Các kỵ sĩ đã đến cây cầu.
Cô gái đáp xuống, suýt đè lên người tôi, và chúng tôi nhìn chiếc hộp lửa rơi xuống…
Rơi xuống…
Rơi xuống…
Về phía vũng chất lỏng, kêu lạch cạch trong lúc rơi…
Ngựa của ông Maclnemy đặt một chân lên cây cầu…
Chiếc hộp lửa đáp xuống vũng chất lỏng…
Kêu thêm một tiếng…
Rồi…
PHỤT!!!
Không khí bị hút khỏi lồng ngực tôi lúc cột lửa bùng lên lớn hơn những gì bạn nghĩ một chút chất lỏng có thể tạo thành, khiến thế giới yên lặng trong giây lát rồi…
BÙM!!!
Nó nuốt trọn đám dây và cây cọc, bắn các mảnh vỡ ngùn ngụt lửa lên khắp chúng tôi và xóa sạch mọi suy nghĩ, mọi Tiếng Ồn và âm thanh.
Khi chúng tôi có thể ngước nhìn trở lại, cây cầu đã cháy dữ dội tới mức nó nghiêng về một phía, và chúng tôi thấy ngựa của ông Maclnemy lùi lại, lảo đảo về hướng bốn, năm con ngựa khác đang phóng tới.
Ngọn lửa gầm lên một màu xanh rực kỳ quái và luồng nhiệt ập đến bất chợt thật phi thường, như thể bạn phải chịu đựng một trận cháy nắng tồi tệ nhất. Và đúng lúc tôi nghĩ có khi chúng tôi cũng sẽ bị bén lửa thì phía bên này của cây cầu rớt xuống, mang theo ông Maclnemy và ngựa của ông ta. Chúng tôi ngồi dậy nhìn họ rớt xuống dòng sông bên dưới, quá sâu để có thể sống sót. Cây cầu vẫn dính ở đầu bên kia nhưng nó đang cháy dữ dội, không lâu nữa sẽ chẳng còn lại gì ngoài tro tàn. Thị trưởng và Prentiss Con cùng những người khác phải lùi lại.
Cô gái trượt khỏi người tôi và chúng tôi nằm đó trong giây lát, chỉ thở và ho, cố ngừng cảm giác choáng váng.
Quỷ tha ma bắt.
“Mày ổn chứ?” tôi hỏi Manchee, tay tôi vẫn nắm chặt nó.
“Lửa, Todd!” nó sủa.
“Ừ,” tôi ho. “Lửa lớn. Cổ ổn chứ?” tôi hỏi cô gái, lúc này vẫn đang khom mình ho sặc sụa. “Thánh thần thiên địa ơi, thứ gì ở trong chiếc hộp đó vậy?”
Nhưng dĩ nhiên cô ta không nói nửa lời.
“TODD HEWITT!” tôi nghe có tiếng gọi từ phía bên kia hẻm núi.
Tôi ngước lên nhìn. Là thị trưởng, đang gào lên những từ đầu tiên mà ông ta trực tiếp nói với tôi, trông lập lờ gọn sóng qua làn khói và nhiệt.
“Chúng ta chưa xong chuyện đâu, nhóc Todd,” ông ta gọi, trong tiếng lách tách của cây cầu đang bốc cháy và tiếng gầm của dòng nước bên dưới. “Chưa hề xong.”
Thị trưởng vẫn bình tĩnh và sạch sẽ, và có cái vẻ không đời nào ông ta không đạt được thứ mình muốn.
Tôi đứng dậy, giơ tay ra chia hai ngón nguyền rủa ông ta, nhưng ông ta đã biến mất sau những đám mây khói khổng lồ.
Tôi ho và lại nhổ ra máu. “Chúng ta phải đi thôi,” tôi nói, lại ho thêm. “Có thể chúng sẽ quay về, có thể không còn đường nào khác để băng qua, nhưng chúng ta không nên đợi để kiểm chứng.”
Tôi nhìn thấy con dao trong đám bụi. Sự tủi hổ ùa đến, như một cơn đau mới. Những điều tôi đã nói. Tôi cúi xuống nhặt nó lên và nhét vào vỏ.
Cô gái vẫn cúi đầu, ho sặc sụa. Tôi nhặt túi lên cho cô ta và chìa nó ra.
“Đi nào,” tôi nói. “Ít nhất chúng ta phải tránh đám khói.”
Cô ta ngước nhìn tôi.
Tôi nhìn lại.
Mặt đỏ ửng mà không phải vì nhiệt.
“Tôi xin lỗi.” Tôi quay mặt đi, không nhìn vào mắt hay khuôn mặt cô ta, vẫn trống rỗng và lặng lẽ như bấy giờ.
Tôi quay sang nhìn con đường.
“Viola,” tôi nghe thấy.
Tôi xoay người, nhìn cô ta.
“Gì cơ?” tôi hỏi.
Cô ta nhìn tôi.
Cô ta mở miệng.
Cô ta đang nói.
“Tên tôi,” cô ta nói. “Là Viola.”