← Quay lại trang sách

PHẦN III Chương 13 VIOLA

TÔI KHÔNG NÓI GÌ suốt một phút. Cô ta cũng không nói. Ngọn lửa vẫn cháy, khói vẫn bay lên, lưỡi Manchee thè ra, hổn hển choáng váng. Cuối cùng tôi nói, “Viola.”

Cô ta gật đầu.

“Viola,” tôi lặp lại.

Lần này cô ta không gật nữa.

“Tôi là Todd,” tôi nói.

“Tôi biết,” cô ta đáp.

Cô ta không nhìn vào mắt tôi.

“Vậy là cô biết nói?” tôi hỏi, nhưng cô ta chỉ nhìn tôi thật nhanh rồi quay mặt đi. Tôi quay sang cây cầu vẫn bốc cháy, sang cột khói đang chuyển thành lớp sương mù dày đặc giữa chúng tôi và phía bên kia dòng sông, tự hỏi không biết nó có khiến tôi cảm thấy an toàn hơn hay không, tự hỏi việc không nhìn thấy thị trưởng và người của ông ta có tốt hơn nhìn thấy. “Lúc nãy…” tôi chực mở miệng, nhưng cô ta đã đứng dậy xòe tay đòi túi.

Tôi nhận ra mình vẫn đang cầm nó. Tôi trả nó cho cô ta.

“Chúng ta nên đi thôi,” cô ta nói. “Tránh xa khỏi đây.”

Giọng cô ta thật buồn cười, khác giọng tôi, khác tất cả mọi người ở thị trấn Prentiss. Môi cô ta tạo thành những hình dáng khác nhau cho từng chữ, như thể chúng ập xuống những chữ đó từ trên cao, ép thành hình, lệnh cho chúng phải nói. Ở thị trấn Prentiss, mọi người nói như thể họ đang lén lút tiến lại đằng sau các chữ, sẵn sàng đánh úp chúng bất thình lình.

Manchee hoàn toàn thần tượng cô ta. “Tránh xa,” nó sủa, chậm rãi, nhìn cô ta chằm chằm như thể cô ta được làm từ thức ăn.

Tưởng như tôi có thể bắt đầu hỏi cô ta đủ thứ chuyện, khi giờ đây cô ta đã chịu mở miệng và tôi có thể tra hỏi mọi điều mình nghĩ đến, như cô ta là ai, cô ta từ đâu tới, chuyện gì đã xảy ra, và những câu hỏi đó vương đầy trong Tiếng Ồn của tôi, bay vào cô ta như những viên đạn nhỏ, nhưng có quá nhiều thứ muốn chui ra khỏi miệng tôi đến mức không thứ gì lọt ra được và miệng tôi chẳng nhúc nhích. Cô ta đeo túi lên vai, nhìn xuống đất, rồi bước qua mặt tôi, qua mặt Manchee, lên đường đi tiếp.

“Này,” tôi nói.

Cô ta dừng lại và quay người.

“Đợi tôi.”

Tôi nhặt ba lô lên đeo qua vai. Tôi ấn tay lên con dao đang nằm trong vỏ ở thắt lưng. Tôi nhún vai chỉnh ba lô, rồi nói, “Đi nào, Manchee.” Và thế là chúng tôi tiến bước, đi theo cô ta.

Phía bên này sông, con đường từ từ rẽ xa khỏi vách đá, hướng đến nơi trông như lãnh địa của những bụi cây, dần tránh xa ngọn núi lớn hơn đang sừng sững đổ bóng xuống chúng tôi từ bên trái.

Ở chỗ rẽ, cả hai chúng tôi không nói mà cùng dừng và nhìn lại. Cây cầu, ngạc nhiên thay, vẫn rực lửa, bám vào phía bên kia vách đá như một thác nước đang bốc cháy, lửa nuốt trọn chiều dài của nó, giận dữ và có màu vàng phớt xanh. Khói dày đặc nên không thể biết thị trưởng và người của ông ta đang làm gì, đã làm gì, đã đi hay vẫn còn đợi. Hình như có tiếng thì thầm của Tiếng Ồn vọng qua, cũng có thể không phải, vì ngọn lửa đang cháy dữ dội và gỗ kêu lách tách, chưa kể dòng nước xiết bên dưới. Trong lúc chúng tôi nhìn, ngọn lửa đã hoàn thành công việc của mình với những cây cọc phía bên kia sông, và sau một tiếng rắc, cây cầu rớt xuống, rơi, rơi, kêu lách cách khi đập vào vách đá, đáp mạnh xuống dòng sông, làm bốc lên nhiều đám mây khói và hơi nước, khiến mọi thứ còn mù mịt hơn nữa.

“Thứ gì ở trong cái hộp đó vậy?” tôi hỏi cô ta.

Cô ta nhìn tôi, mở miệng, rồi khép lại, quay mặt đi.

“Đừng lo,” tôi nói. “Tôi không làm hại cô đâu.”

Cô ta lại nhìn tôi và Tiếng Ồn của tôi đầy những hình ảnh của vài phút trước, khi tôi đang chuẩn bị làm hại cô ta, khi tôi chuẩn bị…

Dù sao thì.

Chúng tôi không nói thêm gì nữa. Cô ta quay lại con đường, còn tôi và Manchee đi theo.

Biết cô ta có thể nói cũng chẳng làm sự im lặng bớt khó chịu. Biết cô ta có từ ngữ trong đầu cũng chẳng có nghĩa lý gì khi bạn chỉ nghe thấy chúng lúc cô ta nói. Nhìn gáy cô ta trong lúc đi, tôi vẫn cảm thấy tim mình bị kéo lại gần sự im lặng của cô ta, vẫn cảm thấy như thể mình đã đánh mất một điều khủng khiếp nào đó, một điều quá buồn đến nỗi tôi muốn khóc.

“Khóc,” Manchee sủa.

Gáy cô ta tiếp tục đi.

Con đường vẫn khá rộng, đủ rộng cho ngựa chạy qua, nhưng địa hình xung quanh đang trở nên gồ ghề, khúc khuỷu hơn. Có thể nghe thấy dòng sông bên dưới từ cánh phải, nhưng dường như chúng tôi đang đi xa khỏi nó, tiến sâu hơn vào khu vực được vây quanh bởi những bức tường đá, như thể đang đi dưới đáy một chiếc hộp. Những cây linh sam nhỏ đầy gai mọc ra từ mọi kẽ mít, cây leo màu vàng có gai cuốn quanh thân. Bạn có thể nghe thấy bọn thằn lằn gai vàng rít lên trong lúc bọn tôi đi qua. Cắn. chúng nói, như để cảnh báo. Cắn. Cắn.

Bất kể thứ gì bạn muốn chạm vào ở đây cũng có thể cứa da cứa thịt bạn.

Sau khoảng hai mươi, ba mươi phút, con đường mở rộng hơn. Vài cái cây thực sự dần tái xuất hiện, khu rừng có vẻ lại bắt đầu, có cỏ và đá đủ thấp để ngồi lên. Và đó là điều chúng tôi làm. Ngồi.

Tôi lấy thịt cừu khô ra khỏi ba lô và dùng dao cắt thành từng dải cho tôi, Manchee và cô gái. Cô ta nhận lấy chúng mà không nói nửa lời. Chúng tôi ngồi xa nhau trong yên lặng và ăn.

Tôi là Todd Hewitt, tôi nghĩ, vừa nhắm mắt vừa nhai, cảm thấy xấu hổ vì Tiếng Ồn khi giờ đã biết cô ta có thể nghe thấy nó, có thể nghĩ về nó.

Âm thầm nghĩ về nó.

Tôi là Todd Hewitt.

Tôi sẽ trở thành đàn ông sau hai mươi chín ngày nữa.

Tôi nhận ra sự thật đó và mở mắt. Thời gian tiếp tục trôi đi, ngay cả khi bạn không để ý.

Tôi cắn thêm một miếng. “Tôi chưa từng nghe cái tên Viola bao giờ,” tôi nói sau một hồi, chỉ nhìn xuống đất, chỉ nhìn vào dải thịt cừu. Cô ta không nói gì nên tôi ngước lên, dù không muốn.

Và thấy cô ta đang nhìn lại.

“Sao?” tôi hỏi.

“Mặt cậu,” cô ta nói.

Tôi cau mày. “Mặt tôi thì sao?”

Cô ta nắm hai tay lại, giả đò tự đấm vào mặt.

Tôi cảm thấy mặt đỏ bừng, “Ừ, thì.”

“Và cả lúc trước,” cô ta nói. “Do…” cô ta ngừng lại.

“Aaron,” tôi nói.

“Aaron,” Manchee sủa và cô gái khẽ rùng mình.

“Đó là tên hắn,” cô ta nói. “Phải không?”

Tôi gật đầu, và nhai thịt cừu. “Phải,” tôi đáp. “Đó là tên hắn.”

“Hắn không nói ra. Nhưng tôi lại biết tên hắn.”

“Chào mừng đến với Tân Thế giới.” Tôi cắn thêm một miếng, dùng răng xé phần thịt dai hơn, nó cọ vào một trong nhiều vết sưng ở miệng. “Ối.” Tôi nhổ miếng thịt cừu và cả đống máu ra.

Cô gái nhìn tôi rồi đặt đồ ăn xuống. Cô ta nhặt túi lên, mở ra tìm chiếc hộp nhỏ màu xanh lam to hơn hộp lửa màu xanh lục một chút. Cô ta nhấn nút phía trên để mở hộp, rồi lấy ra một thứ trông như miếng vải nhựa màu trắng và một con dao nhỏ bằng kim loại. Cô ta đứng dậy, cầm chúng lại gần tôi.

Tôi vẫn ngồi nhưng ngả lưng về phía sau trong lúc cô ta đưa tay lên mặt tôi.

“Băng gạc,” cô ta nói.

“Tôi cũng có.”

“Thứ này tốt hơn.”

Tôi ngả người xa hơn. “Sự…” tôi nói, thở mạnh qua lỗ mũi. “Sự im lặng của cô…” tôi khẽ lắc đầu.

“Khiến cậu khó chịu?”

“Phải.”

“Tôi biết,” cô ta nói. “Đừng cử động.”

Cô ta nhìn kỹ hơn chỗ sưng trên mắt tôi rồi dùng dao cắt một miếng băng gạc. Cô ta chực đặt nó lên nhưng tôi không cưỡng được mà lùi lại khi cô ta chạm vào. Cô ta không nói gì, chỉ giữ tay như thể đang chờ đợi. Tôi thở sâu, nhắm mắt, rồi giơ mặt ra.

Tôi cảm thấy miếng băng gạc chạm vào chỗ sưng và ngay lập tức nó dịu đi, ngay lập tức cơn đau lịm dần, như thể những sợi lông vũ đã quét nó đi mất. Cô ta đặt một miếng khác lên vết rách ở đường chân tóc, những ngón tay lướt qua mặt tôi trong lúc cô ta đặt một miếng nữa ngay dưới môi. Cảm giác tuyệt đến nỗi tôi không mở được mắt ra.

“Tôi không có thứ gì cho răng của cậu,” cô ta nói.

“Không sao,” tôi đáp, gần như thì thầm. “Chà, quả thật tốt hơn của tôi.”

“Chúng là đồ bán sinh,” cô ta nói. “Tế bào con người nhân tạo. Khi cậu khỏi, chúng sẽ chết.”

“Ừ,” tôi trả lời, vờ như thể tôi biết điều đó nghĩa là gì.

Im lặng bao trùm, đủ lâu để khiến tôi lại mở mắt. Cô ta lùi lại, lựa một tảng đá có thể ngồi xuống và nhìn tôi, nhìn mặt tôi.

Chúng tôi đợi. Vì có vẻ chúng tôi nên làm vậy.

Và quả thật, sau một hồi chờ đợi, cô ta lên tiếng.

“Chúng tôi đã gặp tai nạn,” cô ta nói khẽ, quay mặt đi chỗ khác. Rồi cô ta đằng hắng và lại nói. “Chúng tôi đã rớt xuống. Tàu bị cháy nhưng vì đang bay thấp nên chúng tôi nghĩ sẽ không có vấn đề gì. Nhưng rồi các máng an toàn gặp trục trặc và…” Cô ta xòe tay để diễn tả những gì xảy ra sau chữ và. “Chúng tôi rớt xuống.”

Cô ta dừng lại.

“Những người đó là bố mẹ cô ư?” tôi hỏi sau một hồi im lặng.

Nhưng cô ta chỉ ngước lên nhìn bầu trời xanh quang đãng với những đám mây trông như các lóng xương. “Rồi khi mặt trời lên,” cô ta nói, “gã đó đến.”

“Aaron.”

“Thật kỳ quái. Hắn quát tháo, gào thét, rồi bỏ đi. Còn tôi tìm cách bỏ chạy.” Cô ta khoanh tay. “Tôi không ngừng tìm cách bỏ chạy để hắn không tìm được tôi, nhưng tôi cứ đi vòng quanh và bất kể tôi trốn ở đâu, hắn cũng tìm thấy, tôi không biết bằng cách nào, cho đến khi tôi tìm thấy những căn lán đó.”

“Tòa nhà của Xú Vật,” tôi nói nhưng cô ta không thực sự lắng nghe.

Cô ta nhìn tôi. “Rồi cậu đến.” Cô ta nhìn Manchee. “Cậu và con chó biết nói.”

“Manchee!” Manchee sủa.

Mặt cô ta tái nhợt, và khi cô ta nhìn vào mắt tôi, mắt cô ta đã ướt nhòe. “Tại sao động vật lại biết nói? Tại sao tôi nghe thấy tiếng cậu ngay cả khi miệng cậu không hề động đậy? Tại sao tôi nghe thấy tiếng cậu đầy hỗn độn, chồng lên nhau như thể có chín triệu người như cậu đang lên tiếng cùng một lúc? Tại sao tôi thấy hình ảnh của những thứ khác khi nhìn cậu? Tại sao tôi có thể nhìn thấy người đàn ông đó…”

Cô ta ngưng bặt, rụt đầu gối lại và ôm gối. Tôi cảm thấy như mình phải lên tiếng ngay bằng không cô ta sẽ lại lắc lư.

“Chúng tôi là những người định cư,” tôi bắt đầu giải thích. Cô ta ngước lên nhìn, vẫn ôm gối nhưng ít nhất không lắc lư. “Chúng tôi đã là những người định cư,” tôi tiếp tục. “Đáp xuống đây và tìm thấy Tân Thế giới khoảng hai mươi năm trước. Nhưng ở đây có người ngoài hành tinh. Xú Vật. Và họ… không muốn chúng tôi.” Tôi kể cho cô ta nghe câu chuyện mà bất kỳ thằng nhóc nào ở thị trấn Prentiss cũng biết, lịch sử mà thậm chí thằng nhóc nông dân ngu ngốc nhất như tôi cũng tường tận. “Con người đã tìm cách hòa giải suốt nhiều năm nhưng Xú Vật không chịu. Nên chiến tranh nổ ra.” Cô ta lại cụp mắt xuống trước từ chiến tranh. Tôi tiếp tục nói. “Và cách Xú Vật chiến đấu là dùng vi khuẩn, và dịch bệnh. Đó là vũ khí của chúng. Chúng thả các loại vi khuẩn gây bệnh. Một trong số đó, theo chúng tôi đoán, là để giết gia súc của chúng tôi, nhưng thay vào đó lại khiến động vật biết nói.” Tôi nhìn Manchee. “Một việc không thú vị như tưởng tượng.” Tôi lại nhìn cô gái. “Và một loại vi khuẩn khác là Tiếng Ồn.”

Tôi đợi. Cô ta chẳng nói gì. Nhưng cả hai chúng tôi đều biết chuyện gì sắp xảy đến, vì chúng tôi đã trải qua việc này trước đó, phải không?

Tôi thở sâu. “Nó đã giết nửa số đàn ông và toàn bộ đàn bà, bao gồm mẹ tôi, khiến mọi suy nghĩ của những người đàn ông sống sót không còn là bí mật với phần còn lại của thế giới.”

Cô ta che cằm giữa hai đầu gối. “Đôi lúc tôi nghe thấy một cách rõ ràng,” cô ta nói. “Đôi lúc tôi biết chính xác cậu đang nghĩ gì. Nhưng chỉ đôi lúc. Còn hầu hết chỉ…”

“Chỉ là Tiếng Ồn,” tôi tiếp lời.

Cô ta gật đầu. “Còn người ngoài hành tinh?”

“Không còn người ngoài hành tinh nào nữa.”

Cô ta lại gật đầu. Chúng tôi ngồi im lặng, tảng lờ điều hiển nhiên cho đến khi không thể tảng lờ được nữa.

“Tôi sẽ chết ư?” cô ta hỏi khẽ. “Nó sẽ giết tôi ư?”

Những lời ấy nghe có vẻ khác lạ vì được nói ra bằng giọng của cô ta, nhưng chúng có cùng một nghĩa chết tiệt, và Tiếng Ồn của tôi chỉ biết nói rằng có khả năng, nhưng tôi gắng thốt lên, “Tôi không biết.”

Cô ta vẫn nhìn tôi.

“Tôi thực sự không biết,” tôi nói, gần như tin điều đó. “Nếu cô hỏi tôi tuần trước, tôi sẽ chắc chắn, nhưng hôm nay…” tôi nhìn xuống ba lô, xuống cuốn sách đang giấu bên trong. “Tôi không biết.” Tôi lại nhìn cô ta. “Tôi hy vọng không.”

Nhưng có khả năng, Tiếng Ồn của tôi nói. Có khả năng cô sẽ chết, và mặc dù tôi tìm cách che giấu nó bằng Tiếng Ồn khác, nó vẫn là một điều thật bất công đến mức khó mà không đẩy nó ra phía trước.

“Tôi xin lỗi.”

Cô ta chẳng nói gì.

“Nhưng có thể nếu chúng ta đến được khu định cư tiếp theo…” tôi nói, nhưng không dứt lời vì không biết câu trả lời. “Cô chưa bị bệnh. Đó là một dấu hiệu khả quan.”

“Cháu phải cảnh báo họ,” cô ta nói, nhìn xuống đầu gối.

Tôi ngước phắt lên nhìn. “Gì cơ?”

“Lúc nãy, khi cậu cố đọc cuốn sách đó…”

“Tôi không cố,” tôi nói, giọng bỗng hơi to một chút.

“Tôi có thể nhìn thấy các từ đó trong thứ mà cậu gọi là thứ gì đấy,” cô ta nói, “và chúng là ‘Cháu phải cảnh báo họ’.”

“Tôi biết! Tôi biết nó nói gì.”

Dĩ nhiên là Cháu phải cảnh báo họ. Dĩ nhiên rồi. Thằng ngu.

Cô gái nói, “Có vẻ như cậu…”

“Tôi biết đọc.”

Cô ta giơ tay lên. “Được thôi.”

“Tôi biết!”

“Tôi chỉ muốn nói…”

“Đừng có chỉ muốn nói,” tôi cau mày, Tiếng Ồn của tôi sôi sục đủ để Manchee nhảy dựng. Tôi cũng đứng dậy, nhặt ba lô lên và đeo vào. “Chúng ta phải đi thôi.”

“Cảnh báo ai?” cô gái hỏi, vẫn ngồi yên. “Về điều gì?”

Tôi không kịp trả lời (dù tôi không có câu trả lời) vì có tiếng cạch lớn trên đầu chúng tôi, tiếng cạch lớn mà ở thị trấn Prentiss chỉ mang một nghĩa duy nhất.

Tiếng một khẩu súng trường được lên nòng.

Có người đang đứng ở tảng đá phía trên, hai tay cầm khẩu súng trường vừa lên đạn, nhìn qua lỗ ngắm, nhắm thẳng vào chúng tôi.

“Điều đầu tiên mà ta nghĩ đến vào lúc này,” một giọng nói cất lên từ sau khẩu súng, “là hai con cún nhỏ bọn bây nghĩ mình đang làm gì mà đi đốt cây cầu của ta?”