Chương 37 ĐỂ LÀM GÌ?
TÔI SẼ KHÔNG NÓI mình cảm thấy thế nào khi chúng tôi chạy xuống bên kia ngọn đồi, xa khỏi Ben, lần này là vĩnh viễn, vì làm sao chú sống nổi sau chuyện này?
Sống là chạy, và khi dừng chạy, có lẽ đó là cách chúng tôi biết cuộc sống cuối cùng cũng đã chấm dứt.
“Đi nào, Todd,” Viola gọi, ngoái đầu ra sau. “Làm ơn, nhanh lên đi.”
Tôi không nói gì.
Tôi chạy.
Chúng tôi xuống chân đồi và trở lại dòng sông. Một lần nữa. Con đường ở phía bên kia. Một lần nữa.
Lúc nào cũng vậy.
Dòng sông ồn ào hơn lúc trước, điên cuồng chảy, nhưng ai thèm bận tâm? Có gì quan trọng?
Cuộc sống không công bằng.
Không hề.
Không bao giờ công bằng.
Nó vô nghĩa và ngu ngốc, chỉ có những khổ đau, tổn thương và đầy người muốn làm hại bạn. Bạn không thể yêu thương bất kỳ ai hay bất kỳ thứ gì, vì rốt cuộc những thứ ấy cũng sẽ bị cướp đi hoặc bị hủy hoại, và bạn sẽ bị bỏ lại một mình, không ngừng phải chiến đấu, không ngừng phải bỏ chạy để sinh tồn.
Cuộc sống này chẳng có gì tốt đẹp hết. Chẳng có gì tốt đẹp ở bất kỳ đâu.
Để làm cái mịa gì chứ?
“Điều cốt lõi là,” Viola nói, dừng lại giữa bụi cây rậm rạp để đánh tôi thật mạnh vào vai, “chú ấy đã thương cậu đủ nhiều để hy sinh bản thân vì cậu, còn nếu cậu cứ thế BỎ CUỘC” - cô hét lớn hai từ ấy - “tức là cậu coi sự hy sinh ấy chẳng đáng một xu!”
“Ối,” tôi nói và xoa vai. “Nhưng tại sao chú ấy phải hy sinh bản thân? Tại sao tôi phải để mất chú ấy một lần nữa?”
Cô bước lại gần tôi. “Cậu nghĩ cậu là kẻ duy nhất mất người thân ư?” cô hỏi bằng tiếng thì thầm đáng sợ. “Cậu quên là bố mẹ tôi cũng đã chết ư?”
Tôi đã quên.
Đúng thế.
Tôi không nói gì.
“Tất cả những gì tôi có lúc này là cậu,” cô nói, giọng vẫn giận dữ. “Và tất cả những gì cậu có lúc này là tôi. Tôi cũng giận vì chú ấy đã bỏ đi, tôi giận vì bố mẹ tôi đã chết, và tôi giận vì trước đây chúng tôi đã nảy ra ý định tới hành tinh này, nhưng cuộc sống là vậy, chẳng hay ho gì khi chỉ còn lại chúng ta, nhưng chúng ta chẳng thể thay đổi gì hết.”
Tôi vẫn không nói gì.
Nhưng cô đứng đó và tôi nhìn cô, thực sự nhìn cô, có lẽ là lần đầu tiên kể từ khi tôi thấy cô co mình bên thân cây gãy ở đầm lầy, khi tôi nghĩ cô là một tên Xú Vật.
Như đã qua cả cuộc đời.
Cô vẫn khá sạch sẽ sau những ngày ở Carbonel Downs (mới hôm qua, chỉ mới hôm qua) nhưng hai má đã dính đất và cô gầy hơn trước, có những quầng thâm dưới mắt, tóc rối bù, hai tay đen đúa, và áo dính đầy những vệt cỏ xanh rì ở mặt trước do bị ngã, môi bị rách vì một cành cây đã đập vào mặt cô khi chúng tôi còn đang bỏ chạy cùng Ben (không còn băng gạc để chữa vết thương nữa), và cô đang nhìn tôi.
Cô nói với tôi rằng cô là tất cả những gì tôi có.
Và tôi là tất cả những gì cô có.
Tôi biết được một chút cảm giác đó là như thế nào.
Màu sắc trong Tiếng Ồn của tôi thay đổi.
Giọng cô dịu đi, nhưng chỉ một chút. “Ben đã đi mất, Manchee đã chết, bố mẹ tôi đã chết,” cô nói. “Và tôi ghét những điều đó. Tôi ghét. Nhưng chúng ta đã gần đến đích. Đã gần đến đích. Và nếu cậu không từ bỏ, tôi sẽ không từ bỏ.”
“Cô có tin là có hy vọng ở cuối con đường không?” tôi hỏi.
“Không,” cô đáp gọn, quay mặt đi. “Không, tôi không tin, nhưng tôi vẫn đi.” Cô nhìn tôi. “Cậu đi cùng chứ?”
Tôi không cần trả lời.
Chúng tôi tiếp tục lên đường.
Nhưng.
“Chúng ta nên đi đường chính,” tôi nói, gạt một cành cây khác ra khỏi lối đi.
“Nhưng đội quân,” cô nói. “Và ngựa.”
“Họ biết chúng ta đang đi đâu. Chúng ta biết họ đang đi đâu. Có vẻ như tất cả chúng ta đều đi cùng một đường để đến Haven.”
“Và chúng ta sẽ nghe thấy họ đang đến,” cô đồng tình. “Và đường chính nhanh hơn.”
“Đường chính nhanh hơn.”
Rồi cô nói, “Vậy thì hãy đi mịa nó đường chính và đến Haven thôi.”
Tôi khẽ mỉm cười. “Cô đã nói mịa,” tôi nói. “Cô thực sự đã nói mịa.”
Vậy là chúng tôi đi đường chính, nhanh hết mức mà tình trạng mệt mỏi cho phép. Nó vẫn là con đường ven sông bụi bặm, ngoằn ngoèo, đôi khi lầy lội mà chúng tôi đã đi qua suốt bao nhiêu cây số, và Tân Thế giới rậm rạp cây cối vẫn vây quanh chúng tôi.
Nếu bạn vừa đặt chân đến đây và không biết gì hết, bạn thực sự sẽ nghĩ đây là vườn địa đàng.
Một thung lũng rộng trải dài xung quanh chúng tôi, phẳng lì dưới đáy nơi dòng sông chảy qua, nhưng ở xa những ngọn đồi bắt đầu nhô lên từ hai phía, chỉ được chiếu sáng bởi ánh trăng, không có dấu hiệu của những khu định cư xa, hay ít nhất là những khu định cư vẫn còn thắp đèn.
Cũng không có dấu hiệu của Haven ở phía trước, nhưng chúng tôi đang ở nơi bằng phẳng nhất của thung lũng và chẳng thể nhìn được quá những khúc quanh của con đường, dù là đằng trước hay phía sau. Rừng vẫn phủ kín hai bên sông, và bạn hẳn sẽ muốn nghĩ rằng toàn bộ Tân Thế giới đã ngừng hoạt động, mọi người đã bỏ đi, chỉ để lại con đường này.
Chúng tôi tiếp tục đi.
Rồi đi.
Khi ánh bình minh đầu tiên xuất hiện trong thung lũng thì chúng tôi mới dừng lại để lấy thêm nước.
Chúng tôi uống. Chỉ có Tiếng Ồn của tôi và dòng sông chảy xiết.
Không có tiếng vó ngựa. Không có Tiếng Ồn nào khác.
“Cậu hiểu điều này có nghĩa là chú ấy đã thành công chứ,” Viola nói, không nhìn vào mắt tôi. “Bất kể là làm gì, thì chú ấy cũng đã cản được gã kỵ sĩ.”
Tôi chỉ ừm và gật đầu.
“Và chúng ta không nghe thấy tiếng súng.”
Tôi lại ừm và gật đầu.
“Tôi xin lỗi vì đã to tiếng với cậu,” cô nói. “Tôi chỉ muốn cậu tiếp tục lên đường. Tôi không muốn cậu dừng lại.”
“Tôi biết.”
Chúng tôi đang tựa vào hai thân cây bên bờ sông, quay lưng lại với con đường. Bên kia dòng sông chỉ có cây. Đằng xa, thung lũng vươn mình và rồi chỉ còn bầu trời phía trên, sáng hơn, xanh hơn, rộng lớn và trống trải hơn, cho đến khi cả những ngôi sao cũng bắt đầu rời bỏ nó.
“Khi chúng tôi lên tàu do thám rời đi,” Viola nói, cùng tôi nhìn dòng sông, “tôi đã rất buồn khi phải xa các bạn. Chỉ là vài đứa trẻ khác từ các gia đình điều dưỡng, nhưng vẫn là bạn. Tôi đã nghĩ mình sẽ là người duy nhất ở độ tuổi này trên khắp hành tinh trong suốt bảy tháng.”
Tôi uống thêm nước. “Tôi không có bạn khi còn ở thị trấn Prentiss.”
Cô quay sang nhìn tôi. “Ý cậu là sao, không có bạn ư? Cậu phải có bạn chứ.”
“Tôi đã có vài đứa bạn trong một thời gian ngắn, những thằng nhóc lớn hơn tôi vài tháng. Nhưng khi lũ con trai trở thành đàn ông, chúng ngừng nói chuyện với lũ con trai còn lại,” tôi nhún vai. “Tôi là đứa cuối cùng. Nên chỉ có tôi và Manchee.”
Cô ngước nhìn những vì sao đang nhạt dần. “Thứ luật lệ ngu ngốc.”
“Phải.”
Chúng tôi không nói thêm gì, chỉ tôi và Viola bên cạnh bờ sông, ngồi nghỉ trong khi một bình minh khác lại đang lên.
Chỉ tôi và cô.
Một hồi sau chúng tôi cựa mình, chuẩn bị lên đường tiếp.
“Đến mai chúng ta sẽ tới Haven,” tôi nói. “Nếu chúng ta tiếp tục đi.”
“Ngày mai,” Viola gật đầu. “Tôi hy vọng họ có thức ăn.”
Đến lượt cô đeo túi nên tôi đưa nó cho cô, và mặt trời đang nhô lên cuối thung lũng, dòng sông trông như thể đang chảy thẳng vào nó. Khi ánh nắng chiếu lên những ngọn đồi ở phía đối diện chúng tôi bên kia sông, có thứ gì đó lọt vào mắt tôi.
Ngay lập tức Viola quay lại trước sự khuấy động trong Tiếng Ồn của tôi. “Gì vậy?”
Tôi che mắt khỏi mặt trời mới mọc. Có một đám bụi nhỏ đang bay lên từ đỉnh đồi đằng xa.
Và nó đang di chuyển.
“Cái gì vậy?” tôi hỏi.
Viola lấy ống nhòm ra và nhìn. “Tôi không nhìn rõ,” cô nói. “Cây cối che mất.”
“Có người đang di chuyển ư?”
“Có thể là đường khác. Con đường còn lại ở ngã ba mà chúng ta đã không chọn.”
Chúng tôi nhìn suốt một hoặc hai phút trong lúc đám bụi tiếp tục bay lên, hướng đến Haven với tốc độ từ tốn như một đám mây đằng xa. Thật kỳ quái khi nhìn thấy nó mà không nghe được bất kỳ tiếng động nào.
“Ước gì tôi biết đội quân đang ở đâu,” tôi nói. “Họ đang cách chúng ta bao xa.”
“Có lẽ Carbonel Downs đã chiến đấu quyết liệt.” Viola xoay ống nhòm về phía thượng nguồn để nhìn con đường mà chúng tôi đã đi qua nhưng nó quá phẳng và quanh co. Tất cả những gì có thể nhìn thấy là cây. Cây, bầu trời và sự im lặng, và vệt bụi bốc lên đang di chuyển trên những ngọn đồi phía xa.
“Chúng ta phải đi thôi,” tôi nói. “Tôi bắt đầu cảm thấy rờn rợn.”
“Vậy thì đi,” Viola nói khẽ.
Trở lại con đường.
Tiếp tục chạy.
Chúng tôi không mang theo đồ ăn nên bữa sáng là loại quả vàng mà Viola đã nhìn thấy trên vài cái cây chúng tôi đi qua, loại quả mà cô thề đã được ăn ở Carbonel Downs. Chúng cũng là bữa trưa, nhưng có còn hơn không.
Tôi lại nghĩ đến con dao sau lưng.
Liệu tôi có thể đi săn, nếu có thời gian?
Nhưng không có thời gian.
Chúng tôi chạy xuyên trưa và đến tận chiều. Thế giới vẫn hoang vắng và ma mị. Chỉ có tôi cùng Viola chạy qua đáy thung lũng, không có khu định cư, không có đoàn người hay những chiếc xe kéo, không có tiếng động nào khác đủ lớn để có thể nghe thấy ngoài tiếng dòng sông đang ngày càng chảy xiết, đến nỗi tôi không thể nghe thấy Tiếng Ồn của chính mình, mỗi khi muốn nói, chúng tôi phải hét lên.
Và chúng tôi cứ chạy.
Và tôi thấy mình đang dõi theo Viola.
Vệt bụi trên đỉnh đồi đằng xa đi theo chúng tôi trong lúc chúng tôi chạy, từ từ vượt lên trước khi ngày dần tàn và cuối cùng thì biến mất ở đằng xa. Tôi nhìn Viola dõi theo nó trong lúc chúng tôi chạy. Tôi nhìn cô chạy cạnh tôi, nhăn mặt vì đau chân. Tôi nhìn cô xoa chân khi chúng tôi dừng lại để nghỉ, nhìn cô uống nước.
Giờ đây khi đã nhìn cô, tôi không thể ngừng.
Cô bắt gặp tôi đang nhìn. “Gì thế?”
“Không có gì,” tôi nói và quay mặt đi vì chính tôi cũng không biết.
Dòng sông và con đường duỗi thẳng ra khi thung lũng trở nên dốc hơn và hẹp lại. Chúng tôi có thể trông lại một quãng ngắn con đường đã đi qua. Chưa có bóng dáng của đội quân và những kẻ cưỡi ngựa. Sự im lặng dường như còn đáng sợ hơn là khi có Tiếng Ồn ở khắp nơi.
Trời nhá nhem tối. Mặt trời lặn xuống thung lũng sau lưng chúng tôi, xuống nơi có thể là vị trí của đội quân, xuống những gì còn lại của Tân Thế giới phía đó, xuống những gì đã xảy ra với người nào dám đứng lên chống lại đội quân cùng bọn gia nhập.
Những gì đã xảy ra với phụ nữ.
Viola chạy trước tôi.
Tôi nhìn cô chạy.
Ngay sau khi màn đêm buông xuống, chúng tôi đến được một khu định cư khác, một khu định cư với các bến sông, một khu định cư bị bỏ hoang. Chỉ có tất cả năm căn nhà dọc một con đường nhỏ, một căn trông như cửa hàng tạp hóa ở đầu đường.
“Đợi chút,” Viola nói rồi dừng lại.
“Ăn tối ư?” tôi hỏi, thở nặng nhọc.
Cô gật đầu.
Sau khoảng sáu cú đá chúng tôi mới mở được cánh cửa của cửa hàng tạp hóa, và mặc dù rõ ràng không có ai ở đây, tôi vẫn nhìn quanh, sợ bị trừng phạt. Bên trong chủ yếu là đồ hộp, nhưng chúng tôi cũng tìm được một ổ bánh mì khô, một chút hoa quả đã giập và vài dải thịt khô.
“Những thứ này mới để chừng một hai ngày trước,” Viola nói, miệng đầy đồ ăn. “Chắc hẳn họ đã bỏ chạy đến Haven ngày hôm qua hoặc hôm kia.”
“Tin đồn về đội quân thật có sức mạnh,” tôi nói, nhai miếng thịt khô chưa kỹ đã nuốt nên bị nghẹn.
Chúng tôi nhồi lấy nhồi để thức ăn xuống bụng, rồi tôi nhét phần còn lại vào túi của Viola, đang quàng trên vai tôi. Tôi thấy cuốn sách lúc cho đồ vào. Nó vẫn ở đó, vẫn bọc trong túi nylon, vẫn có một lỗ hổng hình dao chạy xuyên qua.
Tôi thò tay qua lớp nylon, miết ngón tay lên bìa sách. Cảm giác mềm mại, gáy sách vẫn có mùi da thoang thoảng.
Cuốn sách. Cuốn sách của mẹ tôi. Nó đã đi suốt quãng đường này cùng chúng tôi. Đã sống sót qua những tổn hại của riêng nó. Như chúng tôi.
Tôi ngước lên nhìn Viola.
Cô lại bắt gặp tôi đang nhìn.
“Gì?” cô hỏi.
“Không có gì.” Tôi đặt cuốn sách vào túi cùng số đồ ăn. “Đi thôi.”
Trở lại con đường, trở lại dòng sông, hướng đến Haven.
“Đây sẽ là đêm trốn chạy cuối cùng của chúng ta,” Viola nói. “Nếu bác sĩ Snow đúng, chúng ta sẽ đến nơi vào ngày mai.”
“Phải,” tôi nói, “và thế giới sẽ thay đổi.”
“Một lần nữa.”
“Một lần nữa,” tôi đồng tình.
Chúng tôi đi thêm một lúc.
“Cậu có bắt đầu cảm thấy hy vọng không?” Viola hỏi, giọng tò mò.
“Không,” tôi đáp, làm xáo trộn Tiếng Ồn của mình. “Còn cô?”
Cô nhướn mày nhưng lắc đầu. “Không, không.”
“Nhưng chúng ta vẫn đi.”
“Ồ, phải,” Viola nói. “Thiên đàng hoặc địa ngục.”
“Có thể là cả hai,” tôi nói.
Mặt trời lặn, rồi mặt trăng lại lên, hai lưỡi liềm nhỏ hơn so với đêm trước. Trời vẫn quang đãng, sao vẫn sáng, thế giới vẫn yên lặng, chỉ có tiếng của dòng sông chảy xiết, ngày càng ầm ĩ hơn.
Rồi nửa đêm.
Mười lăm ngày.
Mười lăm ngày cho đến khi…
Đến khi gì?
Chúng tôi tiếp tục băng qua màn đêm, bầu trời từ tốn sụp xuống sau lưng chúng tôi. Chúng tôi im lặng trong giây lát sau khi xong bữa tối và sự mệt mỏi lại dâng lên chiếm chỗ. Ngay trước khi bình minh ló dạng, chúng tôi thấy hai cỗ xe bị lật ngược trên đường, lúa mì vương vãi khắp nơi và đôi ba chiếc giỏ rỗng không lăn sang bên kia đường.
“Họ thậm chí còn không thèm nhặt hết đồ,” Viola nói. “Họ bỏ lại quá nửa trên mặt đất.”
“Ăn sáng ở đây cũng tốt.” Tôi lật một chiếc giỏ, kéo nó đến chỗ con đường nhìn xuống dòng sông rồi ngồi lên.
Viola nhặt một chiếc giỏ khác, mang nó lại gần tôi rồi ngồi xuống. Những tia sáng lờ mờ hiện lên khi mặt trời bắt đầu ló dạng, con đường hướng thẳng đến vầng thái dương, dòng sông cũng chảy về phía bình minh. Tôi mở túi lấy ra đống đồ ăn từ cửa hàng tạp hóa, đưa một phần cho Viola rồi ăn phần của mình. Chúng tôi uống nước từ chai.
Túi để mở trên đùi tôi. Bên trong có số quần áo còn lại của chúng tôi và chiếc ống nhòm.
Và cuốn sách.
Tôi cảm thấy sự im lặng của cô bên cạnh, thấy nó đang tóm lấy tôi, thấy những lỗ hổng trên ngực, trong bụng và đầu, rồi tôi nhớ đến cơn đau tôi từng cảm thấy khi cô ở quá gần, nhớ cảm giác ấy giống nỗi sầu khổ, giống mất mát ra làm sao, như thể tôi đang ngã, đang rơi vào hư vô, cách nó bóp nghẹt tôi và khiến tôi muốn khóc, khiến tôi thực sự khóc.
Nhưng giờ…
Giờ tôi không còn cảm thấy như vậy nữa.
Tôi nhìn sang cô.
Cô hẳn phải biết Tiếng Ồn của tôi có gì. Tôi là người duy nhất ở quanh đây và cô đang ngày càng giỏi đọc người khác hơn, bất chấp dòng sông đã trở nên ồn ào hơn biết bao nhiêu.
Nhưng cô chỉ ngồi đó, ăn trong im lặng, đợi tôi lên tiếng.
Đợi tôi hỏi.
Vì đây là những gì tôi đang nghĩ.
Khi mặt trời lên hẳn, đây sẽ là ngày chúng tôi đến Haven, là ngày chúng tôi đến nơi có nhiều người hơn tất cả những người tôi từng gặp trong đời cộng lại, một nơi có quá nhiều Tiếng Ồn, bạn sẽ không bao giờ được ở một mình, trừ phi họ đã tìm ra thuốc chữa, trong trường hợp đó tôi sẽ là Tiếng Ồn duy nhất, vậy thì sẽ càng tồi tệ hơn.
Khi đến Haven, chúng tôi sẽ là một phần của thị trấn.
Sẽ không còn mỗi Todd và Viola, ngồi bên dòng sông trong lúc mặt trời lên, ăn bữa sáng, hai người duy nhất trên cả hành tinh.
Sẽ có vô số người.
Đây là cơ hội cuối cùng của chúng tôi.
Tôi quay mặt đi và nói. “Cái cách cô giả giọng người khác ấy?” “Ừ,” cô nói khẽ.
Tôi lấy cuốn sách ra.
“Cô có thể nói giọng của dân thị trấn Prentiss không?”