Chương 3 Đôi Giày Màu Kem
Mẹ tôi, Faye, là con gái của một người bưu tá. Mẹ lớn lên ở thị trấn, trong một ngôi nhà màu vàng với hàng rào bằng cọc nhọn màu trắng được viền bởi những bông hoa diên vĩ màu tím. Bà ngoại tôi là thợ may, có người nói bà là thợ may giỏi nhất thung lũng, vậy nên cô gái trẻ Faye thường mặc những bộ đồ đẹp, tất cả đều được may khéo đến mức không chê vào đâu được, từ những chiếc áo khoác nhẹ bằng vải nhung, những chiếc quần bằng vải nhân tạo đến những bộ âu phục bằng vải len và những chiếc váy đầm bằng vải gabardine [1]. Mẹ đi lễ nhà thờ, đi học ở trường và tham gia các hoạt động cộng đồng. Cuộc sống của mẹ thấm đẫm nề nếp, chuẩn tắc hết mức và sự đứng đắn không thể nghi ngờ.
Vẻ đứng đắn ấy được bà ngoại tôi chăm chút cẩn thận. Bà, LaRue, bước vào tuổi thành niên trong những năm 1950, thập kỷ của cơn sốt duy tâm bùng phát sau Thế chiến thứ hai. Cha bà là người nghiện rượu ở cái thời chả mấy ai quan tâm phải gọi thói nghiện ngập ra làm sao, bấy giờ người nghiện rượu không được gọi là “người nghiện rượu” mà là “quá chén” thôi. Bà xuất thân từ một gia đình thuộc loại “có vấn đề” nhưng lại nằm trong một cộng đồng Mặc Môn sùng đạo mà, cũng giống như nhiều cộng đồng khác, đã trừng phạt những đứa con vì tội lỗi của cha mẹ chúng. Người ta cho rằng chẳng người đàn ông đàng hoàng nào ở thị trấn thèm lấy bà. Khi bà gặp và kết hôn với ông ngoại tôi – một người đàn ông trẻ đôn hậu là lính thủy vừa mới xuất ngũ – bà tận tâm tận lực cho việc kiến tạo một gia đình hoàn hảo, hoặc ít nhất na ná như thế. Bà tin rằng điều này sẽ bảo vệ các con gái bà khỏi nỗi khinh miệt của xã hội vốn đã làm bà tổn thương.
Một kết quả của nỗ lực này chính là cái hàng rào cọc nhọn màu trắng và tủ quần áo toàn đồ tự may. Một kết quả khác là, cô con gái cả của bà cưới một chàng trai trẻ rất khắt khe, có mái tóc đen nhánh, và ham thích sự độc đáo.
Nói chính xác, mẹ tôi cũng phản ứng một cách bướng bỉnh trước tiêu chuẩn đứng đắn được chất đống lên mẹ. Bà tôi muốn dành cho con gái mình món quà mà bản thân bà chưa bao giờ có, món quà mang tên “xuất thân từ một gia đình tử tế”. Nhưng mẹ tôi, Faye, không muốn có món quà đó. Mẹ không phải là nhà cách mạng xã hội – thậm chí ở đỉnh cao của nổi loạn mẹ vẫn duy trì đức tin của người theo giáo phái Mặc Môn, với mối tận tâm dành cho hôn nhân và thiên chức làm mẹ, nhưng những biến động đột ngột của xã hội ở thập kỷ 70 dường như đã có ít nhất một ảnh hưởng đối với mẹ: mẹ không muốn có cái hàng rào cọc nhọn màu trắng và những bộ váy đầm bằng vải gabardine.
Mẹ đã kể cho tôi nghe hàng chục câu chuyện thời thơ ấu của mẹ, chuyện bà tôi bực dọc về địa vị xã hội của cô con gái cả, về chiếc váy đầm bằng vải piqué [2] của mẹ có được cắt theo kiểu đứng đắn hay không, hoặc chiếc quần nhung của mẹ có tông xanh dương chuẩn hay không. Những câu chuyện này gần như luôn kết thúc bằng việc bố tôi lao vào và quần nhung được đổi thành quần bò xanh. Có một câu chuyện đặc biệt luôn ám ảnh tôi. Năm ấy tôi bảy hoặc tám tuổi và đang ở trong phòng thay quần áo để đi nhà thờ, tôi đưa tấm khăn ẩm lên lau mặt, lau tay và chân, chỉ kỳ cọ những chỗ để hở. Mẹ nhìn tôi mặc chiếc váy vải bông qua đầu, chiếc váy mà tôi chọn vì nó dài tay để tôi khỏi phải rửa cánh tay, và mắt mẹ ánh lên nỗi ghen tị.
“Nếu con là con gái của bà,” mẹ nói, “thì chúng ta sẽ phải thức đến mờ sáng để sửa sang mái tóc của con. Sau đó cả buổi sáng sẽ được dành cho việc chọn đôi giày nào, màu trắng hay màu kem, để tạo ấn tượng phù hợp.”
Mặt mẹ nhăn nhó bởi nụ cười làm xấu. Mẹ cố tỏ ra hài hước nhưng ký ức đã khuấy động nỗi ghen tị. “Thậm chí sau khi đã chọn màu kem, bọn mẹ vẫn bị muộn bởi vì vào phút cuối bà hoảng sợ và lái xe tới nhà em họ Donna để mượn đôi giày màu kem có gót thấp hơn.”
Mẹ nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ. Mẹ chìm vào suy tư.
“Màu trắng hay màu kem ư?” Tôi nói. “Chẳng phải đó là một màu sao ạ?” Tôi chỉ có một đôi giày để đi nhà thờ. Đó là giày màu đen, hoặc ít nhất nó cũng đen khi nó còn là của chị gái tôi.
Mặc váy xong, tôi quay nhìn vào gương và phủi đất cát quanh ngấn cổ của mình, vừa phủi vừa nghĩ thật may mẹ đã thoát khỏi cái thế giới mà trong đó màu trắng và màu kem khác hẳn nhau, và thoát khỏi nơi mà những vấn đề như vậy có thể làm hỏng cả một buổi sáng tốt lành không chê vào đâu được, một buổi sáng mà nếu ở một điều kiện khác, có thể dành để sục sạo trong bãi phế liệu của bố cùng với con dê của Luke.
Bố tôi, Gene, hồi đó là một trong những chàng trai trẻ dường như vừa nghiêm nghị lại vừa tinh quái. Vẻ ngoài của bố gây chú ý, tóc đen như gỗ mun, khuôn mặt góc cạnh, cương nghị, cái mũi giống như một mũi tên hướng về phía đôi mắt sâu dữ tợn. Đôi môi của bố ép vào nhau thành một nụ cười hài hước, cứ như cả thế giới là để cho bố cười nhạo.
Mặc dù tôi cũng trải qua tuổi thơ ở chính quả núi mà bố đã sinh ra và lớn lên, cho lợn ăn bằng cùng một cái máng sắt, tôi biết rất ít về thời niên thiếu của bố. Bố chẳng bao giờ kể về nó, vậy nên tất cả những gì tôi có để lần theo là những gợi ý lờ mờ từ mẹ, người đã kể với tôi rằng, trong những năm còn trẻ, ông-ở-chân-đồi đã rất hung bạo, dễ nổi giận. Cách mẹ sử dụng từ đã luôn khiến tôi thấy buồn cười. Tất cả chúng tôi chẳng dại gì mà làm ông cáu. Ông nóng nảy, đó là sự thật và bất cứ ai trong thung lũng cũng có thể khẳng định với bạn như vậy. Ông là người phong trần cả ở bên trong lẫn bên ngoài, căng thẳng và vạm vỡ như những con ngựa ông thả rông trên núi.
Bà nội tôi làm việc cho Cục Nông nghiệp ở trong thị trấn. Đến lúc trưởng thành, bố luôn có quan điểm gay gắt về những người phụ nữ đi làm, kể cả là làm cho cộng đồng Mặc Môn ở vùng nông thôn của chúng tôi. “Chỗ của đàn bà là ở nhà,” bố nói mỗi khi nhìn thấy một phụ nữ đã có gia đình làm việc trong thị trấn. Bây giờ tôi đã lớn hơn, thỉnh thoảng tôi tự hỏi liệu thái độ gay gắt của bố liên quan đến mẹ đẻ của bố hơn hay đến giáo lý hơn. Tôi tự hỏi không biết có phải bố ước ngày trước mẹ của mình ở nhà, để bố không bị bỏ mặc ở nhà hàng giờ dài đằng đẵng với người cha nóng tính hay không.
Việc trông nom trang trại ngốn hết tuổi thơ của bố. Tôi ngờ rằng bố mong được đi học đại học. Tuy nhiên, theo như mẹ tôi kể, hồi đó bố tràn đầy năng lượng, tiếng cười và sự phô trương. Bố lái chiếc Volkswagen Beetle màu xanh nhạt, mặc những bộ complet lạ mắt được cắt từ những loại vải sặc sỡ, để ria mép rậm, hợp mốt.
Họ gặp nhau trong thị trấn. Một tối thứ Sáu, nàng Faye đang làm nhân viên phục vụ tại một bãi chơi bowling thì chàng Gene cùng một nhóm bạn xuất hiện. Trước đó nàng chưa bao giờ gặp chàng vậy nên nàng biết chàng không phải là người thị trấn và chắc hẳn đến từ một khu dân cư trên núi quanh thung lũng. Đời sống nơi thôn dã đã khiến chàng Gene trông không giống những chàng trai trẻ khác: Ở tuổi của mình anh chàng Gene nghiêm túc, gây ấn tượng sâu sắc hơn cả về thân hình lẫn tính độc lập.
Sống ở trên núi, con người ta có ý thức về chủ quyền, về quyền riêng tư và lối sống tách biệt, thậm chí quyền thống trị. Trong không gian rộng lớn ấy bạn có thể lướt đi một mình trong nhiều giờ, lơ lửng phía trên những cây thông, bụi cây và những tảng đá. Ý thức đó được lặng lẽ sinh ra từ khung cảnh bao la ấy; nó yên bình mà mênh mang, tạo nên những con người thuần phác. Bố Gene của tôi được sinh ra giữa khung cảnh thôi miên của núi cao, giữa cảnh yên bình không tranh đoạt.
Ở thung lũng, mẹ Faye cố không nghe những chuyện ngồi lê mách lẻo chẳng bao giờ hết của một thị trấn nhỏ có những tin đồn được đẩy vào nhà người ta qua những ô cửa sổ, luồn dưới những ô cửa chính. Mẹ tự nhận bản thân là người luôn đi làm hài lòng người khác: mẹ nói mẹ không thể không để ý xem mọi người muốn mẹ trở thành gì và không thể không miễn cưỡng điều chỉnh bản thân để trở thành người như người ta muốn. Sống trong ngôi nhà đầy ắp sự đoan trang, nề nếp của mình ở trung tâm thị trấn, quây quần với bốn căn nhà khác, nhà này sát nhà kia đến nỗi bất kỳ ai cũng có thể ngó vào qua cửa sổ và thì thầm buông lời phán xét, Faya cảm thấy như bị mắc kẹt.
Tôi thường hình dung ra lúc bố Gene đưa mẹ lên núi Buck và mẹ, lần đầu tiên, không thể nhìn thấy những khuôn mặt hoặc nghe những giọng nói của người dân ở thị trấn phía dưới. Những khuôn mặt ấy, những giọng nói ấy thật xa, xa lắc xa lơ. Tất cả đã bị ngọn núi làm cho nhỏ xíu, câm lặng.
Chẳng bao lâu sau họ đính hôn.
Mẹ thường kể một chuyện từ dạo trước khi mẹ kết hôn. Mẹ thân với Lynn, anh trai của mẹ, đến nỗi mẹ dẫn anh đi gặp người đàn ông mà mẹ hy vọng sẽ trở thành chồng mình. Đó là mùa hè, trời tối, và các anh em họ của bố đang làm ầm ĩ cả lên như họ vẫn thường thế sau vụ thu hoạch. Lynn tới và nhìn thấy một căn phòng toàn những kẻ hùng hổ chân vòng kiềng đang gào thét, giơ nắm đấm, đấm vun vút vào không khí, ngỡ mình đang chứng kiến một cuộc ẩu đả y hệt trong phim của John Wayne[3]. Lynn toan gọi cảnh sát.
“Mẹ bảo bác hãy cứ nghe cái đã,” mẹ nói, cười chảy cả nước mắt. Mẹ luôn kể đi kể lại chuyện này theo đúng một cách, và chúng tôi ưa thích câu chuyện đến mức nếu mẹ đi chệch khỏi nguyên bản thì chúng tôi kể lại nó cho mẹ. “Mẹ bảo bác hãy chú ý đến lời lẽ thực sự mà họ đang gào lên. Thoạt nghe thì ai cũng ồn ĩ như ong bắp cày, nhưng thực sự họ đang có một cuộc trò chuyện thú vị. ‘Anh phải nghe xem họ nói gì cơ, đừng chú ý đến cách họ nói.’ Mẹ bảo bác ấy, đó chỉ là cách người nhà Westover nói chuyện thôi mà!”
Mẹ chưa kể xong, chúng tôi đã cười bò trên sàn. Chúng tôi cười cho đến khi đau cả sườn, tưởng tượng ra cảnh ông bác đứng đắn, đường đường giáo sư của chúng tôi gặp đám anh em hoang dã của bố. Bác Lynn thấy cảnh ấy khó chịu đến mức ông không bao giờ quay lại đó nữa, và từ bé đến giờ tôi chưa hề nhìn thấy ông ở cái núi này. Thật đáng đời bác, chúng tôi nghĩ, vì bác đã can thiệp và cố kéo mẹ tôi trở lại cái thế giới của những chiếc váy đầm may bằng vải gabardine và giày màu kem. Chúng tôi hiểu rằng sự tan rã của gia đình đằng mẹ là khởi đầu của gia đình chúng tôi. Hai gia đình, không thể cùng tồn tại. Chỉ một gia đình có được mẹ mà thôi.
Mẹ chưa bao giờ kể với chúng tôi rằng gia đình mẹ phản đối cuộc hôn nhân của bố mẹ nhưng chúng tôi biết điều đó. Có những dấu vết mà nhiều thập kỷ không thể xóa nhòa. Bố tôi hiếm khi bước chân vào nhà của bà-trong-thị-trấn, và khi ở đó mặt bố sưng sỉa và bố chỉ nhìn đăm đăm ra cửa. Khi còn nhỏ, tôi hầu như không biết các bác trai, bác gái, các dì, các cậu họ ở đằng ngoại. Chúng tôi hiếm khi đi thăm họ – tôi thậm chí không biết hầu hết họ sống ở đâu – và họ còn hiếm khi đến núi này thăm chúng tôi hơn. Một ngoại lệ là dì Angie, em gái út của mẹ, sống ở thị trấn và vẫn khăng khăng gặp mẹ.
Tôi biết qua loa sự kiện bố mẹ đính hôn, hầu hết là từ những câu chuyện mẹ kể. Tôi biết mẹ có nhẫn đính hôn trước khi bố đi nghĩa vụ – một nhiệm vụ mà những người đàn ông Mặc Môn trung thành với đạo phải thực hiện – và dành hai năm đi truyền đạo ở Florida. Bác Lynn nhân lúc bố đi vắng đã giới thiệu em gái mình cho tất cả những người đàn ông đủ tuổi kết hôn mà bác có thể tìm thấy ở phía bên này của dãy Rockies, nhưng không ai có thể làm cho mẹ quên chàng trai nông thôn cương nghị thống trị cả một quả núi.
Chàng Gene từ Florida trở về và họ cưới nhau.
Bà LaRue may váy cưới.
Tôi chỉ thấy duy nhất một tấm ảnh cưới của bố mẹ. Trong ảnh bố mẹ đứng trước một tấm rèm mỏng như tơ màu vàng ngà. Mẹ mặc một chiếc váy truyền thống được may bằng lụa đính hạt phối ren, với đường viền cổ cao che kín xương quai xanh. Một tấm mạng thêu được trùm quanh đầu mẹ. Bố mặc bộ complet màu kem có ve cổ rộng màu đen. Hai người say sưa trong hạnh phúc, mẹ nở nụ cười không vướng bận, bố nở nụ cười rộng ngoác đến nỗi bộ ria mép rậm rì của bố chẳng thể che lấp được.
Thật khó để tôi tin rằng chàng trai trẻ vô ưu trong tấm ảnh đó là bố mình. Bố mà tôi biết ở ngoài đời rõ ràng là một người đàn ông trung niên mệt mỏi, đầy lo lắng và sợ hãi, tích trữ thực phẩm và đạn dược.
Tôi không biết chàng trai trong tấm ảnh đó đã trở thành người đàn ông mà tôi biết là bố mình từ khi nào. Có lẽ là ngay tắp lự. Bố kết hôn năm hai mươi tuổi, có con trai đầu lòng, anh Tony của tôi, năm bố hai mươi hai. Hai mươi bốn tuổi, bố hỏi mẹ liệu họ có thể thuê một thầy lang đỡ đẻ khi mẹ sinh anh Shawn của tôi không. Mẹ đồng ý. Đó là mách nước đầu tiên, hay đơn giản bố Gene là thế, lập dị và trái khoáy, cố tình làm cho những người nhà đằng vợ vốn không ủng hộ mình bị sốc? Dù gì, hai mươi tháng sau, khi Tyler chào đời, cuộc sinh nở ấy cũng diễn ra tại một bệnh viện. Khi bố hai mươi bảy tuổi, Luke chào đời, tại nhà, được một bà đỡ vườn đỡ. Bố quyết định không làm giấy khai sinh, một quyết định mà bố lặp lại với Audrey, Richard và tôi. Vài năm sau, khi bố bước sang tuổi ba mươi, bố không cho các anh tôi đến trường nữa. Tôi không nhớ chuyện đó, bởi vì nó xảy ra trước khi tôi chào đời, nhưng tôi tự hỏi phải chăng đó là một bước ngoặt. Bốn năm sau, bố tháo bỏ điện thoại và chủ động không gia hạn bằng lái xe. Bố ngừng đăng ký và mua bảo hiểm cho ô tô gia đình. Sau đó bố bắt đầu tích trữ thực phẩm.
Phần sau cùng ấy nghe có vẻ giống bố tôi, nhưng không phải là người bố mà các anh trai của tôi nhớ. Bố vừa bước sang tuổi bốn mươi thì người của Liên bang bao vây gia đình Weaver, một sự kiện củng cố những nỗi sợ tệ hại nhất của bố. Sau đó bố luôn dự vào một cuộc chiến, dù cuộc chiến đó chỉ ở trong đầu bố. Có lẽ đó là lý do tại sao Tony nhìn tấm ảnh đó thấy bố của anh, còn tôi thì thấy một người lạ.
Mười bốn năm sau sự việc xảy ra với gia đình Weaver, tôi ngồi ở giảng đường của trường đại học nghe một vị giáo sư tâm lý học miêu tả cái gọi là “chứng rối loạn lưỡng cực”. Đó là lần đầu tiên tôi nghe nói về bệnh tinh thần. Tôi biết con người ta có thể phát điên – có người đội những con mèo chết trên đầu hoặc yêu mê cuồng một cây củ cải – nhưng tôi chưa bao giờ có ý niệm rằng một con người có thể vẫn làm việc bình thường, minh mẫn, đầy thuyết phục, mà lại mang bệnh tinh thần.
Vị giáo sư đọc các thông tin bằng giọng thô, buồn tẻ: tuổi phát bệnh trung bình là hai mươi lăm; có thể trước đó không hề có triệu chứng gì.
Điều mỉa mai là nếu bố tôi bị chứng rối loạn lưỡng cực – hoặc bất cứ bệnh gì trong số cả tá chứng rối loạn tâm thần có thể giải thích cho hành vi của bố – thì chính chứng hoang tưởng bộ phận là một triệu chứng của căn bệnh cản trở sự chẩn đoán và điều trị nó. Ai mà biết được.
Ba năm trước bà-trong-thị-trấn qua đời ở tuổi tám mươi sáu.
Tôi không biết rõ về bà lắm.
Tất cả những năm ấy tôi ra vào căn bếp của bà, và bà chẳng bao giờ kể với tôi bà cảm thấy như thế nào khi nhìn con gái mình sống tách biệt, bị những bóng ma và chứng hoang tưởng vây quanh.
Bây giờ khi tôi hình dung về bà tôi chỉ nhớ một hình ảnh duy nhất, cứ như trí nhớ của tôi là một cái máy chiếu bị kẹt khay. Đó là cảnh bà đang ngồi trên chiếc sofa bọc nệm. Tóc bà được cuộn thành những lọn tóc xoăn tít, và môi bà giãn ra thành một nụ cười lịch sự, hợp với hoàn cảnh. Đôi mắt bà vui nhưng trống rỗng, cứ như thể bà đang theo dõi một vở kịch trên sân khấu.
Nụ cười ấy ám ảnh tôi. Nó là thứ bất biến, vĩnh hằng duy nhất, bí hiểm, vô tư, thản nhiên. Bây giờ, vì rằng đã lớn hơn và đã chịu khó tìm hiểu về bà, hầu như qua các cô dì, chú bác của mình, tôi biết bà chẳng phải là con người có những đặc tính ấy.
Tôi đã dự lễ tang của bà. Đó là một cái quan tài hạng tốt được mở nắp và tôi nhận ra mình đang tìm kiếm khuôn mặt của bà. Các chuyên gia bảo quản thi hài đã không giữ được đôi môi của bà như nó vốn thế – nụ cười lịch thiệp mà sinh thời bà giữ trên khuôn mắt chẳng khác gì cái mặt nạ sắt đã bị gỡ ra. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy bà không có nụ cười ấy và cuối cùng tôi chợt nghĩ: rằng bà là người duy nhất có thể hiểu chuyện gì đang xảy ra với tôi, hiểu chứng hoang tưởng và lòng tin tưởng tuyệt đối vào Kinh Thánh đã chia cắt cuộc sống của tôi như thế nào, cướp mất những người tôi quan tâm ra sao, và chỉ để lại cho tôi những bằng cấp và chứng chỉ – cái vẻ đứng đắn. Những gì xảy ra bây giờ trước kia đã xảy ra. Đây là sự cắt đứt quan hệ thứ hai giữa mẹ và con gái. Cuộn băng đang được tua lại.
Chú thích:
[1] Một loại vải cotton có độ bền cao, chịu nhiệt tốt, chống thấm và chống rách, được Thomas Burberry (nhà sáng lập hãng thời trang Burberry) phát minh vào năm 1879.
[2] Chất liệu vải cotton có mắt vải được dệt to, lưới vải lớn, gắn liền với thương hiệu Lacoste nhờ vào khả năng đàn hồi cao, bền bỉ tuyệt đối được sáng chế dành riêng cho các vận động viên tennis.
[3] Marion Mitchell Morrison (tên khai sinh Marion Robert Morrison, thường gọi là John Wayne; 1907–1979), là một diễn viên, đạo diễn lừng danh người Mỹ với sở trường về loại phim cao bồi.