Chương 4 Những Người Phụ Nữ Của Bộ lạc Apache
Không ai nhìn thấy chiếc xe lao khỏi đường cao tốc. Anh Tyler của tôi, mười bảy tuổi, ngủ gật trước vô-lăng. Lúc đó là sáu giờ sáng và anh đã lái xe trong im lặng gần như suốt cả đêm, điều khiển chiếc xe thùng qua Arizona, Nevada và Utah. Chúng tôi đã ở Cornish, một thị trấn vùng quê cách núi Buck hai mươi dặm về phía Nam, khi chiếc xe cán qua vạch kẻ làn đường lấn sang làn đường khác, rồi rời đường cao tốc. Nó lao xuống một cái rãnh, đâm vào hai cột điện được dựng bằng thân cây tuyết tùng chắc nịch, và cuối cùng chỉ dừng lại khi đâm vào một chiếc máy gặt.
Chuyến đi đó là ý tưởng của mẹ. Vài tháng trước, khi những chiếc lá khô bắt đầu rơi xuống mặt đất, báo hiệu mùa hè kết thúc, bố trở nên phấn khích. Ngồi ăn sáng bố giậm chân theo nhịp nhạc, và vào bữa tối bố thường chỉ tay lên núi, mắt bố sáng lấp lánh, miêu tả chỗ bố sẽ đặt đường ống để dẫn nước xuống nhà chúng tôi. Bố hứa rằng khi đợt tuyết đầu tiên rơi, bố sẽ đắp một quả cầu tuyết lớn nhất bang Idaho. Bố nói việc bố sẽ làm là cuốc bộ tới chân núi và đắp một quả cầu tuyết nhỏ, bình thường rồi lăn nó xuống sườn đồi, và nhìn nó to lên gấp ba mỗi khi nó lăn qua một cái gò hoặc xuống một hẻm núi. Cho đến khi nó lăn tới nhà chúng tôi ở trên đỉnh ngọn đồi cuối cùng trước thung lũng, nó sẽ to cỡ bằng cái nhà kho của ông nội tôi, và mọi người ở trên đường cao tốc sẽ nhìn nó, đầy kinh ngạc. Chúng tôi chỉ cần có loại tuyết phù hợp. Những bông tuyết dày và dính. Sau mỗi trận tuyết rơi, chúng tôi mang hàng nắm tuyết cho bố, nhìn bố xoa xoa những bông tuyết giữa những ngón tay. Tuyết kia quá mịn. Tuyết này quá ướt. Bố nói, để sau Giáng sinh xem sao. Đó là khi ta có loại tuyết thứ thiệt.
Nhưng sau Giáng sinh bố dường như tụt cảm hứng, xuống tinh thần. Bố không nói về quả cầu tuyết nữa, sau đó bố chẳng nói chuyện nữa. Bóng tối dâng đầy đôi mắt bố cho đến khi nó bao phủ chúng. Bố bước đi, hai cánh tay lòng khòng, đôi vai khọm xuống, như thể có một lực nào đó túm lấy bố kéo bố về phía mặt đất.
Đến tháng Một bố không thể ra khỏi giường. Bố nằm ngửa, nhìn trân trân lên trần nhà trát vữa với những đường ngoằn ngoèo, gợn sóng. Hằng ngày, khi tôi mang bữa tối vào cho bố, bố không chớp mắt. Tôi không chắc bố biết tôi ở đó.
Đó là khi mẹ thông báo chúng tôi sẽ đi Arizona. Mẹ nói bố như một bông hoa hướng dương – ở trong tuyết bố sẽ chết – vì thế tháng Hai đó bố cần được đưa đi xa và “được trồng” trong ánh mặt trời. Vậy là chúng tôi chất đầy các thứ lên chiếc xe thùng và lái mười hai tiếng đồng hồ, luồn lách qua những hẻm núi, phóng trên các xa lộ, cho tới khi chúng tôi đến ngôi nhà lắp ghép ở sa mạc Arizona khô nẻ, nơi ông bà nội tôi đang đợi mùa đông trôi qua.
Chúng tôi đến nơi sau khi mặt trời mọc vài giờ. Bố trụ được cho tới khi bố tới hiên nhà bà, nơi bố nằm lại, với chiếc gối bằng sợi móc kê dưới đầu và một bàn tay đầy vết chai để trên bụng. Bố giữ nguyên tư thế đó suốt hai ngày, mắt mở chong chong, không nói một lời, im lìm như một bụi cây trong cái nóng khô khan vắng bặt gió của sa mạc.
Vào ngày thứ ba dường như bố phục hồi, nhận thức được những gì diễn ra xung quanh, lắng nghe tiếng trò chuyện vào giờ ăn của chúng tôi thay vì chỉ nhìn trân trân xuống thảm, không phản ứng gì. Hôm đó, sau bữa tối, bà tôi chơi trò gửi tin nhắn qua điện thoại để bàn của bà, và hầu hết hàng xóm và những người bạn đều chào đáp lại. Sau đó, một giọng phụ nữ vang lên qua ống nghe khiến bà nhớ đến cuộc hẹn với bác sĩ vào ngày hôm sau. Tin nhắn đó có ảnh hưởng một cách đáng ngạc nhiên tới bố tôi.
Thoạt tiên bố hỏi bà: Bà hẹn gặp bác sĩ để làm gì, bác sĩ đó là ai, tại sao bà phải gặp bác sĩ khi mà mẹ của chúng tôi có thể cho bà các loại cồn thuốc.
Bố luôn tin một cách sâu sắc vào các loại thảo dược của mẹ, nhưng tối hôm đó tôi cảm thấy có gì đó khang khác, như thể có điều gì đó bên trong bố đang thay đổi, một tín ngưỡng mới thống trị. Bố nói thảo dược là một học thuyết tâm linh phân biệt lúa mì với đậu tằm, dân có đạo và dân ngoại đạo. Sau đó, bố dùng một từ mà tôi chưa từng nghe: hội Illuminati [2]. Từ đó nghe lạ hoắc, đầy sức mạnh, bất kể nó có nghĩa gì. Bố nói bà là một đại điện vô thức của hội Illuminati.
Bố nói Chúa không thể chịu nổi “dân ngoại”. Đó là lý do tại sao những kẻ tội lỗi đáng ghét nhất lại là những kẻ không biết chọn một, cứ sử dụng cả thảo dược lẫn thuốc tây, thứ Tư đến gặp mẹ tôi, thứ Sáu lại đi gặp bác sĩ – hoặc như bố miêu tả, “những kẻ hôm trước thờ Chúa, hôm sau lại cúng quỷ Satan.” Những kẻ đó giống như dân Israel thời cổ đại bởi vì họ đã được ban cho một tôn giáo thực sự nhưng cứ khát khao những thần tượng giả tạo.
“Bọn bác sĩ và những viên thuốc tây,” bố nói, gần như la lối, “là thánh thần của họ và họ cứ đánh đi theo.”
Mẹ nhìn chằm chằm đĩa thức ăn của mình. Mẹ khựng lại trước từ “đánh đi,” ném về phía bố một cái nhìn giận dữ, sau đó đi về phòng, đóng sập cửa lại. Không phải lúc nào mẹ cũng đồng tình với bố. Khi không có bố ở đó, tôi nghe thấy mẹ nói những điều mà bố – hoặc chí ít sự hiện thân mới của bố – chắc hẳn sẽ coi là báng bổ, những câu chẳng hạn “Thảo dược chỉ là phụ thêm thôi. Với những bệnh nghiêm trọng, ta nên đi bác sĩ.”
Bố không thèm chú ý đến cái ghế trống của mẹ. “Bọn bác sĩ không cố cứu sống ta đâu,” bố nói với bà. “Bọn chúng cố giết ta thì có.
Khi tôi nghĩ đến bữa ăn tối đó, cảnh tượng ấy hiện lên trong đầu tôi thật rõ. Tôi đang ngồi tại bàn ăn. Bố đang nói, bằng giọng gấp gáp. Bà ngồi đối diện với tôi ở phía bên kia bàn, nhai trệu trạo món măng tây bằng hàm răng khấp khểnh hệt như bò nhai rơm, uống những ngụm nước đá, không hề có biểu hiện gì cho thấy bà có nghe một lời nào bố nói, ngoại trừ việc thỉnh thoảng lại liếc xéo cái đồng hồ treo tường bằng ánh mắt bực dọc khi nó báo cho bà biết vẫn còn quá sớm để đi ngủ. “Mẹ là một người tham gia vào các kế hoạch của quỷ Satan,” bố nói.
Cảnh này cứ hiện lên trong đầu tôi hằng ngày, đôi khi vài lần một ngày, trong thời gian còn lại của chuyến đi. Lần nào cũng như lần nào. Bố, bừng bừng hăng hái, nói triền miên suốt một giờ hoặc hơn, trích dẫn đi trích dẫn lại những câu không đổi, được tiếp năng lượng bởi cảm xúc mãnh liệt từ bên trong mà sau khi chúng tôi nghe thuyết giảng đã rơi vào trạng thái ngẩn ngơ đờ đẫn, vẫn cứ chảy hoài.
Bà tôi cười vào những bài thuyết giảng đó của bố theo một cách khó quên. Đó là tiếng thở dài, một kiểu thở ra kéo dài qua kẽ răng kết thúc bằng việc đảo mắt lên phía trên như thể giả bộ cáu tiết một cách uể oải, cứ như bà muốn giơ hai cánh tay lên trời nhưng quá mệt không thể thực hiện động tác đó. Sau đó bà mỉm cười – không phải nụ cười ngọt ngào dành cho bất cứ ai khác mà cho bản thân bà, nụ cười của niềm thích thú bị cản trở, một nụ cười mà đối với tôi dường như luôn có nghĩa là, Ta sẽ nói gì với các cháu nhỉ, chẳng phải không có gì buồn cười bằng cuộc sống thực ư.
Đó là một buổi trưa nóng như thiêu đốt, nóng đến nỗi bạn không thể đi chân trần trên vỉa hè, khi bà lái xe đưa tôi và Richard qua sa mạc, bắt chúng tôi phải thắt dây an toàn mà trước đó chúng tôi chẳng bao giờ chịu thắt. Chúng tôi lái xe cho tới khi con đường bắt đầu dốc xuống, sau đó tiếp tục lái đi khi nhựa đường bắt đầu biến thành bụi dưới lốp xe và vẫn tiếp tục đi. Bà cho xe chạy quanh co lên cao hơn, cao hơn nữa tới những ngọn đồi trắng lóa, chỉ dừng lại khi con đường đất kết thúc và một đường mòn mở ra. Sau đó chúng tôi đi bộ. Đi được vài phút bà hết hơi, vậy nên bà ngồi xuống một hòn đá đỏ phẳng lì và chỉ một dãy sa thạch phía xa xa, xếp thành hình xoắn ốc, khối nào cũng đã ít nhiều đổ nát, và bảo chúng tôi hãy cuốc bộ tới đó. Khi tới đó, chúng tôi sẽ tìm thấy những viên đá quặng đen.
“Chúng được gọi là những giọt lệ Apache,” bà nói. Bà cho tay vào túi áo và lấy ra một viên đá đen nhỏ, bẩn và nham nhở, có những đường vân như kính vỡ màu xám và trắng. “Loại đá đó sau khi được đánh bóng chút ít trông như thế này này.” Bà lấy từ trong túi áo khác ra viên đá thứ hai, có màu đen như mực, nhẵn thín.
Richard nhận ra cả hai viên đó đều là đá vỏ chai. “Đó là đá từ núi lửa,” anh nói bằng giọng hiểu biết. “Nhưng đá này thì không phải.” Anh đá một hòn đá bị xói lở và phẩy tay trước thông tin vừa rồi. “Đây là trầm tích.” Richard là người thông thạo những điều vặt vãnh trong lĩnh vực khoa học. Thường thì tôi chẳng để ý đến giảng giải của anh, nhưng hôm nay tôi bị thu hút, và bởi địa hình khô nẻ, lạ lùng này. Chúng tôi đi vòng quanh dãy sa thạch trong một tiếng đồng hồ, quay trở lại chỗ bà với vạt áo đằng trước võng xuống vì đựng những viên đá. Bà vui; bà có thể bán chúng. Bà cất chúng vào cốp xe và trên đường trở về nhà bà kể cho chúng tôi nghe huyền thoại về những giọt lệ Apache.
Theo lời bà kể, một trăm năm trước, trên những tảng đá bạc màu đó một bộ lạc người Apache đã đấu tranh chống lại kỵ binh Hoa Kỳ. Bộ lạc ấy không đông bằng lực lượng kia. Họ thua, và cuộc chiến kết thúc. Tất cả những gì còn có thể làm là chờ chết. Chẳng bao lâu sau khi trận đánh bắt đầu, các chiến binh bị mắc kẹt trên một rìa đá. Không muốn chịu thất bại nhục nhã, không muốn mất từng người, từng người một, khi cố gắng phá vòng vây của lực lượng kỵ binh, họ lên ngựa và lao thẳng vào vách núi. Khi các phụ nữ Apache tìm thấy thi thể tan nát của họ trên bãi đá phía dưới, họ khóc và những giọt nước mắt lớn chất chứa niềm tuyệt vọng của họ hóa thành đá khi rơi xuống mặt đất.
Bà không bao giờ kể cho chúng tôi nghe chuyện gì đã xảy ra với những người phụ nữ ấy. Người Apache đang có chiến tranh nhưng không còn các chiến binh, vậy nên có lẽ bà nghĩ kết chuyện quá buồn để mà kể. Từ “tàn sát” nảy ra trong đầu tôi, bởi vì đó là từ thích hợp cho một cuộc chiến khi mà một bên không chống cự nổi. Đó là từ chúng tôi vẫn hay dùng ở trang trại. Chúng tôi tàn sát những con gà, chúng tôi không chiến đấu với chúng. Một cuộc tàn sát có thể là hậu quả từ lòng dũng cảm của các chiến binh. Họ chết như những anh hùng, vợ của họ chết như nô lệ.
Khi chúng tôi lái xe về ngôi nhà lắp ghép của bà, mặt trời sắp lặn, những tia nắng cuối cùng vắt ngang đường cao tốc, tôi nghĩ về những phụ nữ Apache. Họ đã chết ở nơi giống như bàn thờ sa thạch, cuộc đời họ đã được định đoạt từ nhiều năm trước – trước khi những con ngựa bắt đầu phi nước kiệu, thân hình nâu đỏ của chúng uốn cong đợi trận xung đột cuối cùng. Trước khi các chiến binh lao mình vào vách núi từ rất lâu rồi, chuyện sống như thế nào, chết ra sao của những người phụ nữ ấy đã được định đoạt. Bởi các chiến binh, bởi chính bản thân những người phụ nữ. Đã được định đoạt. Những lựa chọn, vô kể như cát, đã xếp thành tầng tầng, lớp lớp và được lèn chặt, hợp thành trầm tích, rồi thành đá tảng, cho đến khi tất cả an bài dưới dạng những viên đá.
Trước đó tôi chưa bao giờ rời khỏi núi Buck và tôi nhớ nó đến quay quắt, nhớ hình ảnh nàng công chúa được khắc trong rừng thông vắt ngang khối núi. Tôi nhận thấy mình đang liếc nhìn bầu trời Arizona trống trải, hy vọng nhìn thấy hình hài đen sẫm của nàng nhô lên từ mặt đất, tuyên bố một nửa bản thân thuộc về thiên đường. Nhưng tôi chẳng thấy nàng ở đó. Hơn cả hình ảnh của nàng, tôi nhớ sự âu yếm vuốt ve của nàng – những cơn gió nàng gửi xuống qua các hẻm núi và khe suối mơn man làn tóc tôi mỗi buổi sáng. Ở Arizona chẳng có gió máy gì. Chỉ có cái nóng táp túa hết giờ này đến giờ khác.
Tôi dùng những ngày của mình đi lang thang từ phía bên này sang phía bên kia của ngôi nhà lắp ghép, ra khỏi nhà bằng cửa sau, đi qua hiên sau, bước qua cái võng, sau đó đi vòng ra hiên trước nơi tôi bước qua chỗ bố đang nằm nửa tỉnh nửa mê rồi lại quay vào trong nhà. Tôi nhẹ cả người, khi mà vào ngày thứ Sáu, chiếc xe bốn bánh của bà bị hỏng và Tyler cùng Luke tháo tung nó ra để xem nó trục trặc ở đâu. Tôi ngồi trên cái thùng nhựa màu xanh dương to tướng, xem các anh ấy làm, tự hỏi khi nào chúng tôi có thể về nhà. Khi nào bố thôi nói về Illuminati nữa. Khi nào mẹ thôi bỏ ra khỏi phòng khi bố bước vào.
Tối hôm đó sau bữa ăn bố nói đã đến lúc phải đi. “Thu dọn đồ đạc của các con đi,” bố nói. “Nửa giờ nữa chúng ta sẽ ra đến đường cao tốc.” Lúc đó mới là đầu buổi tối, thời điểm mà bà bảo rằng thật lố bịch để bắt đầu một cuộc lái xe kéo dài mười hai giờ. Mẹ nói chúng tôi nên đợi tới sáng hôm sau, nhưng bố muốn về nhà để bố và các anh tôi có thể làm phế liệu vào sáng hôm sau. “Tôi không thể bỏ lỡ thêm một ngày làm việc nào nữa,” bố nói.
Mắt mẹ tối sầm lại vì lo âu, nhưng mẹ không nói gì.
Tôi choàng tỉnh khi chiếc xe đâm vào cột điện thứ nhất. Tôi ngủ trên sàn xe dưới chân chị gái với một tấm chăn trùm kín đầu. Tôi cố ngồi dậy nhưng xe lắc kinh khủng quá – tôi có cảm giác nó sắp vỡ bung – và Audrey ngã lăn xuống đè lên người tôi. Tôi không nhìn được nhưng tôi có thể cảm thấy và nghe được chuyện gì đang xảy ra. Sau một tiếng uỵch rõ to, một đợt tròng trành, tiếng kêu của mẹ tôi vang lên, “Tyler!” từ ghế trước, và một cú xóc nảy khủng khiếp cuối cùng trước khi tất cả dừng lại và chìm vào im lặng.
Vài giây trôi qua không có bất cứ điều gì xảy ra.
Thế rồi tôi nghe thấy giọng nói của chị Audrey. Chị gọi tên từng người một. Sau đó chị nói, “Mọi người đây rồi, trừ Tara!”
Tôi cố kêu lên nhưng mặt tôi bị ép dưới ghế xe, má tôi bị ép xuống sàn. Tôi cố giãy dưới sức nặng của Audrey khi chị gọi tên tôi. Cuối cùng tôi cong lưng và đẩy được chị ấy xuống, sau đó thò đầu ra khỏi chăn và nói, “Đây.”
Tôi nhìn quanh. Tyler đã vặn nửa người trên để anh có thể gần như trèo được sang băng ghế sau, mắt anh lồi ra khi anh nhìn từng vết rách, vết bầm đập, từng đôi mắt hoang dại. Tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt của anh nhưng nó trông không giống mặt anh. Máu trào ra miệng anh, chảy xuống áo sơ mi của anh. Tôi nhắm mắt lại, cố quên đi những góc méo mó của những chiếc răng dính máu của Tyler. Khi tôi mở mắt ra, đó là để kiểm tra những người khác có sao không. Richard đang ôm đầu, mỗi tay bịt một bên tai như thể anh đang cố chặn một tiếng ồn. Mũi của Audrey khoằm xuống kỳ cục và máu chảy từ đó xuống cánh tay chị. Luke đang run rẩy nhưng tôi không thể nhìn thấy máu. Tôi bị rách một vết dài và sâu ở cánh tay khung ghế xe bập vào tôi.
“Cả nhà mình ổn chứ?” Đó là giọng bố tôi. Chúng tôi thì thào đáp lại đồng loạt.
“Có dây điện ở trên xe,” bố nói. “Không ai được ra khỏi xe cho đến khi ngắt điện.” Cửa xe ở phía bố bật mở, và trong chốc lát tôi nghĩ bố đã bị điện giật chết, nhưng sau đó tôi nhìn thấy bố lao mình ra đủ xa để người bố không chạm vào xe và mặt đất cùng lúc. Tôi nhớ mình đã nhìn theo bố qua cửa kính vỡ khi bố đi vòng quanh xe, chiếc mũ lưỡi trai màu đỏ của bố bị hất về phía sau đến nỗi phần lưỡi trai dựng đứng lên, liếm không khí. Bố trông giống trẻ con lạ lùng.
Bố đi vòng quanh xe sau đó dừng lại, cúi thấp người, để đầu bố ngang tầm với ghế khách. “Mọi người ổn cả chứ?” Bố hỏi. Rồi bố lặp lại câu hỏi đó. Lần thứ ba bố nói câu đó, giọng bố run run.
Tôi rướn người trên ghế để xem bố đang nói với ai, và chỉ khi đó tôi mới hiểu vụ tai nạn nghiêm trọng đến mức nào. Nửa đằng trước của xe bị bẹp rúm, động cơ bị bẻ cong, cuộn về phía trong, giống như một nếp gấp trong đá núi.
Mặt trời buổi sáng chiếu lấp lóa trên kính chắn gió. Tôi nhìn thấy những vết nứt, vết rạn đan chéo nhau. Hình ảnh ấy quen thuộc, tôi đã nhìn thấy hàng trăm tấm kính chắn gió xe hơi nứt vỡ trong bãi phế liệu, mỗi tấm đều độc nhất vô nhị, với những chùm vết nứt như tơ nhện lộ ra từ điểm va đụng, biên niên sử về một vụ đâm xe. Những vết nứt trên tấm kính chắn gió của chúng tôi kể câu chuyện của riêng nó. Tấm chấn là một vòng tròn nhỏ với những vết nứt tỏa ra theo hình vòng tròn. Vòng tròn đó ở ngay phía trước ghế khách.
“Em không sao chứ?” Bố hỏi giọng van vỉ. “Em à, em có nghe anh nói không?”
Mẹ đang ngồi ở ghế khách. Người mẹ không hướng ra cửa sổ. Tôi không thể nhìn thấy mặt mẹ, nhưng có gì đó đáng sợ trong cái cách mẹ ngồi lún sâu trong ghế.
“Em có thể nghe anh nói không đấy?” Bố nói. Bố nhắc lại câu đó vài lần. Cuối cùng, bằng một cử động nhỏ đến nỗi gần như không thể nhận ra, tôi thấy túm tóc cột kiểu đuôi ngựa của mẹ hơi hạ xuống rồi lại trở về vị trí cũ khi mẹ gật đầu.
Bố đứng đó, nhìn những sợi dây điện đang dẫn điện, nhìn mặt đất, nhìn mẹ. Trông bố đầy vẻ bất lực. “Em có nghĩ – anh nên gọi xe cứu thương không?”
Tôi nghĩ mình đã nghe thấy bố nói như vậy. Và nếu bố đã nói như vậy, và chắc hẳn bố đã nói, mẹ chắc hẳn đã thều thào trả lời, hoặc có lẽ mẹ không thể thều thào bất cứ điều gì, tôi không biết nữa. Tôi luôn mường tượng rằng mẹ bảo mọi người đưa về nhà.
Sau này tôi được kể cho biết rằng người chủ trang trại có chiếc máy gặt bị xe của chúng tôi đâm vào vội chạy từ nhà ông ta ra. Ông gọi cảnh sát, điều mà chúng tôi biết sẽ mang đến phiền phức bởi vì xe của chúng tôi không có bảo hiểm, và không ai trong chúng tôi thắt dây an toàn. Có lẽ phải mất tới hai mươi phút sau khi người chủ trang trại đó thông báo về vụ tai nạn chọ cơ quan điện lực Utah họ mới cắt điện trên tuyến đường dây đó, Sau đó, bố nhấc mẹ ra khỏi chiếc xe thùng và tôi nhìn thấy khuôn mặt của mẹ – đôi mắt mẹ, ẩn dưới những vệt thâm tím cỡ bằng những quả mận, và những chỗ sưng to khiến những đường nét mềm mại trên mặt mẹ trở nên méo mó, vài nét bị kéo dài, vài nét khác rúm ró.
Tôi không biết chúng tôi đã về nhà bằng cách nào, hoặc khi nào, nhưng tôi nhớ mặt núi ánh lên màu da cam trong ánh mặt trời buổi sáng. Vừa vào trong nhà tôi nhìn Tyler nhổ cả suối chất lỏng màu đỏ sẫm xuống bồn rửa trong phòng vệ sinh. Răng của anh bị đập vào bánh lái, lộn xộn hết cả, đến mức chúng thụt vào trong, nhô về phía vòm miệng của anh. Mẹ nằm trên sofa. Mẹ làu bàu rằng ánh sáng làm mẹ nhức mắt. Chúng tôi kéo rèm lại. Mẹ muốn ở dưới tầng hầm, nơi không có cửa sổ, vậy nên bố đưa mẹ xuống cầu thang và trong vài giờ tôi không nhìn thấy mẹ, cho đến tối hôm đó, khi tôi dùng chiếc đèn pin lờ mờ để mang bữa tối xuống cho mẹ. Khi tôi nhìn thấy mẹ, mẹ như một người lạ đối với tôi. Cả hai mắt mẹ tím sẫm, tím đến mức trông chúng như toàn một màu đen, và sưng đến nỗi tôi không biết mắt mẹ đang mở hay nhắm. Mẹ gọi tôi là Audrey, thậm chí sau khi tôi đính chính cho mẹ hai lần. “Cảm ơn con, Audrey, ở đây tối và yên tĩnh, thế là tốt rồi. Tối. Yên tĩnh. Cảm ơn con. Một lúc nữa hãy quay trở lại xem mẹ ra sao nhé, Audrey.”
Trong suốt một tuần mẹ không ra khỏi hầm. Mỗi ngày chỗ sưng của mẹ lại tệ hơn, những vết bầm càng ngày càng trở nên thâm đen hơn. Tối nào tôi cũng chắc chắn rằng mặt mẹ đã bầm tím và biến dạng hết mức có thể rồi, nhưng sáng nào tôi cũng thấy nó thâm đen hơn, sưng húp hơn. Sau một tuần, khi mặt trời lặn, tôi tắt đèn đi và mẹ bước lên cầu thang. Trông mẹ như có hai trái táo, đen như quả ô liu được gắn vào trán.
Không ai bàn thêm về bệnh viện nữa. Thời điểm để quyết định đã trôi qua, và quay trở lại với chủ đề đó chẳng khác nào quay trở lại với tất cả nỗi giận dữ và sợ hãi mà vụ tai nạn gây ra. Bố nói dẫu sao các bác sĩ cũng chẳng thể làm gì cho mẹ được. Mẹ đang ở trong tay của Chúa.
Trong những tháng sau đó, mẹ gọi tôi bằng nhiều cái tên. Khi mẹ gọi tôi là Audrey tôi không lo lắng, nhưng nó thật sự là vấn đề khi mẹ cứ ám chỉ tôi là Luke hoặc Tony, và trong gia đình chúng tôi mọi người, thậm chí bản thân mẹ, luôn nhất trí rằng kể từ vụ tai nạn đó mẹ sẽ không bao giờ còn được như trước nữa. Bọn trẻ chúng tôi gọi mẹ là Mắt Gấu Trúc. Chúng tôi cứ nghĩ đó chỉ là đùa thôi, khi những quầng đen hiển hiện trên mắt mẹ trong vài tuần, đủ lâu để chúng tôi quen với chúng và khiến chúng trở thành đối tượng để trêu đùa. Chúng tôi không biết đó là một thuật ngữ y khoa. Mắt gấu trúc. Một dấu hiệu của tổn thương não nghiêm trọng.
Tyler bị ám ảnh bởi cảm giác có lỗi. Anh trách bản thân vì vụ tai nạn, rồi tiếp tục trách mình về mọi quyết định được đưa ra sau đó, về mọi hậu quả, mọi ảnh hưởng lay lắt qua nhiều năm. Anh tuyên bố cái khoảnh khắc đó và mọi hậu quả của nó đều thuộc trách nhiệm của mình, như thể chính thời gian đã khởi đầu khoảnh khắc chiếc xe thùng của chúng tôi chạy ra khỏi đường cái, mà không có lịch sử, bối cảnh, hay bất kỳ lực nào cho tới khi anh bắt đầu mọi chuyện, ở tuổi mười bảy, bằng việc ngủ gật trước vô lăng. Thậm chí bây giờ, khi mẹ đã quên bất kỳ chi tiết nào, dù là vặt vãnh, vẻ hối lỗi ấy vẫn xuất hiện trong mắt anh – nó xuất hiện ở anh sau vụ tai nạn, khi máu tuôn ra từ miệng anh khi anh nhìn thấy cảnh đó, đảo mắt lục tìm những gì anh hình dung là do mình gây ra, chỉ do mình anh thôi.
Cá nhân tôi, tôi chưa bao giờ trách ai vì vụ tai nạn đó, chí ít không đổ toàn bộ lỗi cho Tyler. Việc anh ngủ gật chỉ là một trong nhiều yếu tố. Một thập kỷ sau, sự hiểu biết của tôi thay đổi, một phần vì tôi đã có bước chuyển nhọc nhẫn sang tuổi trưởng thành, rồi sau đó vụ tai nạn luôn khiến tôi nghĩ đến những người Phụ nữ Apache, và tất cả những quyết định ảnh hưởng đến một cuộc đời – những lựa chọn mà con người ta làm cùng nhau hoặc đơn lẻ, dẫn đến bất cứ một sự kiện nào. Những hạt cát, nhiều vô kể, nén lại thành trầm tích, rồi hóa đá.
Chú thích:
[1] Một bộ lạc da đỏ ở Bắc Mỹ.
[2] Illuminati trong tiếng Latin là “khai sáng,” một hội kín được thành lập năm 1776 với mục đích chống mê tín, chống sự thành kiến tôn giáo và ủng hộ bình đẳng giới.