← Quay lại trang sách

Chương 5 Đời Lấm Lem Lương Thiện

Núi rũ dần lớp tuyết phủ trên mình và nàng công chúa xuất hiện trên bề mặt của núi với mái đầu chạm nhẹ vào bầu trời. Đó là ngày Chủ nhật, một tháng sau vụ tai nạn, và cả nhà tôi đều đã tập trung trong phòng khách. Bố vừa mới bắt đầu giải nghĩa một đoạn Kinh Thánh thì Tyler hắng giọng nói rằng anh sẽ đi. “Con sẽ đ-đ-đi học đ-đ-đại học,” anh nói, mặt anh đanh lại. Một đường gân trên cổ anh nổi rõ khi anh cố ép cho lời nói bật ra, và cứ vài giây đường gân ấy lại xuất hiện rồi biến mất, như một con rắn đang bò len lỏi.

Tất cả mọi người đều nhìn bố. Vẻ mặt bố không lộ cảm xúc, dửng dưng. Im lặng còn khó chịu hơn cả quát tháo.

Tyler sẽ là người thứ ba trong số các anh của tôi đi khỏi nhà. Tony, anh cả của tôi, chuyên chở thiết bị, cát sỏi hoặc phế liệu, cố ky cóp được đủ tiền để cưới cô gái nhà ở ngoài đường cái. Shawn, anh thứ hai, vài tháng trước đã to tiếng với bố và bỏ đi. Từ đó tôi chưa gặp anh mặc dù cứ vài tuần mẹ lại nhận được một cú điện thoại chớp nhoáng của anh thông báo rằng anh ổn, rằng anh đang hàn xì hoặc chở các thứ. Nếu Tyler cũng bỏ đi thì bố sẽ không có một đội lao động nữa, và không có ai làm cùng, bố không thể xây dựng chuồng trại hay lán chứa cỏ khô cho người ta. Bố sẽ phải quay lại với việc gom phế liệu.

“Trường gì vậy?” Tôi hỏi.

“Trường đặc biệt dành cho những đứa quá ngu không thể học thẳng một lèo,” bố nói. Tyler nhìn trân trân xuống nền nhà, mặt anh căng thẳng. Sau đó vai anh chùng xuống, mặt anh nhẹ nhõm và anh ngước lên nhìn; đối với tôi dường như về mặt tinh thần anh không còn ở đó nữa. Đôi mắt anh dịu dàng và vui vẻ. Tôi không thể nhìn thấy anh ở trong đó.

Anh lắng nghe bố bắt đầu bài thuyết giáo của mình. “Có hai loại giáo sư đại học,” bố nói. “Một loại biết mình đang nói dối, và một loại nghĩ mình đang nói thật.” Bố cười xếch đến mang tai. “Không biết loại nào tồi hơn, hãy nghĩ mà xem, một người theo hội Illuminati thành thật, chí ít cũng biết mình ở phía quỷ dữ, hay một tay giáo sư kiêu căng luôn nghĩ trí khôn của mình vĩ đại hơn của Chúa.” Bố vẫn cười ngoác miệng. Tình huống không nghiêm trọng; chỉ là bố cần giúp con trai của bố nhìn nhận vấn đề một cách hợp lý thôi mà.

Mẹ nói bố đang lãng phí thời gian, rằng một khi Tyler đã quyết định điều gì thì không ai có thể thuyết phục anh thay đổi. “Anh cũng có thể cầm chổi và bắt đầu quét bụi trên núi kia mà,” mẹ nói. Sau đó mẹ đứng dậy, mất vài giây để đứng vững, rồi lê bước xuống cầu thang.

Mẹ bị chứng đau nửa đầu. Mẹ gần như luôn bị chứng bệnh đó hành hạ. Ban ngày mẹ vẫn ở dưới tầng hầm, chỉ lên trên sau khi mặt trời lặn, và thậm chí mẹ hiếm khi ở trên nhà hơn một tiếng đồng hồ bởi vì khi mẹ nghe tiếng ồn và mẹ phải gắng sức cử động thì đầu mẹ đau nhức. Tôi nhìn mẹ cẩn thận và chậm chạp bước xuống các bậc thang, lưng mẹ khòng khòng, hai bàn tay mẹ bám chặt thanh vịn cầu thang, như thể mẹ bị mù và phải lần đường đi. Mẹ đợi cả hai chân đứng vững trên một bậc thang rồi mới lần tới bậc tiếp theo. Mặt mẹ đã gần hết sưng, và mẹ trông gần giống như trước, ngoại trừ những quầng đen quanh mắt, đã nhạt dần, chuyển từ màu đen sang màu tím sẫm, và bây giờ có thêm sắc tím hoa cà và màu nho khô.

Một giờ sau bố thôi cười ngoác miệng. Tyler không nhắc lại ý muốn đi học đại học, nhưng anh cũng chẳng hứa sẽ ở nhà. Anh chỉ ngồi đó, với vẻ mặt trống rỗng đó, để vượt qua cơn sóng gió. “Một người đàn ông không thể kiếm sống từ sách vở và giấy vụn được,” bố nói. “Con sẽ là chủ một gia đình. Làm thế nào con có thể nuôi nổi vợ con mình bằng sách vở hả?” Tyler dỏng tai lên, cho thấy anh đang nghe, và không nói gì.

“Một đứa con trai của bố, đứng xếp hàng để được bọn theo xã hội chủ nghĩa và các gián điệp của hội Illuminati tẩy não…”

“Cái tr-tr-trường ấy do một nhà thờ quản lý,” Tyler ngắt lời bố, “Làm sao nó có thể x-x-xấu xa được cơ chứ?”

Bố há hốc miệng và một luồng hơi được phả ra. “Mày không nghĩ hội Illuminati đã thâm nhập vào nhà thờ đó sao?” Giọng bố oang oang; từng từ dội lại với sức mạnh của quyền lực. “Mày không nghĩ nơi đầu tiên bọn người kia sẽ tìm đến là cái trường đó, nơi bọn họ có thể nuôi cả một thế hệ những người Mặc Môn theo chủ nghĩa xã hội sao? Bố nuôi dạy mày hơn thế chứ!”

Tôi luôn nhớ bố mình lúc đó, cũng như uy quyền, nỗi tuyệt vọng của bố. Bố rướn người về phía trước, cằm bạnh ra, mắt nhíu lại, tìm kiếm trên khuôn mặt của con trai mình dấu hiệu của thái độ tán thành, của niềm chia sẻ. Nhưng bố chẳng tìm thấy gì.

Chuyện Tyler quyết định rời khỏi núi là chuyện lạ, đầy những khoảng trống và những khúc quanh. Nó bắt đầu với bản thân Tyler, với thực tế lạ lùng về anh. Chuyện đó đôi khi xảy ra trong các gia đình: một đứa con không hòa hợp, nhịp của nó bị ngắt, lạc điệu. Trong gia đình của chúng tôi, đứa con ấy là Tyler. Anh nhảy valse trong khi những người còn lại trong gia đình nhảy điệu jig. Anh bị điếc trước thứ “âm nhạc” xôn xao náo động trong cuộc sống của chúng tôi, và chúng tôi bị điếc trước loại nhạc đa âm trầm lắng của anh.

Tyler thích sách, anh thích yên tĩnh. Anh thích việc bài trí, sắp xếp và dán nhãn. Có lần, mẹ tìm thấy cả một ngăn đầy bao diêm được xếp theo năm trong tủ quần áo của anh. Tyler nói rằng chúng chứa những chiếc gọt chì của anh trong năm năm qua, mà anh đã sưu tầm để chế bật lửa cho những chiếc ba lô “thoát hiểm” của chúng tôi. Ngoài ngăn tủ đó, những chỗ khác trong nhà lộn xộn không chối cãi được: những đống quần áo bẩn, dính dầu mỡ lem nhem từ bãi phế thải, rong rắc khắp sàn các phòng ngủ; trong bếp, những lọ rượu thuốc đục ngầu xếp hàng trên mọi cái bàn, mọi cái tủ, và chúng chỉ được dọn đi để lấy chỗ cho những công trình thậm chí còn gây bừa bộn hơn, chẳng hạn để lột da một con nai chết hoặc để lột dấu niêm cất của một khẩu súng trường. Nhưng giữa trung tâm của mớ lộn xộn này, Tyler đã có bộ sưu tập gọt chì nửa thế kỷ, được sắp xếp đâu ra đấy theo năm.

Các anh tôi giống như một bầy sói. Họ liên tục thử thách nhau, bằng những cuộc ẩu đả nổ ra mỗi lần người nào đó phát triển nhảy vọt và mơ đến việc tiến lên. Khi tôi còn nhỏ, những cuộc ẩu đả này thường kết thúc bằng việc mẹ gào lên át cả tiếng loảng xoảng của một chiếc đèn hoặc bình hoa vỡ, nhưng khi tôi lớn hơn chẳng còn lại nhiều thứ để mà đập vỡ. Mẹ kể rằng, khi tôi còn bé, nhà chúng tôi đã từng có một chiếc TV cho tới khi Shawn dúi đầu Tyler vào màn hình.

Trong khi các anh tôi vật nhau, Tyler nghe nhạc. Anh sở hữu chiếc máy nghe nhạc duy nhất mà tôi từng nhìn thấy tính cho đến lúc đó, và bên cạnh chiếc máy ấy anh để một chồng đĩa CD cao ngất với những từ lạ hoắc in trên đó, như Mozart, Chopin. Một buổi trưa Chủ nhật, khi anh khoảng mười sáu tuổi, anh bắt gặp tôi đang tròn mắt nhìn những đĩa nhạc ấy. Tôi cố chạy, bởi vì tôi nghĩ mình có thể bị anh nện cho một trận vì mò vào phòng anh, nhưng thay vì thế anh nắm tay tôi, dẫn tôi tới chỗ những đĩa nhạc đó. “E-em thích đĩa n-nào nhất?” Anh hỏi.

Tôi thích chiếc đĩa đen sì, với hình cả trăm người đàn ông và đàn bà mặc đồ trắng trên vỏ đĩa. Tôi chỉ vào nó. Tyler nhìn tôi vẻ hoài nghi. “Ð-đ-đây là nhạc h-h-hợp xướng đấy,” anh nói.

Anh tra đĩa nhạc đó vào cái máy nghe nhạc đen sì, sau đó ngồi vào bàn đọc sách. Tôi ngồi xổm trên sàn nhà, cạo cạo những hoa văn trên tấm thảm. Nhạc bắt đầu ngân lên: một hơi của bộ dây, sau đó là tiếng thầm thì của những giọng người, trầm bổng, êm như lụa, nhưng không hiểu sao lại vang vọng. Bài thánh ca này quen thuộc đối với tôi – tôi đã hát nó tại nhà thờ, một dàn đồng ca của những giọng hát không ăn nhập với nhau mấy cất lên trong niềm tôn kính – nhưng nhạc này khác. Nó cũng ngập tràn niềm tôn kính, nhưng nó cũng là điều gì đó khác, một điều gì đó liên quan đến học tập, kỷ luật và hợp tác. Một điều gì đó tôi chưa hiểu được.

Bài thánh ca kết thúc và tôi ngồi im như tượng khi bản nhạc khác ngân lên, rồi bản tiếp theo, cho đến hết đĩa nhạc. Tôi có cảm giác thiếu âm nhạc căn phòng không có sinh khí. Tôi hỏi Tyler liệu chúng tôi có thể nghe lại đĩa nhạc đó không, và một giờ sau, khi nhạc dừng, tôi nài nỉ anh cho nghe lại. Đêm đã khuya, và ngôi nhà trở nên im ắng, khi Tyler đứng dậy khỏi bàn và ấn nút “play,” nói rằng đó là lần cuối.

“Mai a-a-anh em mình lại ngh-ngh-nghe,” anh nói.

Âm nhạc trở thành ngôn ngữ của chúng tôi. Trở ngại về nói năng của Tyler khiến anh trầm lặng, làm lưỡi anh nặng trĩu. Vì thế anh và tôi chưa bao nói chuyện nhiều; tôi không hiểu anh trai mình. Giờ đây, tối nào anh ở bãi phế liệu về, tôi cũng đợi anh. Sau khi anh tắm rửa, kỳ sạch bụi bẩn của ngày khỏi da mình, anh ngồi vào bàn và nói, “T-t-tối nay chúng ta sẽ ngh-nghe gì-gì nào?” Sau đó tôi chọn một đĩa nhạc còn anh ngồi đọc sách trong khi tôi nằm trên sàn ngay dưới chân anh, nhìn dán mắt vào đôi tất của anh và nghe nhạc.

Tôi cũng om xòm như bất cứ người anh nào của tôi, nhưng khi ở bên Tyler tôi đã thay đổi. Có lẽ chính âm nhạc, sự thanh cao của nó, hoặc có lẽ sự thanh cao của anh đã khiến tôi thay đổi. Bằng cách nào đó anh làm cho tôi thấy được bản thân qua con mắt của anh. Tôi cố nhớ không la hét. Tôi cố tránh các trận đánh nhau với Richard, nhất là loại ẩu đả kết thúc bằng cảnh hai đứa chúng tôi lăn trên sàn nhà, anh ấy bứt tóc tôi, tôi dùng móng tay cào lên gương mặt mịn màng của anh ấy.

Đáng lẽ tôi nên biết sẽ có ngày Tyler ra đi. Tony và Shawn đã ra đi, mà trước đó các anh ấy gắn bó với núi Buck theo cái cách chẳng bao giờ có ở Tyler. Tyler luôn thích điều bố tôi gọi là “học qua sách,” điều mà những người còn lại trong chúng tôi, trừ Richard, hoàn toàn dửng dưng.

Có dạo, khi Tyler còn bé, mẹ tôi nuôi ảo tưởng về giáo dục. Mẹ từng nói chúng tôi được giữ ở nhà để có thể hưởng sự giáo dục tốt hơn những đứa trẻ khác. Nhưng chỉ mẹ nói thế, vì bố nghĩ chúng tôi nên học các kỹ năng thực tế hơn. Khi tôi còn bé xíu, đó là một cuộc chiến giữa bố mẹ: sáng sáng mẹ cố gắng duy trì việc học của các con, còn bố thì hễ mẹ quay đi là y như rằng lập tức lùa các con trai ra bãi phế liệu.

Nhưng cuối cùng mẹ thua. Chuyện đó bắt đầu với Luke, đứa con trai thứ tư của mẹ. Về những gì liên quan đến núi, Luke thông minh – anh tương tác với những con thú hệt như anh đang nói chuyện với chúng – nhưng anh khuyết tật nặng trong học hành và phải vật lộn rất vất vả để học đọc. Năm năm trời, sáng sáng mẹ tôi ngồi kèm anh học tại bàn ăn, giải thích đi giải thích lại các nguyên âm, nhưng đến khi Luke mười hai tuổi, tất cả những gì anh có thể làm là vừa ho sặc sụa vừa rặn ra một câu từ Kinh Thánh trong buổi học Kinh Thánh của gia đình. Mẹ không thể hiểu nổi điều đó. Mẹ không gặp khó khăn khi dạy Tony và Shawn học đọc, và những đứa con khác đơn giản học kỹ năng đó nhờ thực hành. Tony dạy tôi đọc khi tôi bốn tuổi, để thắng một vụ đánh cược với Shawn, tôi nghĩ vậy.

Khi Luke có thể viết nguệch ngoạc tên mình và đọc những cụm từ ngắn, đơn giản, mẹ chuyển sang dạy toán. Kiến thức toán mà tôi được dạy đều là trong bữa ăn sáng, vừa ăn vừa nghe mẹ giải thích đi giải thích lại phân số là gì hoặc sử dụng các số âm như thế nào. Luke chẳng tiến bộ chút nào và sau một năm mẹ bỏ cuộc. Mẹ thôi nói rằng chúng tôi đang được hưởng sự giáo dục tốt hơn so với những đứa trẻ khác. Mẹ bắt đầu lặp lại lời bố. “Tất cả những gì thực sự quan trọng,” một buổi sáng mẹ nói với tôi, “là các con hãy học đọc. Những thứ nhảm nhí khác chỉ là tẩy não mà thôi.” Bố bắt đầu xuất hiện ngày càng sớm hơn để lùa lũ con trai ra bãi phế liệu, cho đến khi tôi lên tám, và Tyler mười sáu, chúng tôi đã hình thành thói quen bỏ học cả lũ.

Tuy nhiên mẹ không ngả hoàn toàn theo triết lý của bố, và thỉnh thoảng cơn nhiệt tình cũ của mẹ lại nổi lên. Vào những ngày như thế, khi gia đình tôi tập trung quanh bàn, ăn sáng, mẹ thông báo hôm nay chúng tôi sẽ học. Mẹ có một giá sách trong tầng hầm, chứa đầy những cuốn sách về thảo dược, cùng với vài cuốn sách bìa mềm. Có vài cuốn giáo trình toán mà chúng tôi dùng chung, và một cuốn sách lịch sử nước Mỹ mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy ai đọc trừ Richard. Cũng có một cuốn sách khoa học chắc hẳn dành cho trẻ con bởi vì nó đầy rẫy những hình minh họa bắt mắt.

Thường phải mất nửa giờ để tìm tất cả những cuốn sách, sau đó chúng tôi chia chúng cho nhau và ngồi trong những phòng riêng để học. Tôi không biết các anh chị tôi làm gì trong giờ học, nhưng khi tôi học tôi mở cuốn sách toán của mình ra và dành mười phút để lật trang, miết ngón tay dọc đường gấp giữa quyển. Nếu ngón tay tôi chạm được tới năm mươi trang thì tôi báo cho mẹ biết rằng tôi đã học được năm mươi trang toán.

“Tuyệt!” mẹ nói. “Con thấy chưa? Ở trường công thì làm sao con học nhanh được như thế. Chỉ có học ở nhà, nơi con có thể ngồi thực sự tập trung, không sao lãng gì hết, con mới có thể đạt được tốc độ đó thôi.”

Mẹ chẳng bao giờ giảng bài hoặc ra bài kiểm tra hoặc bài thi. Mẹ chẳng bao giờ giao cho chúng tôi viết các bài luận. Có một chiếc máy tính trong tầng hầm cài một chương trình mang tên Mavis Beacon cung cấp các bài tập đánh máy.

Thỉnh thoảng, khi mẹ đi giao thảo dược, nếu chúng tôi đã làm xong các phần việc của mình, mẹ thả chúng tôi xuống thư viện Carnegie ở trung tâm thị trấn. Tầng hầm ở đó là một phòng đầy ắp những cuốn sách dành cho thiếu nhi mà chúng tôi đọc. Richard thậm chí lấy những cuốn sách ở tầng trên, những cuốn sách nghe tên đã thấy “khó nhằn” về lịch sử và khoa học.

Trong gia đình chúng tôi, chúng tôi hoàn toàn tự học: bạn học bất cứ thứ gì bạn có thể tự học lấy, sau khi bạn đã làm lụng xong. Vài người trong chúng tôi có kỷ luật tốt hơn những người khác. Tôi là đứa vô kỷ luật nhất, vậy nên khi tôi mười tuổi, môn học duy nhất mà tôi đã học một cách có hệ thống là mã Morse, bởi vì bố tôi khăng khăng bắt tôi học nó. “Nếu toàn bộ lưới điện bị cắt thì chúng ta sẽ là gia đình duy nhất ở thung lũng có thể duy trì thông tin liên lạc,” bố nói, mặc dù tôi không bao giờ hoàn toàn chắc chắn liệu có phải chúng tôi là những người duy nhất học mã Morse hay không, và chúng tôi sẽ liên lạc với ai kia chứ.

Đám con trai lớn – Tony, Shawn và Tyler – lớn lên ở một thập kỷ khác, và cứ như thể các anh không phải là anh cùng bố cùng mẹ với tôi. Bố của các anh chưa bao giờ nghe nói về gia đình Weaver; chẳng bao giờ nói về hội Illuminati. Bố của các anh cho ba đứa con trai lớn nhất đi học, và dù vài năm sau đó ông bắt chúng nghỉ học cả, thề rằng sẽ dạy chúng tại nhà, khi Tony đòi đi học trở lại, ông để cho anh đi. Tony đến trường tới hết trung học, dù anh nghỉ học nhiều ngày để làm việc trong bãi phế liệu đến mức anh không thể tốt nghiệp.

Vì Tyler là con trai thứ ba, anh hầu như không nhớ trường và vui với việc học ở nhà. Cho tới khi anh bước sang tuổi mười ba. Sau đó, có lẽ vì mẹ dành toàn bộ thời gian để dạy Luke đọc chữ, nên Tyler hỏi bố liệu anh có thể đăng ký đi học lớp tám hay không.

Tyler học ở trường cả năm đó, từ mùa thu năm 1991 tới mùa xuân năm 1992. Anh học đại số, môn học mà anh cảm thấy gần gũi và tự nhiên đối với đầu óc của anh như không khí đối với buồng phổi vậy. Thế rồi tháng Tám năm ấy gia đình Weaver bị bao vây. Tôi không biết sau đó Tyler có đi học trở lại hay không, nhưng tôi biết rằng sau khi bố nghe tin về gia đình Weaver, bố không bao giờ cho phép các con mình đặt chân tới một lớp học của trường công nữa. Tuy nhiên, trí tưởng tượng của Tyler bị thu hút. Với số tiền mình có, anh mua một cuốn giáo trình lượng giác và mày mò tự học. Tiếp theo anh muốn học giải tích nhưng không đủ tiền để mua một cuốn sách khác, vậy nên anh tìm đến trường học, xin thầy giáo dạy toán của mình một cuốn. Ông thầy cười anh. “Cậu không thể tự học giải tích được đâu,” ông nói. “Việc đó bất khả thi.” Tyler xốc tới. “Thầy cứ cho em xin một cuốn, em nghĩ em có thể tự học.” Anh ra về với một cuốn sách kẹp nách.

Khó khăn thực sự là tìm được thời gian để học. Sáng nào cũng vậy, đúng bảy giờ bố tập trung các con trai mình lại, chia ra thành các đội và phân công công việc của ngày. Thường mất khoảng một giờ để bố nhận ra rằng Tyler không có mặt trong các đội lao động của mình. Sau đó, bố lao vào nhà bằng lối cửa sau và sải bước tới chỗ Tyler đang ngồi học trong phòng riêng của anh. “Mày làm cái quái gì ở đây thế hả?” Bố gào lên, để lại những cục đất nhỏ trên tấm thảm sạch không một vết bụi của Tyler.

“Luke đang chất những cái dầm chữ I lên xe một mình kia kìa – một người làm việc của hai người – và tao vào đây thấy mày đang ngồi mài mông hả?”

Nếu bố bắt gặp tôi đang gặm một cuốn sách khi mà đáng lẽ tôi đang phải làm việc thì tôi sẽ đứng dậy ngay tắp lự, nhưng Tyler vẫn bình tĩnh, không thay đổi. “Bố,” anh nói. “Sau bữa tr-tr-trưa con sẽ L-l-làm việc. Nhưng buổi sáng con c-c-cần phải h-h-học.” Hầu như sáng nào bố và anh Tyler cũng tranh cãi vài phút, sau đó Tyler buông bút, vai anh chùng xuống khi anh xỏ đôi giày ống vào chân và đi găng tay bảo hộ vào. Nhưng có những buổi sáng khác – những buổi sáng luôn luôn khiến tôi ngạc nhiên – khi bố hầm hầm đi ra khỏi nhà bằng cửa sau một mình.

Tôi không tin Tyler sẽ đi học đại học thật, không tin có khi nào anh lại bỏ núi để gia nhập hội Illuminati. Tôi nghĩ rằng bố có cả mùa hè để khiến Tyler cư xử bình thường trở lại, điều mà anh cố gắng đạt được trong hầu hết các ngày khi đội lao động của bố về nhà ăn trưa. Lũ con trai chạy lăng xăng quanh bếp, lấy đĩa thức ăn – thứ hai, rồi thứ ba, còn bố nằm thẳng đuỗn trên vải sơn lót sàn cứng quèo – bởi vì bố mệt và cần nằm nghỉ, nhưng bố quá bẩn nên không thể ngả lưng trên sofa của mẹ – và bắt đầu bài giáo huấn của mình về hội Illuminati.

Một bữa trưa đặc biệt khiến tôi nhớ như in. Tyler đang xếp những chiếc bánh tacos từ các món hoa lá mà mẹ đã bày ra: anh xếp những cái vỏ bánh trên đĩa của mình, ba chiếc thành một hàng đẹp mắt, rồi cẩn thận thêm hamburger, rau diếp và những miếng cà chua, tính toán số lượng, chia đều kem chua. Bố giáo huấn bằng giọng đều đều. Thế rồi, đúng lúc bố vừa kết thúc bài giáo huấn và đang lấy hơi để bắt đầu lại, Tyler trút tất cả ba cái bánh tacos hoàn hảo vào cái máy xay sinh tố mà mẹ đùng để xay thảo dược, và bấm máy. Tiếng máy xay gầm lên trong bếp, áp đảo sự yên lặng. Tiếng gầm đó ngừng; bố tiếp tục giáo huấn. Tyler đổ món sinh tố ra ly và bắt đầu uống, cẩn trọng và chậm rãi bởi vì những chiếc răng cửa của anh vẫn lung lay, vẫn cố nhảy ra khỏi miệng anh. Nhiều ký ức có thể được gợi lại để đại điện cho giai đoạn này trong cuộc sống của chúng tôi, nhưng ký ức này cứ tồn tại cùng tôi: ký ức về giọng nói của bố cất cao từ dưới sàn nhà trong khi Tyler uống món tacos của anh.

Khi mùa xuân chuyển sang mùa hè, lòng quyết tâm của bố chuyển thành sự phủ nhận – bố hành động như thể cuộc “giằng co” đã kết thúc và bố đã thắng. Bố thôi nói về chuyện ra đi của Tyler và không chịu để người khác lao động thay anh.

Một buổi trưa ấm áp, Tyler dẫn tôi tới thăm bà-trong-thị-trấn, người vẫn sống trong chính ngôi nhà mà ông bà đã nuôi nấng mẹ tôi, ngôi nhà khác một trời một vực so với nhà chúng tôi. Nhìn bề ngoài nhà không đắt tiền, nhưng nó được chăm sóc kỹ lưỡng – thảm màu trắng kem trên sàn, giấy dán tường trang trí hình hoa lá trên tường, những tấm rèm xếp ly dày trên các ô cửa sổ. Họ hiếm khi thay các thứ. Thảm, giấy dán tường, mặt bàn bếp – mọi thứ đều y như trong những tấm ảnh mà tôi đã xem về thời thơ ấu của mẹ tôi.

Bố không thích chúng tôi dành nhiều thời gian ở đó. Trước khi ông ngoại tôi về hưu, ông là một bưu tá, và bố nói không ai đáng được chúng tôi tôn trọng lại làm việc cho Chính phủ. Bố nói bà thậm chí còn tệ hơn. Bà phù phiếm. Tôi không biết từ đó có nghĩa là gì, nhưng bố nói điều đó thường xuyên đến nỗi tôi đâm ra gắn nó với bà – với tấm thảm màu kem và giấy dán tường đầy hình hoa lá của bà.

Tyler thích mọi thứ ở đó. Anh thích không gian yên tĩnh, ngăn nắp, cái cách ông bà tôi nói năng với nhau thật nhẹ nhàng, hòa nhã. Trong ngôi nhà đó lúc nào cũng có mùi thơm thoang thoảng khiến tôi cảm thấy một cách tự nhiên mà không cần ai bảo ban, rằng tôi sẽ không la hét, không đánh bất cứ ai hoặc chạy xé gió trong bếp. Tôi không cần phải ai bảo đi bảo lại để tháo đôi giày dính bùn của mình để ở ngoài cửa.

“Đi học đại học!” Một lần bà nói khi chúng tôi vừa yên vị trên chiếc sofa được bọc vải in hoa. Bà quay sang tôi. “Chắc cháu tự hào về anh cháu lắm!” Đôi mắt bà nheo lại cho khớp với nụ cười trên môi bà. Tôi có thể nhìn thấy từng chiếc răng của bà. Hãy cứ để bà nghĩ bị tẩy não là điều gì đó đáng ca ngợi đi, tôi nghĩ.

“Cháu cần đi vệ sinh,” tôi nói.

Một mình trong hành lang tôi bước chầm chậm, cứ bước một bước lại dừng lại để các ngón chân mình lún trong lớp thảm dày. Tôi mỉm cười, nhớ rằng bố đã nói bà có thể giữ thảm của nhà bà trắng như vậy chỉ vì ông ngoại chẳng bao giờ làm một việc gì thực sự. “Tay bố có thể lấm lem đấy,” bố nói, nháy mắt với tôi và chìa những móng tay đen đúa của bố ra. “Nhưng đó là đời lấm lem lương thiện.”

Nhiều tuần trôi qua và khi đó đã là giữa mùa hạ. Một ngày Chủ nhật bố gọi cả gia đình lại. “Chúng ta đã có đủ thức ăn dự trữ,” bố nói. “Chúng ta đã có nhiên liệu và nước dự trữ. Thứ mà chúng ta không có là tiền.” Bố lấy một tờ hai mươi đô-la từ trong túi ra và vò nhàu nó.

“Không phải thứ tiền này. Vào Ngày Tận Thế, cái thứ tiền này chẳng đáng giá gì hết. Người ta sẽ bỏ cả nắm những tờ một trăm đô ra để mua một cuộn giấy vệ sinh.”

Tôi mường tượng ra một thế giới nơi những tờ tiền xanh bị vứt bừa bãi trên đường cao tốc như đống vỏ chai soda. Tôi nhìn quanh. Tất cả những người khác dường như cũng đang mường tượng ra cảnh đó, đặc biệt là Tyler. Đôi mắt anh đây tập trung và kiên quyết. “Bố có một ít tiền tiết kiệm,” bố nói. “Và mẹ các con có một chút để riêng. Chúng ta sẽ đổi tiền thành bạc. Đó là thứ mà chẳng bao lâu nữa mọi người sẽ ước có được, bạc và vàng.”

Vài ngày sau bố về nhà với chỗ bạc đã đổi được, thậm chí một ít vàng. Số vàng bạc đó được đúc dưới dạng những đồng xu, được xếp trong những cái hộp nhỏ, nặng trịch mà bố mang vào nhà và chất đống dưới hầm. Bố không cho phép tôi mở những cái hộp đó ra. “Chúng không phải là thứ để chơi,” bố nói.

Một thời gian sau Tyler lấy vài nghìn đô-la – gần như tất cả số tiền tiết kiệm mà anh còn sau khi đã trả tiền thuê máy kéo của chủ trang trại và tiền sử dụng xe thùng của bố – và mua một đống bạc của riêng mình, đống bạc mà anh cất trong hầm bên cạnh tủ chứa súng. Anh đứng đó một lúc lâu, nghĩ về những cái hộp ấy, như thể anh đang lơ lửng giữa hai thế giới.

Tyler là một mục tiêu dễ chinh phục hơn. Tôi nài xin và anh đưa cho tôi một đồng xu bạc to bằng lòng bàn tay tôi. Dường như đối với tôi việc Tyler mua nó là tuyên bố về lòng trung thành, một lời thề đối với gia đình rằng dù sự điên rồ đang xâm chiếm anh, rằng dù anh muốn đến trường, cuối cùng anh sẽ chọn chúng tôi, chọn gia đình. Chọn sát cánh với chúng tôi trong đấu tranh khi Ngày Tận Thế đến. Khi những chiếc lá bắt đầu chuyển từ màu xanh rêu của mùa hè sang màu đỏ nâu và màu vàng đồng, đồng xu ấy lấp lánh thậm chí trong ánh sáng mờ nhạt nhất, được đánh bóng bởi cả nghìn cái miết ngón tay. Tôi được an ủi nhờ cái vật sờ thấy được đó, chắc chắn rằng đồng xu ấy là thật, và không thể có chuyện Tyler sẽ ra đi.

Một buổi sáng tháng Tám tôi thức dậy thấy Tyler đang xếp quần áo, những cuốn sách và đĩa CD của anh vào hộp. Cho đến khi chúng tôi ngồi xuống để ăn sáng, anh đã gần như làm xong việc đó. Tôi ăn thật nhanh, sau đó đi vào phòng anh, nhìn các ngăn giá để đồ giờ đây trống không, chỉ còn mỗi một đĩa CD, chiếc đĩa màu đen có ảnh những người mặc đồ trắng mà giờ đây tôi nhận ra là dàn đồng ca Tabernacle của giáo phái Mặc Môn. Tyler xuất hiện ở cửa. “Anh đ-đ-để lại cái đĩa đó cho em đấy,” anh nói. Rồi anh bước ra ngoài và dùng vòi rửa chiếc xe hơi của anh, xối sạch hết bụi của Idaho cho tới khi chiếc xe trông như chưa bao giờ thấy một con đường đất.

Bố ăn sáng xong, chẳng nói chẳng rằng, bước ra khỏi nhà. Tôi hiểu tại sao. Cảnh Tyler chất những cái hộp vào xe của anh khiến tôi phát điên. Tôi muốn gào lên nhưng thay vì thế tôi chạy, chạy ra ngoài qua lối cửa sau và chạy lên những ngọn đồi về phía núi. Tôi chạy cho tới khi tiếng mạch đập trong tai tôi vang hơn cả những ý nghĩ trong đầu tôi; sau đó tôi quay người chạy ngược trở lại, ngoặt vào quanh đồng cỏ tới chỗ cái toa tàu hỏa màu đỏ. Tôi leo lên nóc toa tàu vừa đúng lúc để nhìn thấy Tyler đóng cốp xe của anh, đi một vòng quanh như muốn chào tạm biệt nhưng chẳng có ai ở đó để mà chào. Tôi mường tượng anh đang gọi tên tôi và hình dung ra mặt anh ỉu xìu khi tôi không trả lời.

Lúc tôi trèo xuống khỏi nóc toa tàu anh đã ngồi vào ghế lái, và chiếc xe chạy ầm ầm dọc con đường đất khi tôi nhảy ra từ sau một chiếc thùng phi. Tyler dừng lại, bước ra khỏi xe và ôm tôi – không phải ôm kiểu cúi xuống như người lớn thường ôm trẻ con mà ôm theo kiểu khác, cả hai chúng tôi đều đứng, anh kéo tôi lên phía anh và áp mặt anh vào mặt tôi. Anh nói anh sẽ nhớ tôi, rồi buông tôi ra, bước vào trong xe, phóng xuống đồi, rồi ra đường cao tốc. Tôi đứng nhìn bụi lắng xuống.

Từ sau đó Tyler hiếm khi trở về nhà. Anh đang xây dựng một cuộc sống mới cho bản thân ở phía bên kia chiến tuyến. Anh ít khí trở lại phía chúng tôi. Tôi hầu như không có kỷ niệm về anh cho tới năm năm sau, khi tôi mười lăm tuổi, và anh đột ngột xuất hiện trong cuộc sống của tôi vào một thời điểm quan trọng. Khi đó chúng tôi là những người xa lạ.

Nhiều năm sau tôi mới hiểu anh đã phải trả giá như thế nào cho việc ra đi, mà anh gần như chẳng hiểu mình sẽ đi đâu. Tony và Shawn đã rời núi, nhưng các anh ấy rời khỏi đó đi làm những gì mà bố đã dạy các anh làm: lái xe bán tải, hàn xì, gom phế liệu. Tyler đã bước vào một khoảng không. Tôi không biết tại sao anh lại làm thế và anh cũng chẳng biết. Anh chẳng thể giải thích niềm tin ấy bắt nguồn từ đâu, hoặc làm thế nào nó cháy sáng đủ để lấp lánh giữa màn đen của sự không chắc chắn. Nhưng tôi luôn cho rằng đó chính là âm nhạc ở trong đầu anh, một giai điệu đầy hy vọng mà những người khác trong gia đình không thể nghe thấy, chính giai điệu bí mật mà anh đã ngâm nga khi anh mua cuốn sách lượng giác đó, hoặc giữ lại tất cả những chiếc gọt chì kia.

Mùa hè dần tàn, dường như bốc hơi qua chính cái nóng của nó. Ngày vẫn nóng nhưng buổi tối đã bắt đầu mát mẻ, những giờ lạnh lẽo sau khi mặt trời lặn mỗi ngày một rõ rệt hơn. Tyler đã đi được một tháng.

Tôi ở với bà-trong-thị-trấn cả buổi trưa. Sáng hôm đó tôi đã tắm rửa, mặc dù hôm đó không phải là Chủ nhật, và tôi mặc bộ quần áo đặc biệt không thủng chỗ nào, không có một vết bẩn, đã kỳ cọ thật sạch sẽ để có thể ngồi trong bếp của bà xem bà làm bánh quy bí ngô. Mặt trời mùa thu rót nắng qua những tấm rèm nhẹ như tơ, lên những viên gạch màu vạn thọ, khiến cả căn phòng ngập tràn ánh sáng màu hổ phách.

Sau khi bà trút mẻ bánh đầu tiên vào lò nướng, tôi đi vào phòng vệ sinh. Tôi đi qua hành lang được trải thảm mềm màu trắng, và cảm thấy cơn tức giận dâng lên trong lòng khi tôi nhớ đến lần gần nhất tôi nhìn thấy tấm thảm, tôi đã ở đây cùng với Tyler. Phòng vệ sinh khiến tôi có cảm giác lạ lẫm. Tôi nhìn bồn rửa màu ngọc trai, sắc phớt hồng của thảm trải sàn, và tấm thảm màu trái đào trải ở cửa buồng vệ sinh. Thậm chí cái bồn cầu ló ra từ dưới cái nắp dậy màu vàng nhạt. Tôi nhìn vào hình ảnh mình trong tấm gương được đóng khung bởi những viên gạch men màu kem. Tôi chẳng thấy gì giống mình hết, và trong chốc lát tôi tự hỏi liệu đây có phải là những gì Tyler muốn không, một ngôi nhà đẹp mắt với một phòng vệ sinh đẹp mắt và một đứa em gái xinh xắn đến thăm anh. Vì điều đó mà anh ra đi chăng. Tôi ghét anh vì điều đó.

Gần vòi nước có một tá bánh xà phòng thơm màu hồng và trắng, được xếp như những con thiên nga và những bông hoa hồng trong cái khay hình vỏ sò trắng ngà. Tôi nhấc một con thiên nga lên, cảm nhận thân hình mềm mại của nó dưới sức ép của những ngón tay mình. Nó thật đẹp và tôi muốn lấy bánh xà phòng thơm đó. Tôi hình dung ra nó trong phòng vệ sinh ở tầng hầm nhà mình, đôi cánh thanh nhã của nó chạm xuống bề mặt xi măng thô kệch. Tôi tưởng tượng ra nó nằm trong vũng nước đục ngầu trong bồn rửa bị những mảnh giấy dán tường màu vàng cong queo bao quanh. Tôi đặt bánh xà phòng trở lại cái khay của nó.

Ra khỏi đó, tôi bước tới chỗ bà đang đợi tôi trong hành lang.

“Cháu đã rửa tay rồi chứ?” Bà hỏi, giọng bà ngọt ngào như kem bơ.

“Không ạ,” tôi đáp.

Lời đáp của tôi làm chua chất kem trong giọng nói của bà. “Tại sao không?”

“Tay cháu không bẩn.”

“Cháu nên rửa tay sau khi sử dụng toa-lét chứ.”

“Không quan trọng đến thế đâu ạ,” tôi nói. “Ở nhà chúng cháu thậm chí không có xà phòng thơm trong phòng vệ sinh.”

“Không đúng,” bà nói. “Ta nuôi dạy mẹ cháu tử tế hơn thế.”

Tôi đứng dạng chân, sẵn sàng đấu khẩu, cãi lại bà rằng chúng tôi không dùng xà phòng thơm, nhưng khi tôi nhìn lên, người phụ nữ mà tôi thấy không phải là người mà tôi nghĩ sẽ thấy. Bà dường như không lòe loẹt, không giống típ người lãng phí cả một ngày để bực dọc về tấm thảm trắng của mình. Lúc đó bà đã thay đổi. Có thể có điều gì đó trong hình dạng đôi mắt bà, cách chúng nheo lại nhìn tôi đầy vẻ hoài nghi, hoặc có lẽ đó là nét cứng rắn của khuôn miệng mím lại của bà, đầy kiên quyết. Hoặc có lẽ nó chẳng là gì cả, đó vẫn là bà như mọi khi, nói những điều mà bà luôn nói. Có lẽ sự thay đổi ở bà đơn thuần là sự đổi góc nhìn tạm thời từ phía tôi – bởi vì lúc đó, có lẽ góc nhìn ấy là góc nhìn của Tyler, của người anh trai mà tôi vừa ghét vừa yêu.

Bà dẫn tôi vào phòng vệ sinh và nhìn tôi rửa tay, sau đó bảo tôi lau khô tay vào chiếc khăn tắm màu hồng. Tai tôi nóng bừng, họng tôi bỏng rát.

Trên đường đi làm về bố ghé qua đón tôi. Bố dừng chiếc xe tải của mình lại, ngồi yên trong buồng lái, bấm còi inh ỏi gọi tôi ra, và tôi đi ra, đầu cúi gằm. Bà đi ra theo. Tôi chạy thật nhanh tới, leo lên ghế khách, chuyển cái hộp dụng cụ và đôi găng tay lao động ra chỗ khác trong khi bà nói với bố tôi về việc tôi không rửa tay. Bố nghe, làm động tác hóp má lại trong khi tay phải mân mê cần số. Một tiếng cười khùng khục nổi lên bên trong bố.

Quay sang bố mình, tôi cảm nhận được sức mạnh của con người bố. Một thấu kính quen thuộc trượt nhẹ trước mắt tôi và bà ngoại tôi mất đi bất cứ sức mạnh kỳ lạ nào mà bà đã có đối với tôi một giờ trước đó.

“Anh chị không dạy các con mình rửa tay sau khi sử dụng toa-lét sao?” Bà hỏi.

Bố vào số xe. Khi nó lăn bánh về phía trước, bố phẩy tay và nói, “Con dạy chúng không đái lên tay.”