Chương 14 Chân Tôi Không Chạm Đất Nữa
Tháng mười bố tôi ký được hợp đồng xây dựng một tổ hợp các kho chứa nông sản ở Malad, một thành phố bụi bặm có nhiều trang trại nằm ở phía bên kia núi Buck. Đó là một việc lớn đối với một đội lao động nhỏ – chỉ gồm bố, Shawn, Luke, Benjamin (chồng của Audrey) – nhưng Shawn là một thợ cả giỏi, và có anh cáng đáng công việc, đội của bố được tiếng là làm nhanh, đáng tin cậy.
Shawn không để bố làm tắt. Nhiều lần đi qua xưởng làm sắt, tôi nghe thấy bố và Shawn to tiếng với nhau, bố nói Shawn lãng phí thời gian, Shawn gào lên rằng bố suýt nữa đã làm ai đó mất đầu.
Shawn làm việc suốt nhiều ngày dài, lau chùi, cắt, hàn những vật liệu thô cho tổ hợp nhà kho, và khi việc xây dựng bắt đầu anh thường có mặt tại công trường ở Malad. Khi anh và bố về nhà, thường sau lúc mặt trời lặn nhiều tiếng đồng hồ, họ gần như luôn chửi thề. Shawn muốn chuyên nghiệp hóa hoạt động xây dựng, đầu tư khoản lợi nhuận từ vụ làm ăn ở Malad cho các trang thiết bị mới; bố muốn mọi thứ vẫn như cũ. Shawn nói bố không hiểu rằng nghề xây dựng có tính cạnh tranh hơn làm phế liệu, và rằng nếu họ muốn có được những hợp đồng thực sự thì họ cần dùng những khoản tiền thực sự cho trang thiết bị thực sự – đặc biệt, một chiếc máy hàn mới và một cần cẩu có giỏ nâng người làm việc trên cao.
“Chúng ta không thể dùng một cái cần cẩu và một tấm nâng bảng gỗ cũ đỉn được,” Shawn nói. “Nó trông như cứt, và nó nguy hiểm lắm đấy bố.”
Bố cười rõ to trước ý tưởng về cái giỏ nâng người làm việc trên cao. Hai mươi năm nay bố toàn sử dụng cần cẩu với tấm nâng bằng gỗ.
Hầu như hôm nào tôi cũng làm việc đến tối mịt. Ông Randy có kế hoạch đi một chuyến dài ngày bằng đường bộ để tìm các nhà bán lẻ mới, và ông bảo tôi quản lý cửa hàng trong thời gian ông đi vắng. Ông dạy tôi cách sử dụng máy tính để nhập liệu, xử lý đơn hàng, cách lưu số liệu kiểm kê. Chính nhờ ông mà lần đầu tiên tôi biết đến Internet. Ông chỉ cho tôi cách vào mạng, truy cập một trang web, cách viết thư điện tử. Hôm lên đường, ông đưa cho tôi một chiếc điện thoại di động để ông có thể liên lạc với tôi bất cứ lúc nào.
Một tối, tôi vừa mới đi làm về thì Tyler gọi điện. Anh hỏi tôi có đang học để thi ACT hay không. “Em không thể thi kỳ thi đó đâu,” tôi nói. “Em chẳng biết gì về toán cả.”
“Em có tiền mà,” Tyler nói. “Hãy mua sách mà học đi.”
Tôi nói không. Trường đại học đó không hợp với tôi. Tôi biết cuộc sống của mình rồi sẽ ra sao: mười tám hoặc mười chín tuổi, tôi sẽ lấy chồng. Bố muốn cho tôi một góc trang trại, và chồng tôi sẽ dựng nhà trên đó. Mẹ sẽ dạy tôi về thảo dược, và thuật đỡ đẻ vì bây giờ mẹ bị đau nửa đầu nên không hành nghề thường xuyên nữa. Khi tôi sinh con, mẹ sẽ là người đỡ đẻ, và một ngày nào đó tôi sẽ trở thành bà đỡ. Tôi thấy trường đại học chẳng khớp với chỗ nào trong cuộc sống đó.
Tyler dường như đọc được ý nghĩ của tôi. “Em biết sơ Sears chứ?” Anh nói. Sơ Sears là người chỉ huy dàn hợp xướng của nhà thờ. “Em nghĩ làm thế nào sơ biết chỉ huy một dàn hợp xướng chứ?”
Tôi luôn ngưỡng mộ sơ Sears, và luôn ghen tị với hiểu biết về âm nhạc của sơ. Tôi chưa bao giờ nghĩ sơ đã học như thế nào để có những kiến thức đó.
“Sơ đã học,” Tyler nói. “Em có biết em có thể lấy bằng về âm nhạc không? Nếu có bằng về âm nhạc thì em có thể dạy nhạc, em có thể chỉ huy dàn hợp xướng của nhà thờ. Dù bố sẽ không đồng ý, hoặc không hoàn toàn đồng ý.”
Mới đây mẹ tôi đã mua bản thử nghiệm AOL (gói Internet). Tôi chỉ vào mạng tại cửa hàng của ông Randy, cho công việc, nhưng sau khi Tyler gác máy, tôi mở máy tính của gia đình và đợi nó kết nối Internet. Tyler đã nói gì đó về trang web của BYU. Tôi chỉ mất vài phút để tìm ra trang ấy. Thế rồi màn hình đầy những bức ảnh – những tòa nhà bằng gạch xây quy củ mang màu đá mặt trời, được vây quanh bởi những cây xanh toàn màu ngọc lục bảo và những người đang vừa bước đi vừa cười, với những cuốn sách kẹp nách và những chiếc ba lô đeo trên vai. Cảnh trông như trong một bộ phim. Một bộ phim có nội dung vui vẻ.
Ngày hôm sau, tôi lái xe bốn mươi dặm tới hiệu sách gần nhất mua một bộ sách luyện thi ACT mới cóng. Tôi ngồi trên giường, mở bộ đề toán ra. Tôi nhìn săm soi trang đầu tiên. Không chỉ tôi không biết giải phương trình mà thậm chí còn không nhận biết được các ký hiệu. Trang thứ hai, trang thứ ba cũng thế.
Tôi cầm quyển bộ đề tới chỗ mẹ. “Cái gì đây hả mẹ?” Tôi hỏi.
“Toán,” mẹ nói.
“Vậy các con số ở đâu ạ?”
“Đó là đại số mà. Các chữ cái thay thế các con số.”
“Làm thế nào con giải được chứ?”
Mẹ loay hoay với tờ giấy và chiếc bút trong vài phút, nhưng mẹ không thể giải được phép tính nào trong năm phép tính đầu tiền, Ngày hôm sau, tôi lại lái xe bốn mươi dặm, tám mươi dặm cả đi cả về, và về nhà cùng với cuốn giáo trình đại số.
Mỗi tối, khi đội lao động của bố rời khỏi Malad, bố đều gọi điện về nhà để mẹ chuẩn bị bữa tối sẵn sàng khi chiếc xe tải của đội lên đồi. Tôi hóng cuộc gọi đó, và khi chuông reo, tôi ngồi vào xe của mẹ rồi lái đi. Tôi không biết tại sao. Tôi tới Worm Creek, ngồi ngoài ban công xem tập kịch, chân để trên gờ tường, một cuốn sách toán để mở trước mặt. Tôi không học toán kể từ khi học làm phép chia trên giấy và những khái niệm đều lạ lẫm đối với tôi. Tôi hiểu lý thuyết phân số nhưng vật vã thực hành những phép toán đó, và khi tôi nhìn thấy một số thập phân trên trang sách tim tôi đập loạn. Trong suốt một tháng đêm nào tôi cũng ngồi trong nhà hát, trên cái ghế bọc nhung đỏ, và làm những phép toán cơ bản – nhân các số thập phân, sử dụng phép nghịch đảo, cộng, nhân và chia số thập phân – trong khi trên sân khấu, các nhân vật tập đọc lời thoại của mình.
Tôi bắt đầu học lượng giác. Có chút an ủi trong các công thức và phương trình lạ lẫm của nó. Tôi bị cuốn hút bởi định lý Pythagore và định lý ấy hứa hẹn về một vũ trụ – khả năng dự đoán bản chất của ba điểm chứa một góc vuông, ở bất cứ đâu. Những gì về vật lý tôi đều học ở bãi phế liệu, nơi thế giới vật chất dường như thường bất ổn, thất thường. Nhưng đây là một nguyên lý mà nhờ đó các chiều của cuộc sống có thể được xác định, nắm bắt. Có lẽ hiện thực không hẳn là luôn thay đổi đột ngột. Có lẽ ta có thể giải thích, dự đoán nó. Có lẽ nó có thể được làm cho trở nên hợp lý.
Nỗi khổ sở bắt đầu khi tôi chuyển từ định lý Pythagore sang "sin", "cos" và "tan". Tôi không thể hiểu được những khái niệm trừu tượng đó. Tôi có thể cảm nhận được tính logic trong chúng, có thể cảm nhận được khả năng thiết lập trật tự và sự đối xứng, nhưng tôi không thể mở khóa được. Chúng cứ giữ khư khư bí ẩn của mình, trở thành một cái cồng mà ở bên ngoài nó tôi tin rằng có mồ thế giới của luật lệ và lý lẽ. Nhưng tôi không thể đi qua cánh cổng.
Mẹ nói rằng nếu tôi muốn học lượng giác thì mẹ có trách nhiệm dạy tôi. Mẹ dành ra một buổi tối, và hai mẹ con tôi ngồi tại bàn ăn, viết nguệch ngoạc lên những mẩu giấy và vò đầu bứt tóc. Chúng tôi dành ba tiếng đồng hồ cho một bài toán, và mọi câu trả lời mẹ con tôi tìm ra đều sai bét.
"Hồi học trung học mẹ không giỏi về lượng giác chút nào," mẹ rên rỉ, gập cuốn sách lại rõ mạnh. "Và mẹ đã quên tiệt chút kiến thức ít ỏi mà mẹ biết rồi."
Bố ở trong phòng khách, vừa sắp xếp những bản thiết kế cho tổ hợp nhà kho vừa lẩm bẩm một mình. Tôi đã quan sát bố vẽ những bản thiết kế đó, nhìn bố làm những phép tính, chỉnh sửa góc này, kéo dài thanh xà nọ. Bố từng được học chút ít toán cơ bản nhưng rõ ràng bố có năng khiếu: bằng cách nào đó tôi biết rằng nếu tôi đặt phép toán phương trình trước mặt bố thì bố sẽ giải được nó.
Khi tôi nói với bố rằng tôi định đi học đại học, bố nói chỗ của đàn bà con gái là ở nhà, rằng tôi nên học về thảo dược. "Thuốc của Chúa," bố gọi như vậy, mỉm cười với chính mình, để tôi có thể nối nghiệp mẹ. Tất nhiên, bố nói nhiều hơn thế, về việc tôi đang đua đòi theo đuổi sự hiểu biết của con người thay vì sự hiểu biết của Chúa, nhưng tôi vẫn quyết định hỏi bố về lượng giác. Tôi chắc chắn bố sở hữu một chút ít hiểu biết của con người.
Tôi viết phép tính đó ra một tờ giấy trắng. Khi tôi nhẹ nhàng và chậm chạp bước tới, đặt tờ giấy lên trên tập bản vẽ, bố không ngẩng lên nhìn. “Bố, bố có thể giải phép tính này không ạ?”
Bố nhìn tôi bằng cái nhìn nghiêm khắc, sau đó ánh mắt bố dịu lại. Bố xoay tờ giấy, nhìn chằm chằm vào nó một lát, rồi bắt đầu viết nguệch ngoạc, những con số, những vòng tròn và những đường kẻ hình vòng cung chồng lên nhau. Cách giải của bố không giống bất cứ thứ gì trong giáo trình của tôi, không giống bất cứ thứ gì tôi từng nhìn thấy. Ria mép của bố giật giật, bố lẩm bẩm. Sau đó bố thôi viết nguệch ngoạc mà ngẩng lên, đưa ra đáp số đúng.
Tôi hỏi làm thế nào bố giải được phép tính đó. “Bố không biết giải nó như thế nào,” bố đưa tờ giấy cho tôi. “Tất cả những gì bố biết, đó là đáp án.”
Tôi quay vào trong bếp, so sánh phương trình rành mạch, đã được cân bằng ở trong sách với mớ rối rắm gồm những cách tính và những nét chữ nguệch ngoạc đến chóng mặt của bố. Tôi choáng váng bởi trang giấy kì cục đó: bố có thể làm chủ môn khoa học này, có thể giải đoán ngôn ngữ của nó, giải mã logic của nó, có thể bẻ cong, xoắn vặn, vắt ép ra chân lý từ nó. Nhưng khi đi qua bố, nó hóa thành một mớ lộn xộn, rối rắm.
Tôi học lượng giác trong một tháng. Thỉnh thoảng tôi mơ tới “sin,” “cos,” “tan,” những góc huyền bí và những phép tính gây choáng váng, nhưng thật sự với môn này tôi chẳng tiến bộ chút nào. Tôi không thể tự học môn lượng giác. Nhưng tôi biết một người có thể.
Tyler bảo tôi hãy gặp anh tại nhà bác Debbie của chúng tôi bởi vì bác sống gần trường Đại học Brigham Young. Lái xe tới đó mất ba tiếng đồng hồ. Tôi cảm thấy không thoải mái cho lắm khi gõ cửa nhà bác. Bác là chị của mẹ tôi, và Tyler sống với bác trong năm đầu tiên học ở BYU, nhưng đó là tất cả những gì tôi biết về bác.
Tyler ra mở cửa. Chúng tôi ngồi ở phòng khách trong khi bác Debbie chuẩn bị món thịt hầm. Tyler dễ dàng giải các phương trình, rồi tuần tự diễn giải phép toán. Anh đang học kỹ thuật cơ khí, có khả năng sẽ tốt nghiệp với kết quả đứng đầu lớp, và chẳng bao lâu nữa sẽ bắt đầu chương trình đào tạo tiến sĩ tại Purdue. Những phương trình lượng giác của tôi chẳng nhằm nhò gì so với khả năng của anh, nhưng nếu anh chán ngấy nó, anh sẽ không thể hiện ra mặt; anh kiên nhẫn giảng giải các quy tắc, giảng giải đi giảng giải lại.
Cánh cổng đã hé mở một chút, và tôi ghé mắt nhìn qua nó.
Tyler đã đi rồi, và bác Debbie đang ấn đĩa thịt hầm vào tay tôi thì chuông điện thoại reo. Mẹ tôi gọi điện.
“Có chuyện ở Malad rồi,” mẹ nói.
Mẹ không biết gì nhiều. Shawn bị ngã. Anh ngã đập đầu xuống đất. Ai đó đã gọi 911, và anh được trực thăng đưa tới một bệnh viện ở Pocatello. Các bác sĩ không chắc anh có qua khỏi hay không. Đó là tất cả những gì mẹ biết.
Tôi muốn nhiều hơn thế, muốn người ta khẳng định xác suất thế nào đó, dù chỉ là để tôi có cớ mà cự lại. Tôi muốn mẹ nói, “Họ nghĩ thằng bé sẽ ổn thôi,” hoặc thậm chí, “Họ hy vọng chúng ta sẽ không mất anh con.” Bất cứ điều gì, nhưng những gì mẹ nói là, “Họ không biết.”
Mẹ nói tôi nên đến bệnh viện. Tôi mường tượng Shawn nằm trên chiếc băng ca trắng, sự sống đang len lén trườn khỏi anh. Tôi cảm thấy nỗi mất mát dâng lên khiến đầu gối tôi gần như khuỵu xuống, nhưng trong phút tiếp theo tôi lại cảm thấy một điều gì đó khác. Nhẹ nhõm.
Có một cơn bão đang đến, có thể sẽ phủ một lớp tuyết dày hơn một mét lên hẻm núi Sardine, án ngữ đường vào thung lũng của chúng tôi. Xe hơi của mẹ, chiếc xe mà tôi đã lái tới nhà bác Debbie, đã mòn lốp. Tôi bảo mẹ rằng tôi không thể lái xe qua đó được.
Chuyện Shawn đã ngã như thế nào được hé lộ với tôi từng chút, từng mẩu trong những lời kể qua loa của Luke và Benjamin, những người có mặt ở đó. Đó là một buổi trưa lạnh lẽo và gió thổi dữ đội, cuốn bụi lên thành những đám mây mỏng. Shawn đang đứng trên tấm nâng bằng gỗ ở độ cao khoảng tám mét trên không trung. Cách anh gần bốn mét ở phía dưới là một bức tường xi-măng đang xây dở với cốt thép thò ra ngoài như những lưỡi gươm cùn. Tôi không biết chính xác Shawn đang làm gì trên tấm nâng đó, nhưng có thể anh đang chỉnh các cột hoặc đang hàn, bởi vì đó là những việc anh thường làm. Bố đang lái xe cẩu.
Tôi nghe những lời kể mâu thuẫn nhau quanh nguyên cớ Shawn ngã [1]. Người thì bảo tại bố bất ngờ cho cần cẩu chuyển động và Shawn ngã lộn từ rìa tấm nâng. Nhưng hầu hết những người khác nói rằng Shawn đang đứng sát mép tấm nâng, và không hiểu sao lại lùi lại và bước hẫng. Anh ngã lộn từ độ cao tám mét, người anh xoay chầm chậm trong không trung, rồi khi anh va vào bức tường xi-măng có những thanh cốt thép thò ra, anh đập đầu xuống trước, sau đó rơi lộn nhào từ độ cao gần ba mét xuống đất.
Mọi người tả cú ngã cho tôi nghe như vậy, nhưng trí óc tôi phác họa nó khác kia – trên một tờ giấy trắng với những dòng kẻ bằng nhau. Anh trèo lên cao, ngã ở một chỗ dốc, đập vào thanh cốt thép và trở lại mặt đất. Tôi mường tượng một hình tam giác. Sự việc đó trở nên hợp lý khi tôi nghĩ theo lối này. Sau đó logic của kí ức này đầu hàng trước bố tôi.
Bố nhìn thấy Shawn. Shawn bị mất phương hướng. Một bên con ngươi của anh giãn ra còn bên kia thì không, nhưng không ai biết điều đó nghĩa là gì. Không ai biết anh bị chảy máu não. Bố bảo Shawn hãy nghỉ một chút. Luke và Benjamin giúp anh dựa người vào chiếc xe bán tải, sau đó họ quay lại làm việc.
Những gì diễn ra sau thời điểm này thậm chí còn mơ hồ hơn. Chuyện mà tôi nghe được là mười lăm phút sau Shawn đi tha thẩn trên công trường. Bố nghĩ anh đã sẵn sàng làm việc trở lại liền bảo anh trèo lên tấm nâng, và Shawn, người vốn chẳng thích người khác bảo mình phải làm gì, bắt đầu la lối bố về mọi chuyện – về trang thiết bị, về cách thiết kế tổ hợp nhà kho, về cách trả công của bố. Bố cũng gầm lên, sau đó – đúng lúc bố nghĩ Shawn đã bình tĩnh lại, thì anh bất ngờ túm lấy lưng bố và quăng bố như quăng một bao lúa mì. Trước khi bố kịp lồm cồm bò dậy thì Shawn đã bắt đầu chạy, nhảy, hú hét, cười sằng sặc rồi thì Luke cùng Benjamin, giờ đây đã biết chắc chắn có chuyện rất tồi tệ, liền đuổi theo anh. Luke đuổi kịp anh trước nhưng không thể giữ nổi anh; sau đó Benjamin tới tiếp sức và Shawn di chuyển chậm hơn một chút. Nhưng phải đến khi cả ba người đàn ông cùng xử lý anh – ném anh xuống đất, anh bị đập đầu rất mạnh bởi vì anh kháng cự – cuối cùng anh mới nằm im.
Không ai miêu tả cho tôi nghe điều gì đã xảy ra khi đầu Shawn bị va đập lần thứ hai. Tôi không chắc anh có bị co giật, bị nôn hay bất tỉnh không. Nhưng rõ ràng tình hình đáng sợ đến mức ai đó – có thể là bố tôi, hoặc Benjamin – đã gọi 911, điều mà không thành viên nào trong gia đình tôi từng làm trước đó.
Họ được báo cho biết rằng một chiếc trực thăng sẽ đến trong vài phút nữa. Sau đó, các bác sĩ suy luận rằng khi bố tôi, Luke và Benjamin vật Shawn ngã lăn ra đất – Shawn đã bị một cơn chấn động – anh đã ở trong tình trạng nghiêm trọng sẵn rồi. Họ nói việc anh không chết ngay khi đập đầu xuống đất lần thứ hai thực sự là một phép màu.
Tôi cố hình dung ra cảnh tượng ở đó trong khi họ đợi máy bay trực thăng tới. Bố nói rằng khi những trợ tá y tế tới, Shawn đang khóc nức nở, đòi mẹ. Khi anh đến bệnh viện, trạng thái tinh thần của anh đã thay đổi. Anh đứng trần truồng trên băng ca, mắt lồi ra, vằn tia máu, gào lên rằng anh sẽ móc mắt bất cứ đồ khốn nào đến gần anh. Sau đó anh khóc nức nở và cuối cùng bất tỉnh.
Shawn sống sót qua đêm đó.
Buổi sáng tôi lái xe về núi Buck. Tôi không thể giải thích tại sao mình lại không chạy ngay đến bên giường của anh trai. Tôi nói với mẹ rằng tôi phải làm việc.
“Thăng bé đòi gặp con đấy,” mẹ nói.
“Mẹ đã nói rằng anh ấy không nhận ra ai kia mà.”
“Nó không nhận ra ai,” mẹ nói. “Nhưng cô y tá vừa mới hỏi mẹ liệu Shawn có biết người nào tên là Tara không. Sáng nay nó cứ nhắc đi nhắc lại tên con, cả khi ngủ lẫn lúc thức. Mẹ nói với họ Tara là em gái nó, và họ nói bây giờ nếu con đến được thì tốt. Nó có thể sẽ nhận ra con, và đó sẽ là điều quan trọng. Tên con là cái tên duy nhất nó nhắc đến kể từ khi nó vào viện. ”
Tôi im lặng.
“Mẹ sẽ trả tiền xăng,” mẹ nói. Mẹ nghĩ tôi không đến với anh vì ba mươi đô-la tiền xăng. Tôi phát ngượng khi mẹ nói điều ấy, nhưng, nếu không phải vì tiền thì tôi chẳng có lý do nào cả.
“Bây giờ con sẽ đi,” tôi nói.
Lạ thay tôi nhớ rất ít về cái bệnh viện đó, hoặc anh trai tôi trông như thế nào. Tôi chỉ nhớ lờ mờ đầu anh quấn băng, và rằng khi tôi hỏi tại sao, mẹ nói các bác sĩ đã phẫu thuật cho anh, mổ sọ anh để giảm sức ép, hoặc để cầm máu, hoặc để chữa một chỗ bị thương tổn – thực sự, tôi không thể nhớ nổi mẹ đã nói gì. Shawn vật vã như một đứa trẻ lên cơn sốt. Tôi ngồi với anh một tiếng đồng hồ. Vài lần anh mở mắt ra, nhưng nếu anh tỉnh thì anh cũng chẳng nhận ra tôi.
Ngày hôm sau khi tôi tới, anh thức. Tôi bước vào phòng, và anh chớp mắt nhìn mẹ, như thể để xem mẹ có nhìn thấy tôi hay không.
“Em đến rồi,” anh nói. “Anh không nghĩ em sẽ đến.” Anh cầm tay tôi rồi ngủ thiếp đi.
Tôi nhìn đăm đăm khuôn mặt anh, nhìn đám băng gạc băng quanh trán và tai anh, và nỗi cay đắng trong tôi tan biến. Lúc đó tôi hiểu tại sao mình lại không đến sớm hơn. Tôi sợ những gì mình sẽ cảm thấy, sợ rằng nếu anh chết thì tôi có thể sẽ mừng.
Tôi chắc rằng các bác sĩ muốn giữ anh ở lại bệnh viện, nhưng chúng tôi không có bảo hiểm, và số tiền điều trị phải thanh toán đã lớn đến mức Shawn trả cả chục năm sau mới hết. Ngay khi anh đủ ổn định để đi đường, chúng tôi đưa anh về nhà.
Trong hai tháng trời anh sống trên sofa ở phòng khách. Thể lực của anh yếu – anh chỉ đủ sức để di chuyển vào phòng vệ sinh rồi quay lại sofa. Một bên tai của anh điếc hoàn toàn, và tai còn lại thì nghe rất khó, vậy nên anh thường quay đầu khi người khác nói chuyện với anh, quay bên tai còn nghe được về phía người nói, thay vì nhìn. Ngoài động tác lạ lùng đó và lớp băng gạc sau cuộc phẫu thuật, anh trông bình thường, không sưng phù, không bầm dập. Theo các bác sĩ, đó là bởi tổn thương rất nghiêm trọng: không có đấu hiệu tổn thương ở bên ngoài có nghĩa là mọi thương tổn đều ở bèn trong.
Phải mất một thời gian tôi mới hiểu rằng dù Shawn trông không khác, thực ra anh không còn được như trước nữa. Anh dường như minh mẫn, nhưng nếu bạn chăm chú lắng nghe thì sẽ thấy những câu chuyện của anh chẳng đâu vào đâu cả, chỉ là hết đường tiếp tuyến này đến đường tiếp tuyến khác.
Tôi cảm thấy hối hận vì đã không đến bệnh viện với anh ngay lập tức, vậy nên để bù đắp cho anh tôi bỏ việc, chăm sóc anh ngày cũng như đêm. Khi anh muốn uống nước, tôi đi lấy nước cho anh; nếu anh đói, tôi nấu thức ăn cho anh.
Sadie bắt đầu ghé qua, và Shawn đón nhận cô. Tôi mong ngóng cô ghé thăm anh tôi bởi vì nhờ vậy tôi có thời gian để học. Mẹ tôi nghĩ việc tôi ở bên Shawn là quan trọng, vậy nên không ai ngăn cản tôi. Lần đầu tiên trong đời tôi có thời gian dài để học – mà không phải nhặt phế liệu, hoặc lọc rượu thuốc, hoặc kiểm kê hàng hóa cho ông Randy. Tôi nghiền ngẫm các ghi chú của Tyler, đọc đi đọc lại những phần anh phân tích. Sau vài tuần như vậy, bằng một phép màu nào đó, tôi đã nắm bắt được các khái niệm. Tôi làm lại các bài luyện thi. Môn đại số nâng cao vẫn hóc búa – nó đến từ một thế giới nằm ngoài khả năng nhận thức của tôi – nhưng môn lượng giác đã trở nên dễ hiểu, các thông điệp được viết bằng một ngôn ngữ mà tôi có thể hiểu được, từ một thế giới của logic và trật tự chỉ tồn tại bằng mực đen, trên giấy trắng.
Trong khi đó, thế giới thực chìm ngập trong hỗn loạn. Các bác sĩ nói với mẹ tôi rằng chấn thương của Shawn có thể làm thay đổi tình tình của anh – rằng ở bệnh viện anh đã có xu hướng dễ thay đổi thất thường, thậm chí bạo lực, và tình trạng này có thể là vĩnh viễn.
Anh không kiểm soát nổi những cơn cuồng nộ, những lúc tức giận mù quáng khi tất cả những gì anh muốn là làm tổn thương ai đó. Anh có thiên bẩm cư xử và ăn nói thô tục, anh dễ dàng nói chỉ một điều tệ hại mà khiến mẹ tôi khóc nhiều đêm. Những cơn cuồng nộ đó thay đổi, và trở nên tệ hơn khi thể lực của anh khá lên, và sáng nào tôi cũng cọ bồn cầu với ý thức rằng trước giờ ăn trưa đầu tôi có thể sẽ ở trong đó. Mẹ nói rằng tôi là người duy nhất có thể khiến anh bình tĩnh, và tôi tự thuyết phục bản thân tin rằng đúng thế thật. Ai có thể làm tốt hơn kia chứ? Tôi nghĩ. Anh ấy không làm đau mình đâu.
Bây giờ nghĩ lại, tôi không dám chắc chấn thương ấy đã thay đổi anh nhiều như thế, nhưng tôi thuyết phục bản thân rằng chính nó đã làm anh thay đổi, và rằng cái phần tàn nhẫn, thô bạo ở anh là hoàn toàn mới. Tôi có thể đọc những trang nhật ký của mình từ giai đoạn đó, lần ra sự tiến triển – về một đứa con gái đang viết lại lịch sử của mình. Trong cái hiện thực mà đứa con gái đó tự dựng lên cho bản thân chẳng có gì bất ổn trước khi người anh trai ngã khỏi tấm nâng bằng gỗ. Mình ước gì anh, người bạn thân của mình, trở lại như xưa, cô gái đó viết. Trước khi anh ấy bị tai nạn, mình chưa từng bị tổn thương.
Chú thích:
[1] Lời kể của tôi về chuyện Shawn bị ngã dựa trên những gì người khác đã kể cho tôi nghe hồi đó. Tyler kể y như vậy; thực ra, nhiều chi tiết trong lời kể của tôi là từ ký ức của anh. Mười lăm năm sau, những người khác nhớ sự kiện ấy xảy ra khác. Mẹ nói lúc đó Shawn không đứng trên tấm nâng mà đứng trên chạc cần cẩu. Luke nhớ cái tấm nâng, nhưng thay thế cốt thép của bức tường xây dở bằng đoạn ống dẫn nước bằng kim loại. Anh nói cú ngã đó từ độ cao gần bốn mét, và rằng Shawn bắt đầu hành động kỳ cục ngay khi anh tỉnh lại. Luke không nhớ ai đã gọi 911, nhưng nói rằng có những người đàn ông làm việc ở một xưởng xay xát gần đó, và anh ngờ rằng một trong số họ đã gọi 911 ngay khi Shawn ngã. — TG