← Quay lại trang sách

Chương 15 Không Còn Là Đứa Trẻ

Có một khoảnh khắc trong mùa đông đó. Tôi đang quỳ trên thảm, nghe bố truyền đạt sứ mệnh làm thầy thuốc của mẹ thì bỗng tôi bị nghẹt thở và cảm thấy mình như đang thoát xác. Tôi không còn nhìn thấy bố mẹ tôi hoặc phòng khách nhà chúng tôi nữa. Những gì tôi nhìn thấy là một phụ nữ trưởng thành, với suy nghĩ, với những lời cầu nguyện của riêng mình, không còn ngồi như một đứa trẻ dưới chân bố mình nữa.

Tôi nhìn thấy cái bụng to như trống của người phụ nữ ấy và đó là bụng tôi. Bên cạnh người phụ nữ, bà mẹ cũng là bà đỡ, ngồi đó. Cô cầm tay người mẹ và nói cô muốn đứa trẻ được sinh ra trong bệnh viện, có bác sỹ chăm sóc. Mẹ cô nói, mẹ sẽ lái xe đưa con đi. Hai người phụ nữ đi ra phía cửa, nhưng cánh cửa đã bị chặn – bởi lòng trung thành và thái độ phục tùng. Bởi bố cô. Ông đứng đó, không nhúc nhích. Nhưng người phụ nữ đó là con gái của ông, và cô hứng chịu mọi lời kết tội của ông, toàn bộ sức ép của ông. Cô gạt ông sang một bên và đi qua cửa.

Tôi cố tưởng tượng ra tương lai mà một phụ nữ như vậy có quyền đòi hỏi cho bản thân. Tôi cố hình dung ra những cảnh khác khi mà người phụ nữ và bố cô ta đều có suy nghĩ riêng, khi cô phớt lờ lời khuyên của ông và khăng khăng giữ ý mình. Nhưng bố tôi đã dạy tôi rằng không có hai ý kiến hợp lẽ trong bất cứ một chủ đề nào: chỉ có Chân Lý và Dối Trá. Tôi quỳ trên thảm, nghe bố mình, nhưng lại quan sát cái người lạ này, cảm thấy mình lơ lửng giữa họ, bị kéo về bên này, bên kia, bị cả hai cự tuyệt. Tôi hiểu rằng không tương lai nào có thể dung chứa họ; không định mệnh nào có thể chịu đựng cả ông và cô. Tôi sẽ vẫn là một đứa trẻ, vĩnh viễn, luôn luôn, hoặc tôi sẽ mất bố.

Tôi đang nằm trên giường, nhìn những cái bóng mà chiếc đèn đọc sách lờ mờ của tôi hắt lên tường thì chợt nghe thấy giọng nói của bố ở cửa. Theo phản xạ tôi đứng bật dậy trong một tư thế chào, nhưng khi đứng dậy, tôi không biết phải làm gì. Chưa hề có tiền lệ cho điều này: trước đây bố chưa bao giờ đến phòng tôi.

Bố sải bước qua chỗ tôi và ngồi lên giường, sau đó vỗ vỗ xuống đệm bên cạnh ông. Tôi ngồi xuống, căng thẳng, hai bàn chân trần của tôi chạm sàn nhà. Tôi đợi bố nói, nhưng nhiều giây trôi qua trong im lặng. Mắt bố nhắm lại, hàm bố thả lỏng, như thể bố đang lắng nghe tiếng nói của các thiên sứ. “Bố cầu nguyện,” bố nói. Giọng bố nhẹ nhàng, đầy yêu thương. “Bố đang cầu nguyện về quyết định đi học đại học của con.”

Bố mở mắt ra. Con ngươi mắt bố giãn ra trong ánh đèn, hấp thụ màu nâu đỏ của mống mắt. Tôi chưa từng nhìn thấy đôi mắt nào dâng hiến cho bóng tối đến thế; chúng dường như siêu phàm, như biểu tượng của sức mạnh tâm linh.

“Chúa đã gọi bố làm chứng,” bố nói. “Chúa không hài lòng đâu. Con đã vứt bỏ ân phước của Chúa để đua đòi theo đuổi sự hiểu biết của con người. Cơn giận của Người đang cuộn lên chống lại con đấy. Không lâu nữa con sẽ thấy cơn cuồng nộ đó.” Tôi không nhớ bố đã đứng dậy rời khỏi phòng tôi nhưng chắc hẳn là vậy, trong khi tôi ngồi, bị nỗi sợ hãi bóp nghẹt. Cơn giận của Chúa đã phá hủy các thành phố, làm cả trái đất ngập lụt. Tôi cảm thấy mình yếu ớt, và bất lực hoàn toàn. Tôi nhớ rằng cuộc đời tôi không phải là của tôi. Tôi có thể bị đưa đi khỏi thể xác mình bất cứ lúc nào, bị lôi tới thiên đường để đối diện với Chúa Cha đang nổi giận.

Sáng hôm sau tôi thấy mẹ đang pha tinh dầu trong bếp. “Con đã quyết định không đến học ở BYU nữa,” tôi nói.

Mẹ ngẩng lên nhìn dán mắt vào bức tường phía sau tôi, và thì thầm, “Đừng nói vậy. Mẹ không muốn nghe con nói thế đâu.”

Tôi không hiểu. Tôi cứ nghĩ mẹ sẽ vui khi tôi phục tùng Chúa.

Cái nhìn đăm đăm của mẹ chuyển sang tôi. Nhiều năm qua tôi không cảm nhận được sức mạnh của nó, và giờ đây nó làm tôi lúng túng. “Trong tất cả các con của mẹ,” mẹ nói, “con là đứa mẹ nghĩ sẽ thoát ra khỏi đây và tỏa sáng. Mẹ không kỳ vọng điều đó ở Tyler – ngạc nhiên thật – mà là ở con. Đừng ở lại. Hãy đi đi. Đừng để bất cứ điều gì ngăn cản con đi.”

Tôi nghe thấy tiếng bố bước lên cầu thang. Mẹ thở dài và mắt mẹ hấp háy, như thể mẹ vừa mới thoát khỏi trạng thái thôi miên.

Bố ngồi vào ghế của bố tại bàn ăn và mẹ đứng dậy sắp bữa sáng cho bố. Bố bắt đầu bài giảng về các giáo sư có tư tưởng tự do, còn mẹ nhào bột để làm bánh ngọt, thỉnh thoảng lại thốt ra những tiếng lẩm bẩm đồng tình.

Không có Shawn làm thợ cả, việc xây dựng của bố suy giảm. Tôi đã bỏ việc tại cửa hàng của ông Randy để chăm sóc Shawn. Giờ đây tôi cần tiền, vậy nên mùa đông ấy khi bố quay lại nhặt phế liệu, tôi cũng tham gia.

Đó là một buổi sáng băng giá, rất giống buổi sáng đầu tiên khi tôi quay lại bãi phế liệu. Cái bãi đó đã thay đổi. Vẫn có những đống ô tô cũ hỏng nhưng chúng không còn thống trị quang cảnh đó nữa, Vài năm trước, cơ quan Điện lực Utah đã thuê bố tháo dỡ hàng trăm tháp đường dây điện. Bố được phép giữ lại những cây sắt vuông góc, và bây giờ chúng được chất đống ở đó – bốn trăm nghìn cân – trong những đống sắt lộn xộn cao như núi trải ra khắp bãi. Sáng sáng tôi thức dậy lúc sáu giờ để học – bởi vì tôi dễ tập trung hơn khi học vào buổi sáng trước khi mệt nhoài vì nhặt phế liệu. Dù vẫn sợ cơn cuồng nộ của Chúa, tôi lập luận với bản thân rằng không thể có chuyện tôi sẽ vượt qua kỳ thi ACT, và điều đó là do Chúa phạt. Nếu Chúa cho tôi đỗ thì chắc chắn việc tôi đi học là ý Chúa.

Kỳ thi ACT gồm bốn phần: toán, tiếng Anh, khoa học, và đọc. Kỹ năng toán của tôi được cải thiện nhưng vẫn không mạnh. Dù có thể trả lời hầu hết các câu hỏi trong bài luyện thi thì tôi vẫn làm bài rất chậm, cần gấp đôi hoặc gấp ba thời gian được giao. Tôi thiếu cả kiến thức cơ bản về ngữ pháp, mặc dù tôi cũng học đấy chứ, danh từ trước rồi chuyển sang giới từ và danh-động từ. Môn khoa học là một bí ẩn, có lẽ bởi vì cuốn sách khoa học duy nhất tôi từng đọc chỉ gồm những trang có thể tháo ra để tô màu. Trong số bốn phần này, đọc là phần duy nhất tôi cảm thấy tự tin.

BYU là một trường có tính cạnh tranh. Tôi cần phải đạt điểm cao – ít nhất hai mươi bảy điểm, lọt vào 15% thí sinh đứng đầu của khóa thi. Tôi mười sáu tuổi, chưa từng đi thi lần nào, và chỉ gần đây mới học một cách có hệ thống; tuy nhiên tôi vẫn đăng ký. Tôi cảm thấy như thể mình gieo xúc xắc, như thể xúc xắc đã lăn khỏi tay tôi. Chúa sẽ quyết định.

Đêm trước ngày thi tôi không ngủ. Đầu tôi gợi lên rất nhiều cảnh tượng hủy diệt, nóng bừng như bị sốt. Năm giờ sáng tôi dậy khỏi giường: ăn sáng, và lái xe bốn mươi dặm tới Đại học Quốc gia Utah. Tôi được dẫn vào một lớp học trắng toát với ba mươi thí sinh khác, đã yên vị và đặt sẵn bút chì của họ lên bàn. Một phụ nữ trung niên phát đề thi và những tờ giấy màu hồng rất lạ mà tôi chưa từng nhìn thấy bao giờ.

“Xin lỗi cho em hỏi,” tôi hỏi khi bà phát giấy cho tôi. “Cái gì đây ạ?”

“Đó là giấy thi trắc nghiệm. Để đánh dấu câu trả lời của em vào.”

“Như thế nào ạ?” Tôi hỏi.

“Nó cũng giống như bất kỳ loại giấy thi trắc nghiệm nào khác ấy.” Bà bắt đầu bước khỏi chỗ tôi, rõ là đang bực mình, như thể tôi đang đùa bỡn.

“Em chưa bao giờ sử dụng giấy này.”

Bà nhìn tôi dò xét trong chốc lát. “Chọn câu trả lời đúng,” bà nói. “Tô đen hết lỗ tròn ứng với câu trả lời em chọn. Hiểu chưa?”

Thời gian làm bài bắt đầu. Tôi chưa bao giờ ngồi lì tại bàn suốt bốn tiếng đồng hồ trong một căn phòng đầy người. Tiếng ồn thật không thể tin nổi, tuy nhiên tôi dường như là người duy nhất nghe thấy tiếng ồn, không thể thôi để tâm đến tiếng lật giấy sột soạt và tiếng ngòi bút cào trên mặt giấy, Thi xong, tôi ngờ rằng mình trượt môn toán, và tôi tin chắc mình trượt môn khoa học. Các câu trả lời của tôi trong phần thi khoa học thậm chí không thể gọi là đoán. Tôi cứ làm đại đi, khoanh bừa vào những chấm tròn trên tờ giấy màu hồng lạ lùng đó.

Tôi lái xe về nhà. Tôi cảm thấy mình thật ngu đốt, nhưng hơn cả ngu dốt, tôi cảm thấy lố bịch. Giờ đây tôi đã thấy các học sinh khác – nhìn họ bước vào phòng thi theo hàng ngay ngắn, tự tin ngồi ở chỗ của mình và bình tĩnh điền các câu trả lời, như thể họ đang làm một việc mà hằng ngày họ thường làm – dường như thật lố bịch khi tôi nghĩ mình có thể lọt vào 15% thí sinh đạt điểm cao nhất.

Đó là thế giới của họ. Tôi mặc bộ đồ lao động vào, trở về với thế giới của tôi.

Mùa xuân đó có một ngày nóng nực bất thường, và Luke cùng tôi chuyên chở những thanh xà gồ cả ngày – những thanh xà bằng sắt được đặt dọc mái nhà.

Những cái xà gồ ấy nặng ơi là nặng mà mặt trời thì gay gắt. Mồ hôi từ cánh mũi của chúng tôi nhỏ xuống những thanh sắt đã được sơn. Luke lột áo sơ mi của anh ra, túm ống tay áo mà xé, tạo ra những chỗ hổng lớn để gió có thể luồn vào. Tôi không dám làm gì táo bạo, nhưng sau khi chuyển cái xà gồ thứ hai mươi, lưng tôi dính nham nháp vì mồ hôi, và tôi đập phành phạch lớp áo phông của mình làm quạt, rồi xắn tay áo lên để lộ chừng hơn hai xen-ti-mét bả vai. Vài phút sau, nhìn thấy tôi, bố phăm phăm bước tới, giật tay áo tôi xuống. “Đây không phải là nhà thổ nghe chưa,” bố nói.

Tôi nhìn bố bỏ đi chỗ khác, và như không cố ý, như một cái máy, tôi lại vén tay áo lên. Một giờ sau bố quay lại, và nhìn thấy tôi như vậy, bố khựng lại, bối rối. Bố đã bảo tôi phải làm gì, và tôi đã không làm. Bố đứng phân vân một lát, sau đó băng tới chỗ tôi, cầm cả hai ống tay áo của tôi giật mạnh xuống. Bố chưa đi được mười bước tôi lại xắn tay áo lên.

Tôi muốn tuân lệnh. Tôi định như vậy. Nhưng trưa hôm đó trời nóng quá, gió mơn man trên cánh tay tôi thật dễ chịu. Chỉ vài phân thôi chứ nhiều nhặn gì. Từ thái dương đến ngón chân tôi đầy bụi bẩn. Tối hôm đó, phải mất nửa giờ tôi mới tống khứ được hết bụi đen ra khỏi mi và tai mình. Tôi cảm thấy mình không thể gợi niềm khao khát, cũng chẳng quyến rũ chút nào. Tôi cảm thấy mình như một cái cần cẩu bằng xương bằng thịt. Vậy thì hai xen-ti-mét đa thịt quan trọng gì chứ?

Tôi chắt chiu những tấm ngân phiếu phòng khi tôi cần tiền nộp học. Bố để ý thấy và bắt đầu bắt tôi phải đóng tiền cho những thứ lặt vặt. Sau vụ tai nạn xe hơi thứ hai mẹ tôi đã mua bảo hiểm trở hại, và bố nói tôi phải đóng phần của mình. Vậy là tôi đóng. Sau đó bố muốn hơn, bắt tôi đóng tiền đăng ký xe. “Các khoản phí của Chính phủ sẽ làm con phá sản đấy,” bố nói khi tôi đưa tiền cho bố.

Tôi cứ đưa tiền như thế khiến bố hài lòng cho tới khi tôi nhận được kết quả thi. Tôi từ bãi phế liệu trở về, thấy một chiếc phong bì màu trắng. Tôi xé nó ra, làm tờ giấy bên trong lem nhem vết dầu máy, và nhìn qua từng điểm riêng lẻ rồi đến tổng điểm. Hai mươi hai điểm. Tim tôi đập rộn, đập những nhịp vui mừng. Không phải hai mươi bảy điểm, nhưng nó cũng mở ra cơ hội. Có thể là Đại học Quốc gia Idaho.

Tôi cho mẹ xem giấy báo điểm và mẹ liền bảo với bố. Bố trở nên kích động, sau đó bố gào lên rằng đã đến lúc tôi ra khỏi nhà.

“Nếu nó đủ lớn để rút một tấm ngân phiếu thì nó cũng đủ lớn để trả tiền thuê nhà,” bố la lối. “Và nó có thể trả tiền thuê nhà ở một chỗ khác.” Thoạt đầu mẹ tranh luận với bố, nhưng trong vòng vài phút bố đã thuyết phục được mẹ.

Tôi đang đứng ở trong bếp, cân nhắc giữa các lựa chọn, tính tới việc đưa cho bố bốn trăm đô-la, một phần ba số tiền tiết kiệm của mình, thì mẹ quay sang tôi, nói, “Con nghĩ con có thể chuyển đi trước thứ Sáu không?”

Một thứ gì đó bất thình lình vỡ trong tôi, một đập nước hoặc một con đê. Tôi cảm thấy bị quăng quật, không thể giữ mình ở một chỗ. Tôi kêu lên, nhưng những tiếng kêu bị bóp nghẹt; tôi sắp chết đuối. Tôi chẳng có nơi nào mà đi. Tôi không thể trả tiền thuê một căn họ, và dẫu tôi có thể thì chỉ ở thị trấn mới có những căn hộ cho thuê. Khi đó tôi cần một chiếc xe hơi. Tôi chỉ có tám trăm đô-la. Tôi tức tưởi, nói lắp ba lắp bắp điều đó với mẹ, rồi chạy về phòng mình, đóng sập cửa lại.

Một lát sau mẹ gõ cửa phòng tôi. "Mẹ biết con nghĩ bố mẹ không công bằng," mẹ nói, "nhưng khi mẹ bằng tuổi con mẹ đã sống một mình, chuẩn bị lấy bố con rồi."

"Mẹ lấy chồng ở tuổi mười sáu ư?" Tôi hỏi.

"Đừng ngớ ngẩn thế," mẹ nói. "Không phải con mới mười sáu tuổi."

Tôi nhìn mẹ chằm chằm. Mẹ nhìn lại tôi y như thế. "Phải đấy mẹ ạ. Con mới mười sáu tuổi."

Mẹ nhìn tôi săm soi. "Ít nhất con hai mươi tuổi rồi." Mẹ hếch đầu lên. "Chẳng phải như vậy sao?"

Chúng tôi im lặng. Tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực. "Con mới bước sang tuổi mười sáu hồi tháng Chín." Tôi nói.

"Ồ." Mẹ cắn môi, sau đó mẹ đứng đó, mỉm cười. "Vậy thì đừng lo về chuyện đó. Con có thể ở lại. Thật, chẳng biết bố con đang nghĩ gì. Mẹ đoán bố mẹ đã quên. Thật khó mà nhớ được các con bao nhiêu tuổi."

Shawn trở lại làm việc, đi cà nhắc, liêu xiêu. Anh đội chiếc mũ cao bồi to tướng, rộng vành, được làm bằng chất liệu da phế dầu màu sô-cô-la. Trước khi bị tai nạn, anh chỉ đội mũ khi cưỡi ngựa, nhưng bây giờ lúc nào anh cũng đội mũ, thậm chí cả khi ở trong nhà, điều mà bố tôi nói là bất kính.

Bất kính đối với bố có thể là lý do khiến Shawn đội nó, nhưng tôi ngờ rằng còn một lý do khác là nó rộng và thoải mái, che những vết sẹo do phẫu thuật của anh.

Thời gian đầu anh không làm việc cả ngày được. Bố có hợp đồng xây dựng một trại bò sữa ở hạt Oneida, cách núi Buck khoảng hai mươi dặm, vậy nên Shawn lăng xăng quanh bãi phế liệu, chỉnh sửa các bản thiết kế, đo những thanh dầm chữ I.

Luke, Benjamin và tôi nhặt phế liệu. Bố quyết định rằng đã đến lúc thu nhặt những mảnh sắt vuông góc chất đống quanh trang trại. Muốn bán chúng thì phải đo xem mỗi mảnh có đủ độ dài hơn một mét hai không. Shawn gợi ý chúng tôi sử dụng đèn cắt để cắt sắt, nhưng bố nói làm theo cách đó quá chậm và phải tốn quá nhiều chi phí vào nhiên liệu.

Vài ngày sau, bố về nhà với một cái máy trông đáng sợ nhất mà tôi từng thấy. Bố gọi nó là Xén. Thoạt nhìn nó có vẻ giống một cái kéo ba tấn, và hóa ra nó đúng là một cái kéo thật. Những cái lưỡi xén của nó được làm bằng sắt nguyên khối, dày hơn hai mươi phân, độ mở của lưỡi xén rộng tới một mét rưỡi. Chúng không cắt nhờ độ sắc mà bằng lực và độ nặng. Chúng cắn, những cái hàm lớn của chúng được đẩy bởi một piston gắn với bánh xe bằng sắt cỡ lớn. Bánh xe này hoạt động nhờ một dây cu-roa và động cơ, điều đó nghĩa là nếu có thứ gì đó bị mắc trong máy thì sẽ mất từ ba mươi giây đến một phút để dừng bánh xe lại cũng như làm lưỡi xén ngừng hoạt động. Nó vừa hoạt động vừa gầm rú, ồn hơn cả một đoàn tàu hỏa khi nhai những thanh sắt dày bằng bắp tay người. Không phải là sắt được cắt đánh sột một cái. Đôi khi Xén chồm lên, đẩy bất cứ ai đang giữ nó về phía những lưỡi xén cùn đang nhai rào rạo.

Trong những năm qua bố đã ấp ủ nhiều kế hoạch nguy hiểm, nhưng đây là kế hoạch đầu tiên thực sự khiến tôi bị sốc. Có lẽ đó là bởi khả năng gây chết người rất rõ rệt của nó, chắc chắn rằng chỉ một thao tác sai sẽ dẫn đến việc mất cánh tay như chơi. Hoặc có lẽ vì tôi thấy nó hoàn toàn không cần thiết. Thế này là nuông chiều. Giống như một món đồ chơi, đù món đồ chơi ấy có thể làm bạn mắt đầu.

Shawm gọi nó là cái máy chết người và nói rằng bố mất trí nên mới mua nó. “Bố đang cố tình giết ai đó à?” Anh căn vặn. “Bởi vì con có một khẩu súng trong xe tải của con đấy, và thứ đó sẽ giết người nhanh gọn hơn nhiều.” Bố không kìm nổi nụ cười xếch đến mang tai. Tôi chưa bao giờ thấy bố thích thú như vậy.

Shawn lảo đảo quay lại xưởng làm sắt, vừa đi vừa lắc đầu ngán ngẩm. Bố bắt đầu cắt sắt bằng cái máy Xén. Mỗi đoạn sắt dài lại khiến bố lao người về phía trước và hai lần bố suýt ném chỏm đầu mình vào lưỡi xén. Tôi vội nhắm mắt lại, biết rằng nếu đầu bố bị vướng vào đó thì những lưỡi xén kia thậm chí không chậm một giây, sẽ phập xuống cổ bố và tiếp tục nhai rào rạo.

Bây giờ vì bố đã biết chắc cái máy ấy hoạt động được, bố ra hiệu cho Luke tới đứng máy thay bố, và Luke, sốt sắng như mọi khi, bước tới. Năm phút sau cánh tay Luke bị một vết thương dài và sâu đến tận xương và anh chạy về nhà với cánh tay tuôn máu.

Bố nhìn khắp lượt đội lao động của mình. Bố ra hiệu cho Benjamin, nhưng anh lắc đầu, nói cảm ơn, anh thích giữ các ngón tay nguyên vẹn. Bố nhìn xa hơn về phía nhà chúng tôi, và tôi tưởng tượng bố đang tự hỏi mẹ mất bao lâu để cầm máu. Sau đó ánh mắt bố dừng lại ở chỗ tôi.

“Lại đây, Tara.”

Tôi không nhúc nhích.

“Tới đây,” bố nói.

Tôi chầm chậm bước về phía trước, không chợp mắt, nhìn cái máy Xén như thể nó có thể nhảy xổ vào tôi. Máu của Luke vẫn còn dính trên lưỡi xén. Bố cầm một cây sắt vuông góc dài hơn hai mét lên và đưa cho tôi. “Giữ chắc lấy nó,” bố nói. “Nhưng nếu nó bật lên thì hãy buông tay ra.”

Lưới xén nghiến rào rạo, gầm gừ khi nó nâng lên, phập xuống – tôi nghĩ, đó là một sự cảnh báo, giống như một con chó gầm gừ, rằng hãy tránh xa ra. Nhưng bố nghiện cái máy mất rồi nên ông đã vượt khỏi phạm vi của lý trí.

“Dễ thôi mà,” bố nói.

Tôi cầu nguyện khi cầm thanh sắt đầu tiên đưa vào lưỡi xén. Không phải để tránh thương tích – không có khả năng tránh điều đó đâu – nhưng thương tích sẽ chỉ như vết thương của Luke thôi, một vết xẻ trên da thịt, để tôi cũng được về nhà. Tôi chọn những cây sắt nhỏ, hy vọng trọng lượng của tôi có thể kiểm soát tình trạng loạng choạng. Sau đó, tôi hết những cây sắt nhỏ. Tôi nhặt cây sắt nhỏ nhất còn lại, nhưng đó vẫn là một thanh sắt dày. Tôi nhét nó vào máy xén và đợi cái hàm của nó phập xuống. Tiếng sắt rắn gãy nghe rợn người. Cây sắt bật lên, khiến người tôi bị văng về phía trước và hai chân tôi đều không còn ở trên mặt đất. Tôi buông trôi và đổ sập xuống đất, còn cây sắt, giờ đây không bị nắm giữ, đang bị lưỡi xén nhai ngấu nghiến, lao vọt lên không trung rồi rơi phập xuống bên cạnh tôi.

“CHUYỆN QUÁI GÌ ĐANG XẢY RA THẾ?” Shawn xuất hiện ở góc tầm nhìn của tôi. Anh bước tới, kéo tôi đứng dậy, sau đó quay người lại đối mặt với bố.

“Năm phút trước, con quái vật này suýt nghiến đứt cánh tay Luke! Vậy mà bố để Tara đứng máy?”

“Nó khỏe mà,” bố nói, nháy mắt với tôi.

Mắt Shawn lồi ra. Những tưởng Shawn sẽ nguôi, nhưng anh trông có vẻ đang tức ngập máu.

“Nó sẽ làm con bé đứt đầu!” Anh gào lên. Anh quay sang tôi và vẫy tay về phía người thợ làm sắt ở trong xưởng. “Vào kia làm kẹp sắt cho những cái xà gồ này đi. Anh không muốn mày đến gần cái của nợ này nữa.”

Bổ tiến đến. “Đây là đội của tao. Mày làm việc cho tao và Tara cũng vậy. Tao bảo nó điều khiển cái máy Xén, và nó sẽ làm thế.”

Họ to tiếng với nhau khoảng mười lăm phút. Cuộc cãi vã đó khác với những cuộc cãi vã giữa họ trước đó – không kiềm chế, đây thù hận. Tôi chưa bao giờ thấy ai la lối bố như vậy, và tôi kinh ngạc, rồi sợ hãi, bởi sự thay đổi nét mặt của bố. Mặt bố biến sắc, trở nên rắn đanh, tuyệt vọng. Shawn đã đánh thức điều gì đó trong bố, một nhu cầu căn bản. Bố không thể thua trong trận cãi vã này và quyết giữ thể diện. Nếu tôi không nghe lời bố, điều khiển cái máy Xén, thì bố không còn là bố nữa.

Shawn lao tới, đẩy vào ngực bố. Bố loạng choạng lùi lại, vấp và ngã. Bố nằm trong bùn, bị sốc một lát, sau đó bố lồm cồm bò dậy lao về phía con trai mình. Shawn giơ hai cánh tay lên để đỡ cú đấm, nhưng khi bố nhìn thấy thế bố hạ thấp quả đấm, có lẽ bố nhớ rằng Shawn mới chỉ phục hồi khả năng đi lại cách đó không lâu.

“Tao bảo nó làm việc đó, và nó sẽ làm,” bố nói, giọng trầm đục, đầy giận dữ. “Nếu không, nó sẽ không sống trong nhà của tao.”

Shawn nhìn tôi. Trong chốc lát, anh dường như tính đến việc giúp tôi cuốn gói – suy cho cùng, bằng tuổi tôi anh đã chạy trốn khỏi bố rồi – nhưng tôi lắc đầu. Tôi sẽ không đi, không như vậy. Tôi sẽ điều khiển cái máy Xén, và Shawn biết điều đó. Anh nhìn cái máy đó, sau đó nhìn đống sắt khoảng năm mươi nghìn cân bên cạnh nó. “Con bé sẽ làm thế,” anh nói.

Bố dường như cao thêm cả chục phân nữa. Shawn lảo đảo cúi xuống, cầm một thanh sắt nặng, sau đó nhấc nó về phía cái máy xén.

“Đừng ngốc thế,” bố nói.

“Nếu con bé làm việc đó, thì con cũng làm,” Shawn nói. Thịnh nộ không còn gợn trong giọng nói của anh. Tôi chưa bao giờ thấy Shawn chịu nhượng bộ trước bố, chưa một lần, nhưng anh đã quyết định thua trận này, Anh hiểu rằng nếu anh không phục tùng thì tôi chắc chắn sẽ phục tùng, “Mày là thợ cả trong đội của tao!” Bố hét lên. “Tao cần mày ở Oneida, đừng có dính đến việc thu phế liệu!”

“Vậy thì hãy đóng cái máy Xén lại.”

Bố bỏ đi, vừa đi vừa chửi rủa, giận điên tiết, nhưng có thể bố đang nghĩ rằng trước bữa tối Shawn sẽ thấm mệt và trở lại làm thợ cả. Shawn nhìn bố bỏ đi, sau đó anh quay sang tôi, nói. “Ổn rồi, ‘gai ém’. Nhóc chuyển những thanh sắt này cho anh và anh sẽ đút chúng vào máy. Nếu sắt dày, hơn một phân chẳng hạn, thì anh cần nhóc giữ ở phía sau để anh không bị văng vào lưỡi xén. Được chứ?”

Shawn và tôi điều khiển cái máy xén trong một tháng. Bố cứng đầu đến nỗi không chịu đóng cái máy đó lại, dù việc thiếu một thợ cả khiến bố tốn kém hơn là dùng đèn cắt để cắt sắt. Khi chúng tôi làm xong việc đó, tôi có vài vết thâm tím nhưng không bị thương. Shawn dường như cạn kiệt sinh lực. Mới có vài tháng kể từ khi anh ngã khỏi tấm nâng, và cơ thể anh không thể chịu đựng nổi bị ăn mòn. Nhiều lần anh bị quất trúng đầu khi một thanh sắt bật lên ở một góc bất ngờ. Khi điều đó xảy ra anh ngồi một phút trong bụi đất, hai tay bưng mắt, sau đó mới đứng dậy, đưa tay với thanh sắt tiếp theo. Buổi tối anh để nguyên chiếc sơ mi bẩn và chiếc quần bò đầy bụi đất nằm vật ra sàn bếp, mệt chẳng buồn tắm rửa.

Tôi mang tất cả thức ăn và nước uống anh bảo tôi lấy đến cho anh. Hầu hết các buổi tối Sadie đều đến, và hai chúng tôi cùng chạy lăng xăng khi anh sai đi lấy đá, sau đó bỏ đá đi, rồi lại lấy đá. Cả hai chúng tôi đều là Mắt Cá.

Sáng hôm sau Shawn và tôi lại quay lại với cái máy xén, và anh lại đút sắt vào cái hàm biết nhai với một lực mạnh đến nỗi có thể hất văng anh dễ dàng, đầy bỡn cợt, như thể đó là một trò chơi, còn anh là một đứa trẻ.